Bản Đồ Mười Pháp Giới Giảng Giải – 10 Phương Pháp Giới là gì?

Bản Đồ Mười Pháp Giới còn gọi là Mười phương pháp giới, đây cũng chính là Thế giới quan của Đạo Phật, gồm có :

  1. Pháp giới của Phật .
  2. Pháp giới của Bồ Tát .
  3. Pháp giới của Duyên giác.

  4. Pháp giới của Thanh Văn .
  5. Pháp giới của Chư Thiên .
  6. Pháp giới của A Tu La .
  7. Pháp giới của Người .
  8. Pháp giới của Súc sanh .
  9. Pháp giới của Ngạ quỷ .
  10. Pháp giới của Địa Ngục .

Bản đồ mười Pháp giới này vô thỉ kiếp đến nay do tự nhiên mà có. Đức Phật nhìn thấy bằng Tuệ giác của Ngài và dạy cho tất cả chúng ta biết, chớ không phải Ngài tạo ra 10 pháp giới đâu nhé .

Bản đồ mười Pháp giới

Bản đồ mười Pháp giới : Pháp Giới duy Tâm tạo

Hòa Thượng Tuyên Hóa giảng : ” Mười Pháp Giới Không Ngoài Một Niệm Của Tâm. Mười Pháp-giới từ đâu lại ? Chính từ tâm ta hiện tiền một ý niệm ra .

Nhược nhân dục liễu tri
Tam thế nhất thiết Phật .
Ưng quán Pháp-giới tánh ,
Nhất thiết duy tâm tạo .

Dịch :

Nếu ai muốn thấu rõ
Ba đời toàn bộ Phật ,
Hãy quán tánh Pháp-giới ,
Tất cả chỉ tâm tạo .

Nếu ai muốn thấu rõ :

Nếu có ai muốn hiểu biết rõ ràng Ba đời toàn bộ Phật, thì phải hiểu chư Phật trong mười phương trong đời quá khứ, hiện tại, và vị lai đều do người mà thành .

Hãy quán tánh Pháp-giới:

Hãy quan sát tánh chất của Pháp-giới. Chúng sinh trong Pháp-giới, ai ai cũng có bản tính. Bạn có tánh của bạn, tôi có tánh của tôi. Như tánh nóng nảy của bạn thì dữ dằn hơn tôi một chút ít, tuy nhiên tánh khó chịu của tôi thì sâu đậm hơn bạn một chút ít .
Như vậy bạn thấy có giống nhau chăng ? Heo có tánh heo, ngựa có tánh ngựa, đàn ông có nam tánh, đàn bà có nữ tánh … Ai cũng có tánh riêng. Kẻ thích ăn ngọt thì có tính hảo ngọt ; thích ăn chua, thì có tính chua chát ; thích ăn cay thì có tính nóng nảy ; thích ăn đắng thì có tính chịu đắng. Tu hành là việc có tính đắng. Cây thì có tính cây, hoa có tính hoa, cỏ có tính cỏ … Cái gì cũng có tánh riêng. Do đó mới có Tánh của Pháp-giới. Quý-vị đã hiểu chưa ? Khi xưa quý-vị hiểu nhầm, cho rằng tánh của Pháp-giới, giờ đây nên hiểu rằng “ tánh của chúng sinh ” ở trong Pháp-giới .

Tất cả chỉ tâm tạo :

Kinh Hoa Nghiêm dạy rằng : Vạn Pháp đều do tâm tạo ra. Ngay cả Phật cũng do tâm quý-vị tạo ra đó. Nếu tâm quý-vị tu Pháp Phật thì thành Phật đạo. Nếu quý-vị thích Bồ-tát hạnh thì tu Bồ-tát đạo, thành một vị Bồ-tát. Nếu quý-vị lòng muốn đọa âm ti thì cứ nhắm hướng địa ngục mà tu thì tương lai sẽ đọa âm ti. Cho nên nói : Mười Pháp-giới không rời một niệm tâm này .

Bản Đồ Mười Pháp giới : 1. Pháp Giới của Phật

Bất đại bất tiểu, phi khứ phi lai
Vi trần thế giới, giao ánh liên đài .

Nghĩa là:

Không lớn không bé, chẳng đến chẳng đi .
Thế giới như bụi, đài sen chiếu nhau .

Bất đại bất tiểu :

Khi lần đầu tôi nghe đến chữ Phạn Buddha, nó nghe từa tựa như chữ Bất đại ( bủ tá ) trong tiếng Nước Trung Hoa. Cái gì không to lớn ? Thì là Phật. Nghĩa là Phật không có lòng cống cao, ngã mạn, không có cái Ngã. Bất tiểu là nói Phật cũng không nhỏ bé đâu. Nếu không to lớn, mà nhỏ bé thì không phải là Phật. Phật thì không lớn không nhỏ .

Phi khứ phi lai :

Pháp thân của Phật thì bao trùm tận hư không biến khắp Pháp-giới ; không ở mà cũng chẳng đi. Nếu nói rằng pháp thân đi, thì đi tới nơi đâu ? Nói rằng pháp thân đến, thì đến chỗ nào ? Pháp thân thì vốn châu biến, chẳng phải chỉ ở tại quốc tế của ta mà là ở khắp mọi quốc tế nhiều như hạt bụi. Vô lượng vô biên quốc tế đều có pháp thân Phật, nên nói rằng thân Ngài ở vi trần thế giới .

Giao ánh liên đài :

Giao ánh diễn đạt hào quang của Phật ở Pháp-giới này chiếu sáng chư Phật ở Pháp-giới kia. Hào quang của Phật ở Pháp-giới kia lại chiếu sáng Pháp-giới này. Chư Phật ngự trên đài sen, hổ tương phóng quang động địa, chẳng những những Ngài dùng sáu căn phóng quang động địa mà mỗi lỗ chân lông đều phóng quang động địa .
Cũng trong một chân lông Open vô lượng vô biên chư Phật, rồi mỗi một vị Phật ấy lại phóng ra vô lượng vô biên hào quang. Quang và quang không chút xung đột, mà ngược lại, hòa hợp. Vì vậy Phật-tử tất cả chúng ta phải hòa hợp như ánh quang minh vậy. Giữa người với người, chớ sinh ra sự xung đột .
Sự giao ánh có nghĩa là ánh sáng của bạn chiếu tới tôi, ánh sáng của tôi soi tới bạn ; quang quang tương chiếu, hệt như sự tương thông của mỗi lỗ trên võng la tràng ( lưới ) ở trời Ðại Phạm Thiên Vương vậy. Ánh sáng từ cái võng ấy, lớp nầy chiếu lên lớp nọ, trùng trùng vô tận. Ðó là Pháp-giới thứ nhất, Pháp-giới của Phật .

Bản Đồ Mười Pháp giới : 2 .Pháp Giới của Bồ Tát

Hữu tình giác ngộ ,
Khiêu xuất trần ai .
Lục độ vạn hạnh ,
Thời khắc bồi tài .

Nghĩa là:

Khi hữu tình giác ngộ ,
Hãy thoát khỏi bụi trần .
Lục độ vạn hạnh ,
Lúc nào cũng dưỡng dũ .

Hữu tình giác ngộ :

Bồ-tát là tiếng Phạn, dịch là “ giác hữu tình, ” giác ngộ toàn bộ hữu tình. Lại còn được hiểu rằng Bồ-tát là một vị hữu tình đã giác ngộ. Với hai cách lý giải này tất cả chúng ta đều có phần. Bởi vì mình là một hữu tình chúng sinh, do đó mình hoàn toàn có thể làm kẻ giác ngộ trong chúng sinh. Mình lại hoàn toàn có thể dùng đạo lý giác ngộ để thức tỉnh tổng thể chúng sinh .
Cũng vậy, Phật ví như người lớn, còn tất cả chúng ta ví như con nít. Mỗi ngày mình phải uống sữa, phải nghe Pháp, bởi nghe Pháp khiến mình tăng trưởng thiện căn, đặc biệt quan trọng làm mình khai trí huệ. Do đó khi có thời cơ nghe giảng Phật-pháp, thời cơ ấy giá trị hơn bất kể đồng xu tiền nào mình làm ra. Có được thời giờ để nghiên cứu và điều tra Phật-pháp, chẳng phải là tuyệt vời sao ?
Tôi kỳ vọng những người ở đây bớt đi du lịch. Vì sao ? Bởi vì du lịch lúc này rất nguy hại. Quý-vị xem : Cứ mỗi kỳ hè người tử nạn nào phải chỉ có một, chắc rằng nhiều lắm. Do đó, nếu đi du lịch thì biết đâu quý-vị có phần trong số cố nạn nhân ? Ở Mỹ, ai cũng ham vui, thích đi du lịch. Tín đồ Phật-giáo mình phải cải tổ thói quen ấy. Ngày nghỉ hè, hãy dành thời hạn điều tra và nghiên cứu Phật-pháp, tụng Kinh, niệm Chú, lạy Phật là tốt hơn hết .
Bồ-tát là một vị hữu tình đã giác ngộ. Trong tổng thể bậcị giác ngộ, Ngài là vị hiểu thấu suốt. Trong tổng thể vị hiểu thấu suốt, Ngài là vị tu hành. Trong toàn bộ vị tu hành, Ngài là người tu tập rất chân thực .

Khiêu xuất trần ai :

Nếu quý-vị không thông hiểu thì không sao nhảy thoát ra khỏi bụi trần, do tại bụi trần quá rậm rạp nên nhảy không ra nổi. Nếu quý-vị giác ngộ rồi, thì bụi trần sẽ mỏng mảnh lắm, nhảy là thoát ngay. Nhưng nhảy ra rồi thì làm gì ? Phải chăng chỉ có ăn với nghỉ ? Ðúng đó, quý-vị vẫn phải nhà hàng, ngủ nghỉ, mặc áo ; tuy nhiên không phải chỉ có thế. Quý-vị chẳng sống vì làm ba chuyện ấy. Quý-vị sống là để tu Lục-độ-vạn-hạnh. Lục-độ tức là bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định và trí huệ .
Có người nói : “ Tôi biết rồi, bố thí tức là dạy người ta bố thí cho mình. ” Không phải đâu ! Mình phải bố thí cho người. Ðừng nên ham tiền. Tiền là thứ dơ bẩn lắm. Nếu thân mật nó lâu ngày, quý-vị sẽ dính phải bụi dơ của nó. Do đó, hễ không tham tiền, bạn sẽ thanh tịnh, nhảy vọt ra khỏi chốn bụi bặm bụi bờ .

Thời khắc tài bồi :

Chẳng phải thời nay tu, ngày mai nghỉ tu ; năm nay tu, sang năm ngừng ; tháng này tu, tháng sau nghỉ ; đời này tu, đời sau bỏ ; phút này tu, phút sau ngủ. Không phải như vậy đâu ! Trong mọi lúc, mọi thời, mọi đời, mọi kiếp, mình phải tu lục độ vạn hạnh. Nếu đuợc như vậy thì quý-vị là Bồ-tát rồi đó .
Quý-vị tưởng rằng làm Bồ-tát dễ lắm sao ? Chẳng dễ đâu ! Chẳng những không dễ làm Bồ-tát, ngay cả làm Duyên Giác, Thanh Văn cũng chẳng dễ. Làm gì thuận tiện nhất ? Làm quỷ, đọa âm ti, thành quái vật là việc thuận tiện nhất. “ Khó ” tức là không dễ. Do vậy, Bồ-tát cần làm những việc khổ hạnh ai cũng cho là khó làm, nhẫn nhịn những việc khó nhẫn nhịn. Chẳng phải thấy khó rồi bỏ không làm. Quý-vị hãy lao vào tiến bước, chính bới kẻ tinh tấn tức là Bồ-tát. Chỉ có vậy. Chẳng có gì xảo diệu hơn đâu. Nếu hoàn toàn có thể thao tác không ai làm đặng, quý-vị mới là Bồ-tát .

Bản Đồ Mười Pháp giới : 3 .Pháp Giới của Duyên Giác

Duyên Giác Thánh Hiền ,
Cô phong độc miên .
Xuân hoa thu tạ ,
Thập nhị liên hoàn .

Nghĩa là:

Thánh Hiền đấng Duyên Giác ,
Chót đỉnh một mình ngủ .
Hoa xuân, thu héo tàn ,
Vòng tròn, mười hai khoen .

Duyên Giác Thánh Hiền :

Duyên Giác là bậc Thánh Hiền, lúc những Ngài ở thời Phật tại thế thì gọi là Duyên Giác ; sau khi Phật nhập diệt, thì những Ngài được gọi là Ðộc Giác, chính do những Ngài tự mình giác ngộ. Các Ngài thích “ cô phong độc miên, ” ngủ một mình trên đỉnh chót vót. Xuân hoa thu tạ : Khi những Ngài ngắm nhìn cảnh “ xuân đến, trăm hoa nở ; thu về, lá vàng rơi. ” Ngài giác ngộ rằng mọi sự, mọi việc trên đời đều tự nhiên có sinh có diệt. Thập nhị liên hoàn : Do đó những Ngài quan sát mười hai nhân duyên ( hổ tương tiếp nối sinh diệt giống như mười hai móc khoen của dây xích. ) Mười hai nhân duyên đó như sau :

  1. Vô Minh : Các Ngài quán sát xem vô minh từ đâu ra ? Vì sao có vô minh ?
  2. Hành : Khi có vô minh thì có hành vi, tức là có sự biểu lộ, hiện bày. Khi có chỗ hiển bày thì có thức .
  3. Thức : Thức nghĩa là sự phân biệt. Hành tức là pháp hữu vi. Khi có pháp hữu vi, tâm phân biệt liền sinh khởi. Có tâm phân biệt thì có chuyện rắc rối rồi đấy !

    *
  4. Danh sắc : Cái rắc rối ấy chính là danh sắc. Danh ( hay tên ) thì có rắc rối của danh. Sắc ( hình hài ) thì có rắc rối của sắc. Có danh sắc là có rắc rối ; có rắc rối chính vì có danh sắc. Không nói thì chẳng sao, càng nói về nó thì càng rắc rối. Giảng về nó là kéo ra rắc rối. Khi tôi chưa giảng, quý-vị vốn không biết, nên không có gì rắc rối. Một khi tôi giảng ra, quý-vị không hiểu, thì có sự rắc rối của việc không hiểu. Vì có sự rắc rối do không hiểu biết, nên quý-vị muốn hiểu. Có ý muốn hiểu biết nên sinh ra lục nhập ( sáu căn ) .
  5. Lục Nhập : Sáu căn sinh ra là vì muốn hiểu biết. Do đó nên gọi là tai, mắt, mũi, lưỡi, thân và ý tưởng sáng tạo. Vì sao sinh khởi lục nhập ? Vì muốn hiểu biết. Có ai ngờ rằng càng hiểu biết thì ta càng mê muội, càng mê muội thì càng không hiểu biết. Ðó là sáu căn .
  6. Xúc : Xúc nghĩa là xúc chạm, tiếp xúc. Khi không hiểu biết thì ta cứ chạy xúc chạm đủ phía : nào đông, tây, nam, bắc, trên, dưới. Giống như con ruồi cứ bay đâm chạm vào tường hoài. Vì sao ta cần xúc chạm ? Vì ta muốn hiểu biết .

  7. Thọ : Sau khi tiếp xúc, thì ta có cảm xúc, đó là thọ. Khi không đụng phải việc khó khăn vất vả, cảm xúc rất tự do. Một khi đụng việc khó, mới thấy không dễ chịu. Khi không ai chê mình xấu, mình thấy sung sướng lắm. Tới lúc bị chê, mới thấy không vui. Ðó tức là thọ, hay cảm xúc .

    *
  8. Ái : Khi có cảm xúc thì yêu dấu, chấp trước sinh ra. Tại sao người ta có cảm xúc không an tâm ? Bởi vì có ái. Có ái, có thương mến thì có ghét bỏ, không thích. Ðối với thuận cảnh thì sinh lòng thương mến ; với nghịch cảnh thì ghét bỏ. Vì sao mình vui ? Vì sao mình không vui ? Tất cả đều vì có ái và ố. ố nghĩa là không thương mến, ghét bỏ. Vì vậy càng ngày vấn đề càng rắc rối .
  9. Thủ : Ðối với cái gì mình thương mến, thì sinh tâm muốn nắm giữ nó, tức là thủ. Thủ là gì ? Là chấp trước, muốn chiếm hữu, nắm giữ. Bởi vì có ái nên mới có lòng muốn chiếm đoạt .
  10. Hữu : Khi đã chiếm hữu rồi, dục vọng liền thỏa mãn nhu cầu. Vì sao mình muốn thỏa mãn nhu cầu dục vọng ? Vì muốn có nó. Do đó mới có “ hữu ” tức là “ có. ”
  11. Sinh : Vì có cái “ hữu ” nghĩa là “ có, hiện hữu, ” nên cứ muốn nó thuộc về mình. Khi đã thuộc về mình, thì liền có “ sinh. ”
  12. Lão tử : Hễ có sinh ra thì có già, chết .

Ðó là mười hai nhân duyên, là Pháp bậc Duyên Giác tu hành .

Bản Đồ Mười Pháp giới : 4 .Pháp Giới của Thanh Văn

Thanh Văn chúng Tăng
Bất luận nam nữ
Tứ đế quán hành
ẩn thật, thị quyền .

Thanh Văn chúng tăng :

Pháp-giới của Thanh Văn gồm có những bậc sơ quả, nhị quả, tam quả, tứ quả Thanh Văn. Trong đó lại chia thành : sơ quả hướng ( chưa chính thức chứng đắc sơ quả ), sơ quả, nhị quả hướng, nhị quả, tam quả hướng, tam quả, tứ quả hướng, tứ quả. Hướng có nghĩa là hồi tiểu hướng đại ( bỏ cái nhỏ hướng về cái lớn ) .
Hàng Thanh Văn còn được gọi là A-la-hán hay La Hán. Các Ngài có thần thông hoàn toàn có thể phi hành biến hóa. Các vị chứng quả, không khi nào tùy tiện thố lộ rằng : “ Ta đã chứng quả, ta là bậc A-la-hán. ” Ðó là việc không được làm. Khi bậc Thánh chứng quả, chân họ đi dép chẳng chạm đất. Bạn thấy họ có vẻ như đi bộ trên mặt đất, nhưng thật ra họ bước trong hư không, dép không hề chạm đất. Thậm chí khi đạp trên bùn nhơ, dép họ thật sạch vô cùng. Ví như Hòa-thượng Pháp Thuận, khi Ngài dẫm chân lên bùn lầy lội, giày dép Ngài chẳng lấm tí bùn nào. Ðó là tín hiệu của kẻ chứng thánh quả .
Bậc sơ quả A-la-hán thì phải cắt đứt những mê muội của cái thấy ( kiến hoặc ). Bậc nhị quả thì cần đoạn những mê hoặc của tâm tư nguyện vọng ( tư hoặc ). Bậc tam quả thì phải đoạn những mê muội vi tế như cát bụi ( trần sa hoặc ). Bậc tứ quả cũng phải đoạn trần sa hoặc và vô minh. Hoặc đoạn trừ một chút ít vô minh quét sạch trọn vẹn thì quý-vị sẽ thành Phật .

* * * Bản Đồ Mười Pháp Giới giảng giải * * *

Do đó những vị Bồ-tát và Duyên Giác vẫn còn một phần vô minh rất vi tế gọi là sinh tướng vô minh ( vô minh ở trạng thái nẩy sinh ) chưa đoạn trừ, do đó những Ngài chưa thành Phật được. Bậc tứ quả Thanh Văn tu hành pháp môn gì ? Các Ngài tu Tứ Diệu Ðế : Khổ, Tập, Diệt, Ðạo .
Lúc ban sơ, Ðức Phật Thích Ca tới vườn Lộc Uyển để độ năm vị Tỳ-kheo. Năm vị này đều là bà con của Ngài. Họ theo Ngài tu đạo, tuy nhiên không chịu đựng nổi khổ nhọc. Lúc Ðức Phật Thích Ca ở núi Tuyết Sơn, mỗi ngày Ngài ăn một hột mè, một hạt mạch, ốm gầy như cây sậy. Ba vị đồng tu với Ngài, vì chịu không nổi khổ nên bỏ đi, chỉ còn lại hai vị .
Về sau, vào ngày tám tháng chạp, có vị thiên nữ đem sữa lại dâng Ðức Phật Thích Ca ; Ngài liền đảm nhiệm, uống sữa ấy khiến hai vị kia cũng bỏ Ngài đi. Họ nói rằng : “ Tu hành cần phải tu khổ hạnh. Bây giờ Ngài uống sữa, chẳng còn năng lực tu hành nữa. Ngài chẳng chịu đựng khổ sở được nữa rồi. ” Do đó họ bỏ đi. Thế là cả năm vị đều bỏ đi, tới vườn Lộc Uyển .

*

Ðức Phật Thích Ca sau khi giác ngộ thành Phật, Ngài thuyết Kinh Hoa Nghiêm trước hết, tuy nhiên chẳng người nào nghe đặng. Vì thế Ngài phải ẩn thật thị quyền ( dấu cái chân thực, thị hiện cái quyền biến ), mới thuyết Kinh A Hàm. Song nói Kinh này với ai đây ? Phật quan sát rằng : “ A ! Thì là năm vị đồng tu với ta khi trước chớ ai ! Ta phải độ họ thứ nhất. ”
Ðó là vì trong quá khứ thời xưa Phật có phát nguyện : “ Nếu ta thành Phật, trước hết ta sẽ độ cho toàn bộ kẻ hủy báng ta, sát hại ta, so với ta không tốt. ” Ai là kẻ cư xử không tốt với Ngài xưa kia ? Thì chính là vua Ca-Lợi mà Kinh Kim Cang đề cập tới .
Khi Ðức Phật Thích Ca ở nơi nhân địa tu hành, làm một vị tiên nhân nhẫn nhục thì có Ca Lợi Vương lại cắt xén thân thể Ngài. Vì sao y cắt xén thân Ngài ?
Bởi vì Ngài ở núi tu đạo, thân Ngài bụi bờ đóng dầy. Ngài lại không xuống núi, cứ ở mãi trên ấy dụng công tu trì khổ hạnh. Bữa nọ, Ca Lợi Vương đem theo những cô cung tần mỹ nữ săn bắn ở chốn núi sâu ấy. Các cô vốn ham vui nên không theo vua đi săn mà lại leo núi chơi. Vua Ca Lợi đi săn về, tìm những cô thì chợt thấy những cô đang tụm lại một chỗ chuyện trò với một nhân vật kỳ quái. Có cô thì rờ tay, có cô sờ chân vị ấy, coi bộ chẳng giữ phép tắc gì cả .

* * * Bản Đồ Mười Pháp Giới giảng giải * * *

A ha ! Vua sinh lòng ghen tuông, mới bước tới nghe xem vị kia nói gì ? Thì chỉ nghe vị ấy nói toàn là việc tu hành, tu đạo ! Vua nổi giận, mắng : “ Nhà ngươi không được lừa bịp những cung nữ của ta ! Ngươi tu hành cái đạo gì hả ? ”
Vị tiên nhân đáp : “ Tôi tu nhẫn nhục. ”
“ Thế nào là nhẫn nhục ? ”
“ Thì tức là ai chửi rủa tôi, ai đánh đập tôi, tôi không sinh lòng sân hận. ”
“ Ngươi hoàn toàn có thể nhẫn nhục sao ? Thật hả ? Hay là giả ? ”
“ Ðương nhiên là thật rồi ! ”
“ Ðược, ta sẽ thử nhà ngươi xem ! ”
Nói rồi vua Ca Lợi liền tuốt kiếm xông tới, chém cụt cánh tay của vị tiên nhân. Vua nói : “ Ta đã chém đứt cánh tay của ngươi, ngươi có nóng giận chăng ? ”
Vị tiên nhân đáp : “ Tôi chẳng sân hận đâu. ”
“ A ! Tốt lắm ! Ngươi chẳng sân hận, đúng là có chút bản lĩnh. Song ngươi chỉ nói dối, lòng ngươi hẳn khó chịu lắm, mà miệng thì cứ chối không nổi nóng để lừa ta ! Ta là kẻ sáng suốt lắm, đời nào để ngươi lừa. Ðược. Ngươi nói ngươi hoàn toàn có thể nhẫn nhục, không nổi giận, vậy thì cánh tay kia, ta cắt cụt luôn !
Nói xong, vua chém nốt cánh tay kia, và hỏi rằng : “ Ngươi có sân hận hay không hả ? ”
Vị tiên nhân đáp rằng : “ Tôi vẫn không sân hận đâu. ”
Lúc ấy vua Ca Lợi lại cầm kiếm chém nốt hai chân Ngài, xong lại hỏi : “ Ngươi có giận hay chăng ? ”

*

Vị tiên nhân vẫn vấn đáp : “ Tôi vẫn không tức giận đâu. Làm sao chứng tỏ cho lời tôi đây ? Nếu quả thật tôi tức giận Ngài, chân tay tôi không phục sinh đặng. Nếu tôi chẳng hề có chút lòng sân giận, chân tay tôi sẽ mọc ra như cũ. Ðó là dẫn chứng tôi không có lòng tức giận. ”
Khi vị tiên nhân, tức tiền thân Ðức Phật Thích Ca, thốt ra lời ấy rồi, chân tay Ngài quả nhiên mọc ra như cũ .
Bấy giờ thiên long bát bộ, hộ Pháp thiện thần, khi thấy vua Ca Lợi gian ác dám cắt tứ chi của kẻ tu hành như vậy thì họ liền hiển oai thần, giáng mưa đá xuống người vua Ca Lợi. Lúc ấy vua biết sự lợi hại, thấy được thần thông biến hóa của vị tiên, nên vua liền chạy đến quỳ trước mặt vị tiên nhân, xin sám hối .
Vị tiên ấy mới phát nguyện rằng : “ Nếu ta không thành Phật thì chẳng có gì đáng nói. Nếu ngày nào đó ta thành Phật, ta sẽ độ cho ông thành Phật trước hết. Nếu ông không khai ngộ, không thành Phật, ta cũng chẳng thành Phật. ”
Vì vậy sau khi Phật thành Phật rồi, Ngài liền đến vườn Lộc Uyển độ ông Kiều Trần Như thứ nhất. Vị tiên nhân chính là Ðức Phật Thích Ca, mà Kiều Trần Như chính là vua Ca Lợi .

* * * Bản Đồ Mười Pháp Giới giảng giải * * *

Khi nghe đến công án trên, mình phải biết rằng : ai so với mình không tốt, mình phải phát nguyện khi thành Phật mình độ họ ngay. Chẳng nên nói : “ Mày cư xử tệ hại với tao quá. Chờ tới lúc thành Phật, tao sẽ làm mày rớt xuống âm ti cho coi ! ” Chẳng nên có nguyện vọng như vậy .
Khi đến vườn Lộc Uyển, Ngài ba lần giảng Pháp Tứ Ðế ( gọi là tam chuyển Tứ Ðế Pháp Luân ) cho năm vị tỳ kheo :
Lần đầu chuyển Pháp Tứ Ðế là :
Ðây là Khổ. Tánh của khổ là bức bách .
Ðây là Tập ( nguyên do của khổ ). Tánh của tập là chiêu cảm .
Ðây là Diệt ( chấm hết đau khổ ). Sự dứt khổ hoàn toàn có thể chứng đắc .
Ðây là Ðạo ( con đường dứt khổ ). Con đường dứt khổ hoàn toàn có thể tu tập đặng .
Lần thứ hai chuyển Pháp Tứ Ðế là :
Ðây là khổ, con phải biết .
Ðây là nguyên do của khổ, con phải đoạn trừ .
Ðây là sự hết khổ, con phải chứng đắc .
Ðây là con đường hết khổ, con phải tu tập .
Lần thứ ba chuyển Pháp Tứ Ðế là :

*

Ðây là khổ, ta đã biết, không cần biết thêm nữa .
Ðây là nguyên do của khổ, ta đã đoạn hết, không cần đoạn thêm nữa .
Ðây là sự hết khổ, ta đã dứt sạch, không cần dứt thêm gì nữa .
Ðây là con đường hết khổ, ta đã tu thành, không cần tu thêm nữa .
Khi Phật ba lần quay bánh xe Pháp Tứ Ðế rồi, Ngài dạy rằng : “ Này Kiều Trần Như, hiện giờ ông đang bị khách-trần quấy nhiễu, khiến ông chẳng đặng giải thoát. ” Khi Kiều Trần Như nghe tới hai chữ khách-trần thì Ngài liền khai ngộ. Sao gọi là khách ? Tức không phải ông chủ. Sao gọi là trần ? Trần hay bụi bờ là thứ không thật sạch. Tự tánh của ta vốn là ông chủ, tự tánh của ta vốn thanh tịnh. Do đó Ngài khai ngộ nó, được Phật đặt tên là “ Giải Bổn Tế, ” nghĩa là thông đạt lý giải chân lý sẵn có lâu nay .

*

Thanh Văn tăng chúng “ Bất luận nam nữ ; ” Người nữ cũng hoàn toàn có thể chứng quả, người nam cũng chứng được quả. Hễ chứng quả tức thành Thanh Văn, A-la-hán. Ví như mẹ của Ngài Cưu Ma La Thập đã chứng đặng tam quả A-la-hán .
Tứ Ðế Quán Hành : Quán Hành nghĩa là quán sát tu hành. Quán sát tu hành gì ? Tức là Tứ Ðế : Khổ tập diệt đạo. Phải biết khổ, đoạn trừ tập nhân, hướng về diệt, tu hành đạo Pháp. Ðó là tu Pháp môn Tứ Ðế .

Ẩn thật thị quyền: Các bậc Thanh Văn này, có Ngài vốn là bậc đại Bồ-tát quyền biến hiện ra thành Thanh Văn. Do đó mới gọi là “ẩn thật,” nghĩa là dấu đi công đức thật có của các Ngài. “Thị quyền;” thị nghĩa là chỉ thị, cho thấy; quyền nghĩa là quyền xảo, phương tiện. Quý-vị chớ cho họ là Thanh Văn, là tiểu thừa rồi xem thường họ. Ðừng nên làm thế. Không phải ai trong các Ngài Thanh Văn đều là Bồ-tát, song nhất định rằng trong các vị ấy có vị là đại thừa Bồ-tát. Ngài hiện thành kẻ tiểu thừa để tiếp dẫn kẻ căn cơ tiểu thừa, khiến họ bỏ tâm nhỏ hẹp, phát tâm rộng lớn. Do đó gọi là ẩn thật thị quyền.

Bản Đồ Mười Pháp giới : 5 .Pháp Giới của Chư Thiên

Lục dục Phạm thiên
Ngũ giới thập thiện
Chủng hữu lậu nhân
Luân hồi nan đoạn .

Nghĩa là:

Trời lục dục và Phạm thiên
Do tu Ngũ giới, thập thiện .
Ðều là trồng nhân hữu lậu
Nên khó cắt đoạn luân hồi .

Lục Dục Phạm Thiên :

Lục Dục Thiên còn gọi là Dục Giới Thiên. Dục Giới Thiên, Sắc Giới Thiên và Vô Sắc Giới Thiên hợp lại gọi là Tam Giới. Chúng ta hiện tại đang ở trong khoanh vùng phạm vi của Tứ Thiên Vương Thiên, là một trong sáu cõi trời ở Dục-giới. Bầu trời mà mình nhìn thấy đây chính là trời Tứ-vương, do bốn vị thiên vương quản lý. Trời này nằm ở lưng chừng núi Tu Di .
Người Nước Trung Hoa thuở xưa, không biết Phật là ai, chỉ biết có thượng đế. Do đó khi vua Thang đời nhà Thương, dùng bò đen để tế trời, Ngài nói rằng : “ Tôi, tiểu tử tên Lữ, dám xin dùng bò đen này, dám xin bạch với đấng Hoàng Hoàng Hậu Ðế …. Nếu tôi có tội, tội ấy chẳng phải của vạn dân. Nếu vạn dân làm tội, tội ấy thuộc về tôi. ”
Ngài nói rằng : “ Tôi tiểu tử tên Lữ. ” Vua Thang có tên là Lữ, ngài tự xưng là tiểu tử, là Ngài lễ phép khiêm nhường cho mình là một đứa trẻ vô dụng .
“ Dám xin dùng bò đen này. ” Tức là dám dâng đến thứ bò sắc đen huyền .
“ Dám xin bạch với Hoàng Hoàng Hậu Ðế. ” Tức là tôi xin chí thành khẩn thiết, bẩm trình với thượng đế. Rằng : “ Nếu tôi có tội, tội ấy chẳng phải của vạn dân. ” Tội của tôi xin đừng đổ lên đầu người dân. Vạn dân tức là bách tánh, dân chúng .
“ Vạn dân làm tội, tội ấy thuộc về tôi. ” Tức rằng nếu dân cư có tội, xin đừng trách họ, chính do do tôi không dạy dỗ họ đàng hoàng, do đó tội của họ, tôi cần phải gánh chịu .

*

Các vị thánh nhân xưa kia chỉ tự trách mình, phạt mình ; không như người đời nay : rõ ràng biết mình có tội lỗi ; thế mà cứ nói : “ ồ, chuyện ấy đâu dính gì tôi ; anh ta làm đấy mà ! ” “ Ðó là lỗi lầm của hắn ! Tại sao lại trách tôi ? ” “ Ông trời thật bất công. Tại sao y giàu đến thế, mà tôi thì nghèo xơ ? Tại sao hắn sang thế mà tôi thì quá thấp hèn ? ” Cứ oán trời trách người. Chuyện gì cũng chẳng khi nào nhận rằng mình sai lầm đáng tiếc, cứ chuyên đi kiếm lỗi kẻ khác. Thánh nhân xưa kia ai cũng luôn thừa nhận lỗi lầm của mình cả .
Tầng trời thứ hai là Ðế Thích Thiên. Trời này ở giữa, phía đông có tám trời, phía tây có tám trời, bắc có tám trời, nam có tám trời. Tổng cộng là ba mươi hai trời. Ðó là tầng trời thứ hai ở cõi Dục-giới .
Tầng trời thứ ba là Dạ Ma Thiên. Trong tầng trời này, chư thiên vô cùng sung sướng. Cả ngày họ cứ ca hát. Họ hát gì ? Thì là “ Tôi sung sướng lắm lắm ! ” Ngày đêm sáu thời họ đều vui sướng, do đó Dạ-Ma dịch là thời phần, vì rằng mỗi thời gian họ đều vô cùng sung sướng .

* * * Bản Đồ Mười Pháp Giới giảng giải * * *

Tầng trời thứ tư là Ðâu Suất Thiên. Ðâu Suất dịch là Hỷ Túc, vì khi nào họ cũng hoan hỉ, khi nào cũng không thiếu mãn túc. Bởi vì họ biết tri túc nên khi nào cũng an nhàn. Từ sáng đến tối họ không khi nào ưu lự, sầu muộn, hay có phiền não bực dọc gì cả. Trời ấy còn gọi là “ Tai Túc Thiên ” chính do họ biết tri túc và thường vui tươi, không phiền não ưu tư .
Tầng trời thứ năm là Hóa Lạc Thiên. Các vị trời này đắc khoái lạc nhờ có năng lượng biến hóa. Nghĩ tới áo quần thì áo quần hiện ra ; nghĩ tới nhà hàng thì thực phẩm tới liền. Vì họ biến hóa rất tự tại nên vô cùng sung sướng an nhàn .

*

Tầng thứ sáu là Tha Hóa Tự Tại Thiên. Tha Hóa có nghĩa là những vị trời trên ấy vốn không có sự sung sướng an nhàn, tuy nhiên những Ngài có năng lượng tước lấy sự an nhàn của những trời khác đem làm an nhàn của chính mình. Vì sao họ lại chiếm sự an nhàn của kẻ khác để làm của mình ? Bởi vì họ không theo đạo lý ; hệt như bọn giặc cướp, đoạt tiền của và gia tài của kẻ khác để tự mình dùng, bất kể sự sống chết của kẻ khác .
Ở tầng trời này có rất nhiều thiên ma và quyến thuộc của chúng .
“ Lục Dục Phạm Thiên ” phía trên đã nói về Lục Dục Thiên. Phạm Thiên tức là trời Ðại Phạm Thiên, Phạm Chúng Thiên và Phạm Phụ Thiên. Các vị trời ấy do tu “ Ngũ Giới Thập Thiện ” nên đắc phước báu ở tầng trời này. Song đây là những thiện căn hữu lậu ( hữu lậu nghĩa là có phiền não ) nên nói rằng : “ Chủng hữu lậu nhân, luân hồi nan đoạn. ” Hễ trồng nhân hữu lậu thì khó đoạn luân hồi. Phải tu hành cái nhân xuất thế thì mới thoát khỏi luân hồi .

Bản Đồ Mười Pháp giới : 6 .Pháp Giới của A Tu La

Tu-la tánh bạo ,
Hữu phước vô quyền ,
Háo dũng đấu lang ,
Phù trầm nghiệp khiên .

Nghĩa là:

Tu-la tánh hung bạo .
Có phước, tuy nhiên không quyền .
Rất thích đánh đấu nhau .
Chìm nổi theo nghiệp dắt .

A-tu-la là tiếng Phạn dịch là vô đoan chính. Vô đoan chính nghĩa là xấu xí. Nam A-tu-la tướng mạo vô cùng xấu xí, ưa thích đấu tranh với kẻ khác. Nữ A-tu-la tướng mạo rất là xinh đẹp, thương mến đấu tranh bằng tình cảm, tức là dùng tánh đố kỵ ghen tuông, chướng ngại, vô minh, phiền não .
Tuy chúng sinh này làm thành một Pháp-giới, tuy nhiên bất luận ở đâu trong lục đạo, hễ có chúng sinh nào thích đấu tranh, nóng nảy dữ tợn vô cùng, chỉ thích chỉ huy kẻ khác chớ không chịu bị kẻ khác chỉ huy ; chỉ thích quản lý kẻ khác mà không thích bị ai quản lý, thì đó đều là bộc lộ của A-tu-la. A-tu-la ở trong loài người thì phân ra loại ác loại thiện. Thiện A-tu-la chính là quân đội, binh tướng trong vương quốc. ? c A-tu-la tức là thứ giặc cướp, trộm cắp, kẻ thích đánh, thích giết người khác .

*

A-tu-la ở trên cõi trời thì ưa thích đánh nhau với thiên binh, thiên tướng. Suốt ngày chúng chỉ nghĩ cách đánh trời Ðế Thích để cướp bảo tòa, đoạt ngôi để lên làm Ðế Thích. Song le, tuy đánh nhau hoài nhưng bọn chúng luôn thua trận. Vì sao ? Bởi vì tuy bọn họ ở trên trời hưởng phước tuy nhiên không có quyền hành gì. Do đó tuy đánh với thiên binh, thiên tướng mà rốt cuộc vẫn cứ thất bại .
Trong hàng súc sinh cũng có A-tu-la. Chúng thích chèn ép kẻ đồng loại hay những súc sinh khác, thí dụ như sài lang, cọp, sư tử … là những thứ thích ăn thịt súc sinh khác vì chúng có tánh tình A-tu-la. Rắn hay chim ưng cũng là thứ A-tu-la .
A-tu-la trong loài quỷ thì thích ăn hiếp loại quỷ khác. Quỷ cũng có loại thiện loại ác. Bọn hung thần quỷ ác thì không đếm xỉa tới phải trái gì cả. Xưa nay quỷ không khi nào biết phải trái, nhưng bọn hung quỷ càng không biết đến phải trái hơn cả .
Tu-la tánh bạo : Tánh tình của A-tu-la rất hung tàn. Hữu phước vô quyền : Chúng có phước của chư thiên, tuy nhiên không có quyền hành như chư thiên. Do đó chúng muốn tranh đoạt quyền lợi và nghĩa vụ, tuy nhiên không hề tranh thắng đặng .
Các bạn hãy nhìn quốc tế lúc bấy giờ : Một quốc tế của A-tu-la. Ðâu đâu cũng toàn trò chuyện đấu tranh, đấu tranh. Ðấu tranh vì thứ này, tranh đấu vì thứ kia. Bạn đánh tôi ngã, tôi đẩy bạn rớt .

*

Phù trầm nghiệp khiên : Tùy theo nghiệp lực dẫn dắt đi theo nẻo nào thì chúng đi theo nẻo đó. Do đó, người tu hành phải tránh đấu tranh, tranh chấp với kẻ khác. Chớ nên háo thắng, thích tranh chấp. Chớ nên có tánh tình hung bạo dữ tợn. Vậy thì mình thoát ra bọn A-tu-la đấy .
Nói tóm lại, A-tu-la không hề nói tới chuyện phải trái. Bất luận với ai, chúng cũng thường nổi nóng. Nói cho rõ, thì trong chín Pháp-giới của chúng sinh, thì A-tu-la xuất hiện trong năm Pháp-giới rồi. Trong loại súc sinh, thì loài chim hay thú cũng có A-tu-la. Cá sấu là một loại A-tu-la ở trong nước .
Loài ngựa cũng có A-tu-la : thứ này mà ở trong bầy ngựa thì chúng quấy nhiễu lắm, do đó gọi là “ Hại quần chi mã, ” con ngựa phá bầy. Loài bò cũng có A-tu-la đó ; bò này tức là tánh A-tu-la. Còn chó thì đúng là bọn A-tu-la. Do đó người nuôi chó, thường thân thiện với chó thì hoàn toàn có thể tiêm nhiễm tính A-tu-la đó. Do đó hãy cẩn trọng. Chớ nên chạy theo bọn A-tu-la !

Bản Đồ Mười Pháp giới : 7 .Pháp Giới của Loài Người

Nhân đạo hòa hợp ,
Công tội tương gian .
Ðức thăng nghiệt giáng ,
Khải hữu tha yên !

Nghĩa là:

Hòa hợp là đạo người ,
Công và tội xen lẫn
Ðức thì thăng, nghiệt đọa
Nào do ai khác làm !

Cõi người có kẻ thiện kẻ ác. Bản tánh của con người thì vốn ôn hòa, hoàn toàn có thể hòa hợp với kẻ khác, do đó tôi nói là nhân đạo hòa hợp. Công tội tương gian : nghĩa là con người không phải hoàn toàn thiện hay trọn vẹn ác. Nếu trọn vẹn tốt thì hẳn y đã lên cõi trời rồi, còn nếu trọn vẹn ác thì chắc như đinh y đã làm súc sinh, ngạ quỷ hay đọa âm ti rồi. Do đó, con người cứ làm một chút ít công, lại phạm một chút ít tội. Ðôi khi công nhiều, tội ít ; hoặc là tội nhiều, công ít .

*

Khi công nhiều tội ít thì mình sinh ra tại mái ấm gia đình phong phú giàu sang. Nếu công ít, tội nhiều thì mình sinh vào mái ấm gia đình bần cùng khốn khổ. Giữa hai thái cực này ( công và tội ) có ngàn vạn sự sai thù, tùy thuộc vào mức độ nhiều ít của ác nghiệp do mình tạo ra. Con người không âm cũng không dương. Vì thuần âm thì con người sẽ biến thành quỷ, mà thuần dương thì con người sẽ lên trời hết, không còn gì là loài người nữa !
Ðức thăng nghiệt giáng : Nếu làm chuyện thiện, hay công đức thì bạn sẽ thăng lên. Nếu tạo tội nghiệt thì bạn đọa lạc. Khải hữu tha yên : không ai hoàn toàn có thể bắt bạn đọa âm ti, hay làm ngạ quỷ, hay biến thành súc sinh được. Tất cả đều do bạn tự mình tạo. Rằng : “ Mình làm, mình chịu. ” Tự mình làm ra thì tự mình phải lãnh hậu quả. Ðó là cõi người .

Bản Đồ Mười Pháp giới : 8 .Pháp Giới Loài Súc Sinh

Súc sinh háo tham ,
Ða nhi vô yểm ,
Tương hắc tác bạch
Thị phi mạc biện .

Nghĩa là:

Súc sinh tham lam ,
Nhiều mà chẳng ngán .
Lấy đen làm trắng
Không rõ đúng sai .

Bảy Pháp-giới nói trên đều là Pháp-giới tốt, bạn hoàn toàn có thể thử nó, tới đó mà đóng kịch. Chỉ có ba Pháp-giới còn lại thì bạn không hề thử cho biết đặng. Bởi vì hễ bạn đọa vào ba đường này thì e khó thoát ra được. Cho nên : “ Nhất thất nhân thân, vạn kiếp nan phục. ” ( Thân người mất đi, vạn kiếp khó Phục hồi ). Do đó rất nguy khốn .
Trong cõi súc sinh hiện giờ, không phải chỉ có một loại mà thôi. Súc sinh có trăm ngàn vạn ức thứ khác nhau. Chỉ nói tới loài biết bay, cũng đã có tới trăm ngàn vạn chủng loại. Loài biết chạy cũng không ít, nào là thứ nhỏ như chuột, lớn như voi, hay những động vật hoang dã lớn như hưu, gấu, ngựa, dê … những thứ ở trên mặt đất có đến trăm ngàn loài. Những loài dưới nước, nào là hải cẩu, hải mã, v.v … cũng cả trăm ngàn thứ. Dù là vật lý gia, hóa học gia, sinh vật học gia, động vật hoang dã học gia, nào tiến sỹ hay là chuyên viên cũng không thể nào biết hết được những thứ chủng loại ấy .

*

Những thứ súc sinh ấy từ đâu tới ? Chỉ từ “ tham ” mà ra. “ Súc sinh háo tham ” : bất luận là cái gì, chúng ham nhiều, ít là không được. Bởi vì chúng “ đa nhi vô yểm, ” có nhiều mà không biết nhàm chán. Cho nên cái đen, chúng không phân biệt rằng nó đen. Chúng cho là : “ A ! Cái này màu trắng ! ”
Do đó : “ Tương hắc tác bạch. ” Nhận cái đen là cái trắng ; cái xấu thì cho rằng tốt. Ðó chính là bộc lộ chúng chẳng có lý trí gì cả. Nên bất kể thứ gì chúng cũng tham nhiều, thậm chí còn tham cả thứ dơ bẩn như phân chó nữa. Chúng càng ăn thứ ấy thì càng thấy ngon, thấy thơm. “ Thị phi mạc biện ” nghĩa là chúng không biết cái gì phải, cái gì trái ; không biện biệt đúng sai, không rõ ràng mọi sự vì không có lý trí nữa. Khi có lòng tham thì chúng trở nên mê muội. Thế là bị vô minh trùm phủ, không biết gì cả .
Vì thế con người như tất cả chúng ta nếu có lòng tham lam thì rất nguy hại ; tham nhiều thì dễ dẫn tới chỗ biến thành súc sinh. Bạn ơi ! Người xuất gia nào không y chiếu theo giới luật của Phật để tu hành thì sẽ đọa lạc mau một chút ít. Do đó người xưa có câu : “ Ðịa ngục môn tiền tăng đạo đa ” ( nghĩa là nơi cửa âm ti, thầy tu và đạo sĩ nhiều lắm ). Họ đứng chờ ở cửa âm ti. Những vị đạo sĩ hay những vị thầy tu nghĩ rằng âm ti là chỗ vui lắm, nhưng khi tới đó mới biết rằng nơi ấy chẳng vui tí gì !

Bản Đồ Mười Pháp giới : 9 .Pháp Giới của Ngạ quỷ

Quỷ loại hỷ sân
Muội quả mê nhân
Vô minh điên đảo ,
Nhật tích nguyệt thâm .

Nghĩa là:

Loài quỷ thích giận ,
Mê muội nhân quả
Vô minh điên đảo
Ngày tháng chồng chất .

Ða số ai cũng biết quỷ. Có người tin có quỷ, tuy nhiên có kẻ nói quỷ chẳng có. Thậm chí nhiều Phật tử không tin có quỷ. Quỷ là gì ? Quỷ là một thứ âm khí, có bóng mà không có hình hài, hoặc có hình thể mà không có bóng. Nhiều khi bạn thấy một bóng đen, nhưng khi nhìn kỷ thì bóng biến mất. Hoặc nhiều khi thấy cái bóng giống như người, nhưng chỉ trong chớp mắt nó biến mất. Thật khó mà xác lập rõ ràng thực sự về chuyện này .
Có bao nhiêu thứ quỷ ? Nhiều như số cát sông Hằng Hà vậy. Nếu bạn muốn biết rõ có bao loại quỷ, bạn hãy tu Ðạo. Khi tu được Ngũ-nhãn, Lục-thông, bạn sẽ rõ biết hết thảy có bao nhiêu loài quỷ .
Có người nói : “ Chẳng có quỷ đâu ! ” Tôi nói với y rằng, nếu không có quỷ thì cũng chẳng có Phật, chẳng có người, chẳng có súc sinh. Bởi vì súc sinh, người, A-tu-la đều từ quỷ biến ra cả. Thậm chí trời, A-la-hán, Duyên-giác, Bồ-tát, Phật cũng đều từ quỷ đạo mà tiến lên .

*

Vì sao ? Vì mười Pháp-giới không rời một niệm trong tâm. Chính một niệm này tạo ra mười Pháp-giới. Bạn thao tác quỷ thì đọa lạc vào đường quỷ. Làm việc người thì tới cõi người, thao tác a-tu-la thì tới chỗ A-tu-la. Làm việc của bậc A-la-hán thì thành A-la-hán. Làm chuyện đấng Duyên-giác thì sẽ tới đặng bậc Duyên-giác. Làm việc của Bồ-tát thì sẽ thành quyến thuộc của chư Bồ-tát. Làm việc Phật thì thành Phật. Làm chuyện của âm ti thì đọa âm ti. Do đó một tâm niệm trong hiện tại tạo thành toàn bộ mọi chuyện .
“ Quỷ loại hỉ sân ” Phàm là quỷ, chúng rất thích nổi nóng, nảy lòng sân hận. Ðối xử tốt với chúng, chúng cũng sân hận ; đối đãi không tốt với chúng, chúng càng sinh tức giận. Việc gì làm chúng thú vị nhất ?

*

Tức là tạo rắc rối cho kẻ khác. Bạn đối xử đàng hoàng với chúng, chúng cũng gây rắc rối cho bạn. Bạn không đối xử đẹp, chúng cũng gây phiền hà. Do đó có câu : “ Thắp hương là mời quỷ tới. ” Mặc dù bạn thắp nhang là vì kính trọng chúng, tuy nhiên chúng tới để gây rắc rối cho bạn, làm bạn sinh bịnh. Vì vậy Khổng Tử nói : “ Kính quỷ thần nhi viễn chi. ” Nghĩa là ta phải cung kính quỷ thần, song le không nên thân thiện với chúng, nên xa cách một chút ít .
Muội quả mê nhân : Quả báo thì bọn chúng không hiểu biết gì ; mà cái nhân, chúng cũng không rõ. Do đó chúng không biết tốt xấu. Xưa nay hễ trồng nhân tốt thì gặt quả tốt ; trồng nhân lành thì gặt quả lành, trồng nhân ác thì gặt quả ác. Trồng dưa, gặt dưa ; trồng đậu, được đậu. Song bọn quỷ không hiểu được đạo lý nhân quả này. Do đó chúng trồng cà mà mong được ớt, trồng ớt mà mong gặt được dưa leo ; trọn vẹn mê muội lầm lẫn, nên nói là muội quả mê nhân .
Bọn chúng “ Vô minh điên đảo, nhật tích nguyệt thâm ” : mỗi ngày tích tập càng nhiều sự vô minh. Càng tạo nghiệp thì tội càng nặng ; tội càng nặng thì lại càng tạo nghiệp. Do đó đọa lạc vào đường quỷ .

Bản Đồ Mười Pháp giới : 10 .Pháp Giới của Địa ngục

Ðịa ngục ưu khổ
Vô môn tự xuyên
Khởi hoặc tạo nghiệp
Thọ báo tuần hoàn .

Nghĩa là:

Ðịa ngục đầy ưu khổ
Không cửa nhưng cứ vào
Khởi hoặc rồi tạo nghiệp
Chịu quả báo tuần hoàn .

Ðịa ngục là chốn đau khổ cùng cực. Các bạn nào muốn du lịch ở âm ti, tôi bảo vệ bạn sẽ tức khắc đến đó ngay. Làm sao ? Có câu rằng :

Hễ sầu muộn, là đi dạo cõi âm ti .
Cười vui tươi, thì già cả thành tươi tắn .
Khóc lóc hoài, tạo phòng tối chốn âm ti ”

Âu sầu phiền muộn là nhân của âm ti. Nếu bạn cười vui tươi, đó là nhân cõi trời. Rằng :

Tự cổ thần tiên vô biệt pháp ,
Chỉ sinh hoan hỉ bất sinh ưu .

Nghĩa là:

Xưa nay thần tiên chẳng phép lạ ,
Chỉ sinh vui tươi, không ưu lo .

Nếu bạn thường thường cười vui, thì dù lớn tuổi, bạn cũng tươi tắn. Khóc lóc là một việc rắc rối lắm. Ðịa ngục ưu khổ : Nghĩa là âm ti chẳng có gì vui tươi an nhàn, chỉ ưu sầu khổ sở. “ Vô môn tự xuyên ” ; nghĩa là âm ti lâu nay không có cửa. Cửa vào âm ti chính là do mình đặt và mở ra. Mình cứ đâm đầu lao vào vào, ( như cái dùi cứ khoan vào ) vào không được cũng cứ cố chui vào .
“ Khởi hoặc tạo nghiệp. ” Vì sao đọa âm ti ? Là vì ta vô minh mê hoặc, không hiểu biết, do đó tạo ra ác nghiệp. Bạn tu nghiệp gì, thì thọ quả báo ấy, không sai một mảy may. Ðây là sự tuần hoàn không ngừng nghỉ. Nên nói rằng : “ Thọ báo tuần hoàn. ”

Bản Đồ Mười Pháp Giới : Lời kết

Thập giới nhất tâm
Bất ly đương niệm
năng giác thử niệm
Lập đăng bỉ ngạn .

Nghĩa là:

Mười Pháp-giới, một tâm ,
Không ngoài niệm hiện tại ,
Giác ngộ tâm niệm này ,
Tức khắc lên bờ kia .

Bốn Pháp-giới bậc Thánh là Phật, Bồ-tát, Thanh Văn, Duyên Giác và sáu Pháp-giới phàm là thiên, nhân, A-tu-la, ngạ quỷ, súc sinh, âm ti, tổng số là mười Pháp-giới. Mười Pháp-giới từ đâu ra ? Từ một ý niệm trong tâm hiện tại của mình. Do đó : “ Thập giới nhất tâm, bất ly đương niệm .
Năng giác thử niệm : Nếu bạn hiểu rõ về ý niệm hiện tại thì bạn sẽ lập tức đăng bỉ ngạn : tức khắc tới bờ kia, tức là Ma-ha Bát-nhã Ba-la-mật. Bờ kia là gì ? Là sự giác ngộ, không còn mê hoặc ; phá sạch vô minh. Khi vô minh phá trừ thì pháp thân sẽ Open .
( Bản Đồ Mười Pháp Giới giảng giải – Hòa Thượng Tuyên Hóa giảng )
Tuệ Tâm 2021 .

5/5 – (2 bình chọn)