7 công trình khoa học vĩ đại thay đổi thế giới ra đời nhờ giấc mơ

Không phải ý tưởng tuyệt vời hay phát minh nào được tìm ra khi nhà khoa học ở trong trạng thái tỉnh táo. Một số trường hợp đặc biệt, ý tưởng xuất chúng xuất hiện khi họ ở trong trạng thái mơ mơ tỉnh tỉnh hoặc trong giấc mộng.

Giấc mơ là những thưởng thức, những ảo tưởng trong trí óc khi ngủ. Khi nói đến giấc mơ, tất cả chúng ta thường chỉ đề cập đến hiện tượng kỳ lạ này ở con người, dù chúng cũng Open ở động vật hoang dã có vú và chim. Các vấn đề trong giấc mơ thường không hề xảy ra được hoặc không giống với trong thực tiễn, chúng thường nằm ngoài sự tinh chỉnh và điều khiển của người mơ .

Ngoại trừ trường hợp giấc mơ tỉnh táo, trong đó người nằm mơ nhận ra rằng họ đang nằm mơ, nhiều lúc hoàn toàn có thể đổi khác thực tại giấc mơ của họ. Những người nằm mơ hoàn toàn có thể trải qua những xúc cảm mãnh liệt khi đang mơ và điều này hoàn toàn có thể tạo cảm hứng cho nhiều phát minh sáng tạo điển hình nổi bật trong âm nhạc hay thẩm mỹ và nghệ thuật .

Trong quá khứ, có không ít nhà khoa học, nhà văn chính nhờ một phần vào giấc mơ cho ra những công trình để đời, khiến hậu thế phải thán phục. Và dưới đây là 7 công trình khoa học vĩ đại sinh ra từ những giấc mơ ngẫu nhiên :

1. Niels Bohr và mô hình nguyên tử

Niels Henrik David Bohr là nhà vật lý học người Đan Mạch với những góp phần nền tảng về kim chỉ nan cấu trúc nguyên tử và cơ học lượng tử sơ khai, nhờ đó mà ông nhận Giải Nobel Vật lý năm 1922. Bohr còn là nhà triết học và tích cực thôi thúc các hoạt động giải trí nghiên cứu khoa học .

Theo một bài viết có tựa đề “ Pillow-Talk : Seamless Interface for Dream Priming Recalling and Playback ” của Edwina Portocarrero tại Viện Công nghệ Massachusetts ( MIT ) và các đồng tác giả cho biết :
“ Niels Bohr cho biết ông tăng trưởng quy mô nguyên tử dựa vào một giấc mơ trong đó ông ngồi trên Mặt Trời với toàn bộ các hành tinh bay xung quanh nó trên những sợi dây thừng nhỏ. ”
Khi tỉnh dậy, ông đã thực thi nghiên cứu và thiết kế xây dựng quy mô nguyên tử gồm một hạt nhân nhỏ mang điện tích dương và các electron chuyển dời xung quanh trên những quỹ đạo khác nhau. Điều này tựa như cấu trúc của Hệ Mặt Trời nhưng lực mê hoặc được thay bằng lực tĩnh điện .

2. Dmitri Mendeleev và bảng tuần hoàn nguyên tố hóa học

Dmitri Mendeleev ( 1834 – 1907 ) lúc bấy giờ muốn sắp xếp 65 nguyên tố hóa học đã biết theo một phương pháp nào đó. Ông biết có một quy mô để phân biệt chúng và quy mô này có liên hệ đến khối lượng nguyên tử. Tuy nhiên, ông vẫn không tài nào định hình cho đến khi có một giấc mơ kỳ lạ .
Trích dẫn trong tài liệu “ Bàn về sự phát minh sáng tạo trong khoa học ” của nhà hóa học người Nga B.M. Kedrov :
“ Trong giấc mơ tôi thấy một tấm bảng, nơi tổng thể các nguyên tố được đặt vào chỗ theo nhu yếu. Khi tỉnh dậy, tôi ngay lập tức viết nó lên một mảnh giấy. ”

Đây là cách bảng tuần hoàn nguyên tố hóa học sinh ra. Cách sắp xếp các nguyên tố mà Mendeleev thấy trong giấc mơ là vô cùng đúng chuẩn. Thậm chí nó còn bật mý rằng, một vài nguyên tố đã bị giám sát không chuẩn. Đặc biệt hơn, chúng được sắp xếp trong bảng tuần hoàn dựa theo khối lượng nguyên tử, vốn chưa được biết đến vào thời đó .

3. Albert Einstein và tốc độ ánh sáng

Mục sư John W. Price nói trong buổi phỏng vấn với John H. Lienhard, giáo sư đã về hưu ngành kỹ thuật cơ khí và lịch sử dân tộc tại trường Đại học Houston, Mỹ trong radio show “ Engines of Our Ingenuity ” ( tạm dịch Các cỗ máy của trí tuệ tất cả chúng ta ) :
“ Einstein từng nói rằng hàng loạt sự nghiệp của ông là sự suy ngẫm lan rộng ra dựa trên một giấc mơ thời niên thiếu ! ”

Trong giấc mơ, Einstein thấy mình cưỡi trên một chiếc xe trượt tuyết đang xuống dốc rất nhanh. Khi Einstein và chiếc xe vận động và di chuyển gần bằng vận tốc ánh sáng, toàn bộ các sắc tố trộn lẫn thành một. Lấy cảm hứng từ giấc mơ đó, ông đã dành phần nhiều sự nghiệp của mình để tâm lý về những gì xảy ra ở tầm vận tốc ánh sáng .

4. Elias Howe và máy khâu

Tên tuổi Elias Howe (1819-1867) gắn liền với chiếc máy khâu. Nhưng thực tế ông không phải là người phát minh ra máy khâu mà chỉ cải tiến đáng kể những thiết kế trước đó và nhận bằng sáng chế của Mỹ cho chiếc máy khâu sử dụng mũi khâu chằng/vắt sổ.

Đây là một bước tăng trưởng đáng kể trong việc sản xuất máy may tân tiến. Tuy nhiên, trước đó ông lại bị tắc ở quy trình tìm chỗ đặt đầu mũi kim .

Howe nằm mơ phải sản xuất chiếc máy may cho một vị vua tàn khốc ở một quốc gia lạ lẫm. Vị vua nhu yếu phải hoàn thành xong nó trong 24 giờ. Do không hoàn thành xong đúng thời hạn nên ông bị đem đi xử tử. Trong lúc thi hành án, Howe nhận thấy binh lính cầm cây giáo có lỗ xuyên qua ở phần đầu. Ngay lập tức ông phát hiện ra cách xử lý yếu tố và bất chợt tỉnh giấc .
Sau đó, Elias Howe bắt tay ngay vào việc làm. Howe phong cách thiết kế ra loại kim cong, đặt lỗ kim ở đầu nhọn ( trước đây đặt ở chân kim ) và phối hợp với con suốt chỉ tạo nên đường may .

5.  Friedrich August Kekulé và cấu trúc phân tử của benzen

Benzen là hợp chất hữu cơ được nhà khoa học người Anh Michael Faraday ( 1791 – 1867 ) phát hiện từ năm 1825 nhưng cấu trúc của nó vẫn còn là một huyền bí lớn thời bấy giờ. Nhiều nhà khoa học biết rằng cấu trúc benzen rất đối xứng nhưng lại không tưởng tượng ra được là 6 nguyên tử carbon hóa trị 4 và 6 nguyên tử hydro hóa trị 1 sắp xếp đối xứng với nhau như thế nào để không thay đổi .
Năm 1865, Friedrich August Kekulé ( 1829 – 1896 ) đã tăng trưởng một kim chỉ nan về cấu trúc hóa học tương quan đến trật tự link của các nguyên tử trong phân tử. Và đặc biệt quan trọng hơn là ông phát hiện ra cấu trúc dạng vòng của benzen khi ngủ gật trên xe buýt .
Kekulé nói :
“ Khi đang ngồi chuyến xe buýt cuối qua những con phố im re, tôi chìm vào trạng thái mơ màng. Các nguyên tử nhảy nhót trước mắt tôi và liên tục hoạt động. Tôi thấy hai nguyên tử nhỏ link với nhau theo cặp, một nguyên tử lớn hơn gắn chặt với hai nguyên tử nhỏ hơn, đồng thời những nguyên tử lớn hơn link với nhau thành chuỗi cùng với hình ảnh một con rắn quay đầu ngậm chính cái đuôi của mình và xoay tròn trước mặt. ”

Ngay đêm hôm đó, Kekulé đã phác thảo lại giấc mơ và hiểu rằng đó chính là cấu trúc của benzen với hình lục giác với mỗi đỉnh là một nguyên tử cacbon .

6. Otto Loewi và đường dẫn thần kinh

Đêm trước lễ Phục sinh năm 1921, nhà sinh vật học người Áo Otto Loewi ( 1873 – 1961 ) bất chợt tỉnh giấc và ghi chép lại một cách vô thức những gì thấy trong giấc mơ. Hôm sau, khi đang ngủ, ý tưởng sáng tạo vừa qua quay trở lại. Giấc mơ đó chính phương pháp thực nghiệm chứng tỏ giả thuyết mà Loewi đưa ra 17 năm trước đúng chuẩn hay không .
Sau đó, Loewi liền tỉnh dạy và đến ngay phòng thí nghiệm, mổ lấy 2 quả tim ếch đem ngâm nước muối sinh lý, một quả tim giữ lại dây thần kinh số 10, quả thứ hai không có dây thần kinh số 10 .
Tiếp theo, ông dùng điện cực kích thích dây thần kinh số 10 của quả tim thứ nhất khiến nó đập chậm. Sau đó mấy phút, đem dung dịch ngâm quả tim thứ nhất chuyển vào dụng cụ đang chứa quả tim thứ hai .

Kết quả, quả tim thứ hai cũng khởi đầu đập phập phồng và Loewi xác nhận rằng các nơ-ron thần kinh hoàn toàn có thể liên lạc với nhau bằng cách giải phóng các chất hóa học. Nhờ phát hiện này, Loewi nhận được phần thưởng Nobel về Y học năm 1936 .

7. Mary Shelley và tiểu thuyết Frankenstein

Tên tuổi của nữ nhà văn Mary Shelley ( 1797 – 1851 ) gắn liền với tiểu thuyết để đời “ Frankenstein ” và đồng thời bà là vợ của nhà thơ lãng mạn Percy Shelley ( 1792 – 1822 ) .
Trong một lần đi nghỉ mát cùng chồng với nhà thơ Lord Byron ( 1788 – 1824 ) và nhà văn John Polidori ( 1795 – 1821 ) bên hồ Geneva, Thụy Sĩ, Byron đã đặt ra cuộc thi viết truyện kinh dị giữa bốn người .

Trong một đêm mưa gió bão bùng, Mary nằm mơ thấy một cảnh chàng sinh viên đang quỳ trước một vật thể có hình dáng như người đàn ông nhưng các bộ phận được ghép từ những khung hình khác nhau. Và đó là sáng tạo độc đáo sinh ra tiểu thuyết “ Frankenstein ” vào năm 1816 và được bà triển khai xong khi mới 20 tuổi .

“Frankenstein”  là câu chuyện về chàng sinh viên Victor Frankenstein tạo ra một sinh vật rất sống động từ nội tạng của người đã chết nhưng sau đó anh ta lại vứt bỏ đi “đứa con tinh thần của mình”. 

Vì lòng hận thù với gia chủ, sinh vật kia quyết định hành động trả thù bằng cách giết chết vợ của Frankenstein và sau đó là giết chính người tạo ra mình .

Tiểu thuyết đã tạo ra một sự chấn động lớn trong xã hội, cảnh báo nhắc nhở chống lại sự tăng trưởng công nghiệp của con người văn minh. Câu truyện có tác động ảnh hưởng lớn về văn học và Văn hoá đại chúng, còn nối tới thể loại truyện hay phim kinh dị. Nó được coi là câu truyện tiên phong phản ánh thật sự về tiểu thuyết khoa học giả tưởng, tập trung chuyên sâu về yếu tố như Chúa Giê-xu hoàn toàn có thể tạo sự sống từ vật chất. Sau này, rất nhiều vở kịch và bộ phim được dựng lên từ tiểu thuyết tầm cỡ của Mary Shelley .
Sơn Tùng