Hà Lan – Wikipedia tiếng Việt

Hà Lan hay Hòa Lan (tiếng Hà Lan: Nederland [ˈneːdərˌlɑnt]  ( nghe)) là một quốc gia tại Tây Âu. Đây là quốc gia cấu thành chủ yếu của Vương quốc Hà Lan, và còn bao gồm ba lãnh thổ đảo tại Caribe (Bonaire, Sint Eustatius và Saba). Phần thuộc châu Âu của Hà Lan gồm có 12 tỉnh, giáp với Đức về phía đông, Bỉ về phía nam, và biển Bắc về phía tây bắc; có biên giới hàng hải với Bỉ, Anh và Đức.[5] Năm thành phố lớn nhất của Hà Lan là Amsterdam, Rotterdam, Den Haag (La Haye), Utrecht và Eindhoven. Amsterdam là thành phố thủ đô,[6] song trụ sở của nghị viện và chính phủ đặt tại Den Haag.[7] Cảng Rotterdam là cảng lớn nhất châu Âu và là cảng lớn nhất bên ngoài Đông Á.[8]

Hà Lan có địa hình thấp và phẳng phiu, chỉ có khoảng chừng 50 % diện tích quy hoạnh đất nằm cao hơn 1 m so với mực nước biển. [ 9 ] Hầu hết diện tích quy hoạnh dưới mực nước biển là đất tái tạo. Từ cuối thế kỷ XVI, nhiều khu vực to lớn được tái tạo từ biển và hồ, chúng chiếm gần 17 % diện tích quy hoạnh đất lúc bấy giờ của vương quốc. Hà Lan có tỷ lệ dân số trên 400 người / km², nếu không tính mặt nước thì sẽ hơn 500 người / km², thuộc vào hàng những vương quốc có tỷ lệ dân số chi chít nhất quốc tế. Tuy vậy, Hà Lan là vương quốc xuất khẩu nông sản và thực phẩm lớn thứ nhì quốc tế, chỉ sau Hoa Kỳ. [ 10 ] [ 11 ] Hà Lan là vương quốc thứ ba trên quốc tế có những đại biểu được bầu cử để trấn áp hành vi của chính phủ nước nhà ; vương quốc này có thể chế dân chủ nghị viện và quân chủ lập hiến từ năm 1848. Hà Lan có lịch sử vẻ vang lâu bền hơn về khoan dung xã hội và thường được nhìn nhận là một vương quốc tự do, Hà Lan đã hợp pháp hoá mại dâm, an tử và hôn nhân gia đình đồng giới .

Hà Lan là một thành viên sáng lập của Liên minh châu Âu, Khu vực đồng euro, G-10, NATO, OECD và WTO, nằm trong Khu vực Schengen và Liên minh Benelux. Hà Lan là nơi đặt trụ sở của năm toà án quốc tế như Tòa án Trọng tài thường trực và Tòa án Công lý Quốc tế, trong đó có bốn toà án đặt tại Den Haag, do đó thành phố này được mệnh danh là “thủ đô pháp luật thế giới.”[12] Hà Lan đứng thứ hai trong chỉ số tự do báo chí năm 2016 của Phóng viên không biên giới.[13] Hà Lan có nền kinh tế hỗn hợp dựa trên thị trường, đứng thứ 17 về chỉ số tự do kinh tế năm 2013.[14] Hà Lan có GDP PPP bình quân cao thứ 13 thế giới vào năm 2016 theo số liệu của IMF. Năm 2017, Báo cáo Hạnh phúc thế giới của Liên Hợp Quốc xếp Hà Lan đứng thứ sáu, phản ánh chất lượng sinh hoạt cao tại đây.[15] Hà Lan là một nhà nước phúc lợi hào phóng, cung cấp chăm sóc y tế phổ quát, giáo dục công cộng và hạ tầng tốt, và nhiều phúc lợi xã hội.

Tên gọi “Hà Lan” trong tiếng Việt bắt nguồn từ tiếng Trung. Trước đó, toàn thể Hà Lan (Nederland) thường được gọi bằng định danh có từ lâu trước đó là “Holland” (nghĩa là đất rừng). Bằng tiếng Trung, “Ho-lland” được người Trung Quốc phiên âm là “Hé lán” và viết bằng chữ Hán là 荷蘭 (Hà Lan) hoặc 和蘭 (Hòa Lan). Hiện nay “Hà Lan” (荷蘭) được dùng phổ biến hơn ở cả tiếng Việt và tiếng Trung. Một cách gọi khác mà sách giáo khoa Lịch sử lớp 8 và lớp 10 sử dụng là “Nê-đéc-lan”, phiên âm trực tiếp từ “Nederland”. Từ 下蘭 (Hạ Lan) có thể được dùng là dịch trực tiếp từ “Nederland” hay “Netherlands” có nghĩa là “Vùng đất thấp”.

Tuy nhiên, “Holland” theo ý nghĩa nghiêm ngặt thì thuật ngữ này chỉ nói đến Noord-Holland và Zuid-Holland, là hai trong số 12 tỉnh của quốc gia này, chúng vốn là một tỉnh duy nhất và trước đó là Bá quốc Holland. Bá quốc Holland ban đầu là của người Frisia, xuất hiện sau khi giải thể Vương quốc Frisia, về sau nó trở thành lãnh địa quan trọng nhất về kinh tế và chính trị tại Các Vùng đất thấp (Nederlanden). Điều này cùng với tầm quan trọng của Holland trong việc hình thành Cộng hoà Hà Lan, Chiến tranh Tám mươi Năm và Chiến tranh Anh-Hà Lan trong các thế kỷ XVI, XVII và XVIII, khiến Holland đại diện cho toàn thể quốc gia, song hiện nay được nhìn nhận là không chính xác,[16][17] không chính thức,[18] hoặc đôi khi là lăng nhục, tuỳ theo ngữ cảnh, song vẫn được sử dụng rộng rãi như khi đề cập đến đội tuyển bóng đá quốc gia.[19]

Khu vực được gọi là Các Vùng đất thấp (Nederlanden, gồm Bỉ, Hà Lan và Luxembourg) và quốc gia Hà Lan (Nederland) tương đồng về địa danh học. Các địa danh có Neder, Nieder, NetherNedre (trong các ngôn ngữ German) và Bas hay Inferior (trong các ngôn ngữ Roman) được sử dụng trong các địa điểm trên khắp châu Âu. Chúng thỉnh thoảng được sử dụng trong một quan hệ chỉ thị với một vùng đất cao hơn. Trong trường hợp Các Vùng đất thấp / Hà Lan, vị trí địa lý của vùng “hạ” ít nhiều nằm tại hạ lưu và gần biển. Tuy nhiên, vị trí địa lý của vùng cao hơn thì thay đổi lớn theo thời gian. Người La Mã phân chia giữa các tỉnh Hạ Germania (nay thuộc Bỉ và Hà Lan) tại hạ lưu và Thượng Germania (nay là một phần của Đức). Việc định danh “hạ” ám chỉ đến khu vực có từ thế kỷ X với Công quốc Hạ Lorraine, bao trùm phần lớn Các Vùng đất thấp.[20][21]

Các công tước Bourgogne cai trị Các Vùng đất thấp vào thế kỷ XV, sử dụng thuật ngữ les pays de par deçàvùng đất ở trên đây cho Các Vùng đất thấp, tương phản với les pays de par delà~ vùng đất ngoài kia cho quê hương của họ: Bourgogne tại trung-đông nước Pháp hiện nay.[22] Dưới quyền Nhà Habsburg, Les pays de par deçà phát triển thành pays d’embasvùng đất dưới đây,[23] một từ mang tính chỉ thị liên quan đến các lãnh địa khác của gia tộc này tại châu Âu. Nó được dịch thành Neder-landen trong các văn bản chính thức tiếng Hà Lan đương đại.[24] Theo một quan điểm khu vực, Niderlant cũng là khu vực giữa sông Meuse và hạ du sông Rhine vào hậu kỳ Trung cổ. Khu vực được gọi là Oberland (vùng đất cao) trong bối cảnh chỉ thị này được cho là bắt đầu ở khoảng chừng Köln nằm gần đó.

Từ giữa thế kỷ XVI trở đi, “Các Vùng đất thấp”Nederlanden và “Hà Lan”Nederland mất ý nghĩa chỉ thị ban đầu của chúng, và là những tên gọi được sử dụng phổ biến nhất. Chiến tranh Tám mươi năm (1568–1648) phân chia Các Vùng đất thấp thành Cộng hoà Hà Lan độc lập tại miền bắc (Latinh hoá là Belgica Foederata, “Nederland liên hiệp”, nhà nước tiền thân của Hà Lan) và Miền nam Các Vùng đất thấp do Tây Ban Nha kiểm soát (Latinh hoá thành Belgica Regia, “Nederland hoàng gia”, nhà nước tiền thân của Bỉ). Các Vùng đất thấp ngày nay là một định danh gồm có Hà Lan, Bỉ và Luxembourg, song trong hầu hết các ngôn ngữ Roman, thuật ngữ “Các Vùng đất thấp” được sử dụng dành riêng cho Hà Lan.

Trong tiếng Anh, Hà Lan được viết là “The Netherlands” (danh từ số nhiều), còn tính từ sở hữu viết là “Dutch” thì lại là dạng biến hóa từ của “Deutsch” chỉ chung các dân tộc Đức từ thời xa xưa

Dấu tích loài người cổ nhất ( Neanderthal ) được phát hiện trên vùng đất cao gần Maastricht, được cho là có niên đại 250.000 năm trước. [ 25 ] Đến khi kết thúc kỷ băng hà, những người du cư thuộc văn hoá Hamburg ( khoảng chừng 13.000 – 10.000 TCN ) thời đồ đá cũ cuối muộn triển khai săn bắn tuần lộc trong khu vực bằng giáo, đến văn hoá Ahrensburg ( khoảng chừng 11.200 – 9.500 TCN ) thì dùng cung tên. Xuồng cổ nhất trên quốc tế được phát hiện tại Drenthe, của những bộ lạc có vẻ như thuộc về văn hoá Maglemosia ( khoảng chừng 8000 TCN ) thời đồ đá giữa. [ 26 ]

 German Bắc;

 German Biển Bắc;

 German Weser-Rhine;

 German Elbe;

 German Đông.

Các phương ngữ German khoảng chừng năm 1 :Từ năm 800 TCN trở đi, văn hoá Hallstatt của người Celt thuộc thời đồ sắt trở nên có ảnh hưởng tác động, thay thế sửa chữa văn hoá Hilversum ( 1800 – 800 TCN ). Quặng sắt trở thành một thước đo thịnh vượng, và hiện hữu khắp khu vực, gồm có cả quặng sắt nâu. Những người thợ rèn qua lại giữa những khu dân cư và mang theo đồng điếu và sắt để sản xuất công cụ theo nhu yếu. Vorstengraf ( mộ của quốc vương ) tại Oss ( 700 TCN ) được phát hiện trong một gò mộ, có kích cỡ lớn nhất trong thể loại này tại Tây Âu và có chứa một thanh kiếm sắt được dát vàng và sinh vật biển .Khí hậu xấu đi tại Scandinavia vào khoảng chừng năm 850 TCN, và tệ hơn nữa vào khoảng chừng năm 650 TCN, điều này hoàn toàn có thể đã khiến những bộ lạc German di cư từ phía bắc. Đến khi cuộc di cư này hoàn tất vào khoảng chừng năm 250 TCN, đã điển hình nổi bật lên một vài nhóm văn hoá và ngôn từ nói chung. [ 27 ] [ 28 ] Người Ingaevones hay German Biển Bắc cư trú tại phần phía bắc của Các vùng đất thấp, sau đó họ tăng trưởng thành người Frisii và người Sachsen ( Saksen ) bắt đầu. [ 28 ] Một nhóm thứ nhì gọi là người German Weser-Rhine ( hay Istvaeones ) bành trướng dọc trung du sông Rhine ( Rijn ) và Weser, và cư trú tại Các vùng đất thấp phía nam những sông lớn. Nhóm này gồm những bộ lạc sau cuối tăng trưởng thành người Frank Salia. [ 28 ] Ngoài ra người Celt thuộc văn hoá La Tène ( khoảng chừng 450 TCN đến khi La Mã chinh phục ) bành trướng trên một khoanh vùng phạm vi rộng, gồm có khu vực phía nam của Các vùng đất thấp. Một số học giả suy đoán rằng một truyền thống dân tộc bản địa và ngôn từ thứ ba, ngoài German và Celt, từng sống sót trong khu vực cho đến thời La Mã, là văn hoá Nordwestblock thời đồ sắt, [ 29 ] [ 30 ] ở đầu cuối bị hấp thụ vào người Celt tại phía nam và những dân tộc bản địa German đến từ phía đông .

Trong Chiến tranh Gallia, khu vực phía nam và phía tây sông Rhine bị quân La Mã (Roma) chinh phục dưới quyền Julius Caesar từ 57 TCN đến 53 TCN.[30] Julius Caesar miêu tả hai bộ lạc Celt chính sống tại khu vực nay là miền nam Hà Lan là Menapii và Eburones. Sông Rhine trở thành biên giới phía bắc của La Mã vào khoảng năm 12. Các thị trấn đáng chú ý xuất hiện dọc biên giới giữa La Mã và người German: Nijmegen và Voorburg. Trong giai đoạn đầu của tỉnh Gallia Belgica thuộc La Mã, khu vực phía nam biên giới trở thành bộ phận của tỉnh Germania Inferior. Khu vực phía bắc sông Rhine là nơi cư trú của người Frisii, nằm ngoài quyền cai trị của La Mã, trong khi các bộ lạc German là Batavi và Cananefates phục vụ trong kỵ binh La Mã.[31] Người Batavi khởi nghĩa chống La Mã vào năm 69, song cuối cùng thất bại. Người Batavi sau đó hợp nhất với các bộ lạc khác thành bang liên người Frank Salia, có bản sắc xuất hiện vào nửa đầu của thế kỷ III.[32] Người Frank Salia xuất hiện trong các văn bản La Mã với vai trò là đồng minh cũng như đối thủ. Trước áp lực từ bang liên của người Sachsen từ phía đông, họ chuyển qua sông Rhine vào lãnh thổ La Mã trong thế kỷ IV, từ căn cứ mới tại West-Vlaanderen và tây nam Hà Lan họ tập kích eo biển Manche. Quân La Mã bình định khu vực, song không trục xuất người Frank, và đến thời kỳ Julianus (358), người Frank Salia được cho phép định cư với tư cách foederati (phiên quốc) tại Toxandria.[32] Sau khi điều kiện khí hậu xấu đi và người La Mã triệt thoát, người Frisii biến mất khỏi miền bắc Hà Lan, có lẽ bị buộc phải tái định cư trong lãnh thổ La Mã với tên gọi laeti vào khoảng 296. Vùng đất ven biển phần lớn vẫn không có người ở trong hai trăm năm sau.[33]

Sơ kỳ trung cổ ( 411 – 1000 )[sửa|sửa mã nguồn]

Người Frank, Frisia và Saxon ( thập niên 710 ) .Sau khi chính quyền sở tại La Mã trong khu vực bị sụp đổ, người Frank bành trướng chủ quyền lãnh thổ thành nhiều vương quốc. Đến thập niên 490, Clovis I chinh phục và thống nhất hàng loạt những chủ quyền lãnh thổ này tại miền nam Hà Lan trong Vương quốc Frank, và từ đó liên tục những cuộc chinh phục đến Gaule ( Pháp ). Trong cuộc bành trướng này, nhóm người Frank di cư về phía nam sau cuối tiếp đón tiếng Latinh thông tục của dân cư địa phương. [ 28 ] Nhóm người Frank ở lại quê nhà tại phía bắc ( tức miền nam Hà Lan và Vlaanderen ) duy trì nói tiếng Frank cổ, đến thế kỷ IX tiến hoá thành tiếng Hạ Franconia cổ hoặc tiếng Hà Lan cổ. [ 28 ] Xuất hiện biên giới giữa khu vực nói tiếng Hà Lan và nói tiếng Pháp. [ 28 ] [ 34 ]
Quá trình bành trướng của người Frank ( 481 đến 870 ) .Về phía bắc của người Frank, điều kiện kèm theo khí hậu tại bờ biển được cải tổ, và trong quá trình Di cư những vùng đất bị bỏ phí lại có người định cư, hầu hết là người Sachsen tuy nhiên cũng có những nhóm liên hệ mật thiết với họ là người Angle, người Jute và người Frisii cổ. [ 35 ] Nhiều người chuyển sang Anh và được gọi là người Anglo-Saxon, tuy nhiên những người ở lại được gọi là người Frisia và ngôn từ của họ được gọi là tiếng Frisia, đặt theo vùng đất từng có người Frisii cư trú. [ 35 ] Tiếng Frisia được nói dọc hàng loạt bờ biển phía nam biển Bắc, và vẫn là ngôn từ có liên hệ mật thiết nhất với tiếng Anh trong số những ngôn từ còn sống sót trên lục địa châu Âu. Đến thế kỷ VII, Vương quốc Frisia ( 650 – 734 ) Open với TT quyền lực tối cao là Utrecht, [ 35 ] [ 36 ] còn Dorestad là một điểm giao thương mua bán phồn thịnh. [ 37 ] [ 38 ] Từ năm 600 đến khoảng chừng năm 719, những thành phố thường là mặt trận giữa người Frisia và người Frank. Trong trận Boarn vào năm 734, người Frisia bị vượt mặt sau một loạt đại chiến. Được người Frank đồng ý chấp thuận, nhà truyền giáo người Anglo-Saxon Willibrord cải đạo Cơ Đốc cho người Frisia .
Lotharingia sau năm 959 với ranh giới ngôn từ chấm đỏ .Đế quốc Caroling của người Frank mô phỏng Đế quốc La Mã và trấn áp phần nhiều Tây Âu. Tuy nhiên, đến năm 843 nó phân loại thành ba bộ phận là Đông Frank, Trung Frank và Tây Frank. Hầu hết chủ quyền lãnh thổ Hà Lan thời nay là bộ phận của Trung Frank, tuy nhiên đây là một vương quốc yếu và phải hứng chịu nhiều nỗ lực phân loại và sáp nhập của những láng giềng mạnh hơn. Trung Frank gồm những chủ quyền lãnh thổ từ Frisia tại phía bắc đến Vương quốc Ý tại phía nam. Khoảng năm 850, Lotharius I của Trung Frank thừa nhận một người Viking là Rorik của Dorestad là người quản lý hầu hết Frisia. [ 39 ] Đến khi Trung Frank bị phân loại vào năm 855, vùng đất phía bắc dãy Alpes được giao cho Lotharius II rồi được đặt tên là Lotharingia. Sau khi ông mất vào năm 869, Lotharingia bị phân loại thành Thượng Lotharingia và Hạ Lotharingia, Hạ Lotharingia gồm Các vùng đất thấp và về danh nghĩa trở thành bộ phận của Đông Frank vào năm 870, tuy nhiên trên thực tiễn nó nằm dưới quyền trấn áp của người Viking, họ đột kích những thị xã của người Frisia và Frank trên bờ biển Frisia và dọc những con sông. Các cuộc tiến công của người Viking khiến quyền thống trị của những lãnh chúa Pháp và Đức trong khu vực bị suy yếu. Kháng cự người Viking đến từ giới quý tộc địa phương, họ đạt được tầm vóc nhất định và đặt cơ sở cho việc giải thể Hạ Lotharingia thành những nhà nước bán độc lập. Một trong số những quý tộc địa phương này là Gerolf xứ Holland, ông tiếp đón quyền lãnh chúa tại Frisia sau khi ông giúp ám sát Godfrid, và quyền quản lý của người Viking kết thúc .

Trung kỳ Trung cổ ( 1000 – 1384 )[sửa|sửa mã nguồn]

Đế quốc La Mã Thần thánh ( nhà nước thừa kế của Đông Frank và sau đó là Lotharingia ) quản lý hầu hết vùng đất thấp trong thế kỷ X và XI, tuy nhiên không hề duy trì thống nhất chính trị. Các quý tộc có quyền lực tối cao tại địa phương đưa thành phố, bá quốc hoặc công quốc của họ thành những vương quốc cá thể, ít có nhận thức về nghĩa vụ và trách nhiệm với nhà vua. Holland, Hainaut, Vlaanderen, Gelre, Brabant và Utrecht ở trong thực trạng phần nhiều cuộc chiến tranh liên miên hoặc xây dựng những liên minh cá thể. Ngôn ngữ và văn hoá của hầu hết dân cư sống tại Bá quốc Holland bắt đầu là của người Frisia. Do người Frank từ Vlaanderen và Brabant đến định cư, hiệu quả là khu vực nhanh gọn chuyển sang nói tiếng Hạ Franconia cổ ( hay tiếng Hà Lan cổ ). Phần còn lại của Frisia tại phía bắc ( nay là Friesland và Groningen ) liên tục duy trì độc lập của họ và có những thể chế riêng cũng như tức giận với việc áp đặt mạng lưới hệ thống phong kiến .Khoảng năm 1000, do 1 số ít bước tăng trưởng về nông nghiệp, kinh tế tài chính khu vực khởi đầu tăng trưởng với nhịp độ nhanh, và hiệu suất cao hơn được cho phép người lao động canh tác thêm đất đai hoặc trở thành thương nhân. Các thị xã tăng trưởng quanh những tu viện và thành trì, và một giai cấp trung lưu làm nghề kinh doanh mở màn tăng trưởng trong những khu vực đô thị này, đặc biệt quan trọng là tại Vlaanderen và sau đó là Brabant. Các thành phố phong phú mở màn mua những độc quyền nhất định cho mình từ quân chủ. Trong thực tiễn, điều này có nghĩa là Brugge và Antwerpen trở thành những nước cộng hoà bán độc lập có quyền hạn riêng và sau đó tăng trưởng thành những thành phố và cảng quan trọng số 1 tại châu Âu .

Khoảng năm 1100, các nông dân từ Vlaanderen và Utrecht bắt đầu tiến hành tiêu nước và canh tác các vùng đất đầm lầy không có người ở tại miền tây Hà Lan, khiến Bá quốc Holland trở thành trung tâm quyền lực. Tước hiệu Bá tước Holland là vấn đề tranh chấp trong các cuộc chiến tranh Lưỡi câu và Cá tuyết (tiếng Hà Lan: Hoekse en Kabeljauwse twisten) từ năm 1350 đến năm 1490. Phe Cá tuyết gồm các thành phố thịnh vượng hơn, còn phe Lưỡi câu gồm giới quý tộc bảo thủ. Các quý tộc này mời Công tước Philip III của Bourgogne – là người đồng thời giữ tước hiệu Bá tước xứ Vlaanderen – đến chinh phục Holland.

Hà Lan thuộc Bourgogne và Habsburg ( 1384 – 1581 )[sửa|sửa mã nguồn]

Trạn chiến bốn ngày, 1–4 tháng 6 năm 1666 (Chiến tranh Anh-Hà Lan lần thứ hai) của Pieter Cornelisz van Soest.( Chiến tranh Anh-Hà Lan lần thứ hai ) của Pieter Cornelisz van Soest .Hầu hết những thái ấp của Đế quốc La Mã Thần thánh và Pháp tại khu vực nay là Hà Lan và Bỉ thống nhất trong một liên minh cá thể dưới quyền Philip III của Bourgogne vào năm 1433. Gia tộc Valois-Bourgogne và gia tộc Habsburg thừa kế họ quản lý Các vùng đất thấp trong quá trình từ năm 1384 đến năm 1581. Trước thời Bourgogne, người Hà Lan nhận dạng bản thân trải qua thị xã họ sống hoặc công quốc hay bá quốc địa phương của họ. Trong quá trình Bourgogne, con đường hướng đến tính dân tộc bản địa mở màn. Những người quản lý mới bảo vệ những quyền lợi mậu dịch của Hà Lan, ngành này sau đó tăng trưởng nhanh gọn. Các hạm chiến của Bá quốc Holland từng vài lần vượt mặt hạm chiến của Liên minh Hanse. Amsterdam tăng trưởng và đến thế kỷ XV trở thành cảng giao thương mua bán hầu hết tại châu Âu so với lương thực từ vùng Baltic. Amsterdam phân phối lương thực đến những thành phố chính của Bỉ, miền bắc Pháp, và Anh. Hoạt động thanh toán giao dịch này mang tính sống còn do Hà Lan không còn hoàn toàn có thể sản xuất đủ lương thực để phân phối nhu yếu trong nước. Việc tiêu nước khiến than bùn tại những vùng đất ngập nước trước kia giảm xuống mức quá thấp để duy trì tiêu nước .Dưới quyền Karl V của Gia tộc Habsburg, là người cũng quản lý Đế quốc La Mã Thần thánh và là Quốc vương Tây Ban Nha, hàng loạt những thái ấp tại khu vực Hà Lan ngày này thống nhất trong Mười bảy tỉnh, lãnh địa này cũng gồm có hầu hết Bỉ và Luxembourg thời nay, cũng như một số ít vùng đất lân cận nay thuộc Pháp và Đức. Năm 1568, Chiến tranh Tám mươi Năm giữa Mười bảy tỉnh và quân chủ Tây Ban Nha Felipe II của họ khởi đầu. Đến năm 1579, phần phía bắc của Mười bảy tỉnh xây dựng Liên minh Utrecht, họ cam kết trợ giúp lẫn nhau trong việc phòng thủ chống quân Tây Ban Nha. [ 40 ] Liên hiệp Utrecht được nhìn nhận là nền tảng của Hà Lan tân tiến. Năm 1581, những tỉnh miền bắc trải qua công bố độc lập, theo đó những tỉnh chính thức phế truất Felipe II của Tây Ban Nha khỏi tư cách quân chủ quản lý tại những tỉnh miền bắc. [ 41 ] Felipe II không để cho người Hà Lan thành công xuất sắc thuận tiện, và cuộc chiến tranh liên tục cho đến năm 1648, khi Tây Ban Nha dưới quyền Quốc vương Felipe IV công nhận độc lập của bảy tỉnh phía bắc trong Hoà ước Münster. Tuy nhiên, một bộ phận của những tỉnh miền nam cũng trở thành thuộc địa trên thực tiễn của vương quốc mới này .

Cộng hoà Hà Lan ( 1581 – 1795 )[sửa|sửa mã nguồn]

Sau khi công bố độc lập, những tỉnh Holland, Zeeland, Groningen, Friesland, Utrecht, Overijssel và Gelderland hình thành một bang liên. Toàn bộ những công quốc, lãnh địa và bá quốc này đều có quyền tự trị và có chính phủ nước nhà riêng. Staten-Generaal là chính phủ nước nhà bang liên, đặt tại Den Haag và gồm đại biểu từ những tỉnh. Khu vực Drenthe có dân cư thưa thớt cũng là bộ phận của nước cộng hoà, tuy nhiên không được xem là một tỉnh. Ngoài ra, nước cộng hoà chiếm giữ 1 số ít vùng đất từng thuộc Vlaanderen, Brabant và Limburg trong Chiến tranh Tám mươi Năm, chúng được gọi là những Vùng đất chung ( Generaliteitslanden ). Cư dân những Vùng đất chung hầu hết là Fan Hâm mộ Công giáo La Mã, những khu vực này không có một cấu trúc cơ quan chính phủ của mình, và được sử dụng làm một vùng đệm giữa nước Cộng hoà Hà Lan và chủ quyền lãnh thổ Miền nam Các vùng đất thấp do Tây Ban Nha trấn áp. [ 42 ]
, tranh của Hendrick Avercamp (thập niên 1620).Quang cảnh trượt băng mùa đông gần thành phố KampenTrong Thời kỳ hoàng kim Hà Lan, lê dài trong phần đông thế kỷ XVII, Đế quốc Hà Lan tăng trưởng thành một trong những cường quốc hàng hải và kinh tế tài chính đa phần của quốc tế. Khoa học, quân sự chiến lược và nghệ thuật và thẩm mỹ ( đặc biệt quan trọng là hội họa ) Hà Lan nằm trong nhóm được tôn vinh nhất quốc tế. Đến năm 1650, Hà Lan sở hữu 16.000 thương thuyền. [ 43 ] Công ty Đông Ấn Hà Lan và Công ty Tây Ấn Hà Lan xây dựng những thuộc địa và trạm mậu dịch trên khắp quốc tế. Người Hà Lan định cư tại Bắc Mỹ từ khi xây dựng Tân Amsterdam tại phần phía nam của hòn đảo Manhattan vào năm 1614. Người Hà Lan lập thuộc địa Cape tại Nam Phi vào năm 1652, lập thuộc địa Suriname tại Nam Mỹ, lập thuộc địa Đông Ấn Hà Lan ( nay là Indonesia ) tại châu Á, và sở hữu trạm mậu dịch với phương Tây duy nhất tại Nhật Bản là Dejima .

Nhiều sử gia kinh tế đánh giá Hà Lan là quốc gia tư bản hoàn thiện đầu tiên trên thế giới. Tại châu Âu thời cận đại, Hà Lan có thành phố mậu dịch giàu có nhất (Amsterdam) và sàn chứng khoán toàn thời gian đầu tiên. Óc sáng táo của các thương nhân dẫn đến xuất hiện các quỹ bảo hiểm và hưu trí, cũng như các hiện tượng kinh tế như chu kỳ bùng nổ-phá sản, bong bóng lạm phát tài sản, hội chứng hoa tulip 1636–1637, và nhà đầu cơ giá xuống đầu tiên trên thế giới là Isaac le Maire, ông làm giảm giá bằng cách bán phá giá cổ phiếu để rồi sau đó mua lại với giá thấp hơn.[44] Năm 1672 – trong lịch sử Hà Lan được gọi là Rampjaar (năm thảm hoạ) – Cộng hoà Hà Lan đồng thời tham chiến với Pháp, Anh và ba giáo phận Đức. Trên biển, người Hà Lan ngăn chặn thành công hải quân của Anh và Pháp tiến vào bờ biển phía tây. Tuy nhiên, trên bộ Hà Lan gần như bị chiếm lĩnh trước các đội quân Pháp và Đức đến từ phía đông. Người Hà Lan đảo ngược tình thế bằng cách làm ngập nhiều phần của Holland, song không bao giờ có thể khôi phục vinh quanh như trước đó. Hà Lan lâm vào tình trạng suy thoái về tổng thể trong thế kỷ XVIII, khi họ phải cạnh tranh về kinh tế với Anh, và trong nước thì diễn ra kình địch trường kỳ giữa hai phái chủ yếu trong xã hội là thế lực cộng hoà (Staatsgezinden) và những người ủng hộ stadhouder (quốc trưởng) là thân vương xứ Oranje (Prinsgezinden).[45]

Cộng hoà Batavia và vương quốc ( 1795 – 1890 )[sửa|sửa mã nguồn]

Nhờ ủng hộ quân sự chiến lược của nước Pháp cách mạng, những người theo chính sách cộng hoà tại Hà Lan công bố xây dựng Cộng hoà Batavia, mô phỏng theo Cộng hoà Pháp và khiến Hà Lan trở thành một nhà nước đơn nhất vào ngày 19 tháng 1 năm 1795. Stadhouder ( quốc trưởng ) là Willem V xứ Oranje đào thoát sang Anh. Tuy nhiên, từ năm 1806 đến năm 1810, nhà nước bù nhìn Vương quốc Hà Lan ( Holland ) được Napoléon Bonaparte lập ra và giao cho em trai ông là Louis Bonaparte quản lý để trấn áp Hà Lan hiệu suất cao hơn. Tuy nhiên, Louis Bonaparte cố gắng nỗ lực ship hàng quyền lợi của Hà Lan thay vì của anh trai mình, và bị buộc phải thoái vị vào ngày 1 tháng 7 năm 1810. Hoàng đế Napoléon phái một đội quân đến và Hà Lan trở thành một bộ phận của Đế quốc Pháp cho đến mùa thu năm 1813 sau khi Napoléon thất bại trong trận Leipzig .
Willem Frederik là con trai của stadhouder sau cuối, ông trở về Hà Lan vào năm 1813 và xưng là thân vương chủ quyền lãnh thổ của Hà Lan. Hai năm sau, Đại hội Wien sáp nhập miền nam những Vùng đất thấp vào Hà Lan nhằm mục đích tạo ra một vương quốc mạnh trên biên giới phía bắc của Pháp. Willem Frederik đưa nước Hà Lan thống nhất này thành một vương quốc và xưng là Quốc vương Willem I. Ngoài ra, Willem I thừa kế chức Đại công tước Luxembourg trong vụ trao đổi với những gia tài của ông tại Đức. Tuy nhiên, miền nam những Vùng đất thấp đã tách biệt về văn hoá với miền bắc từ năm 1581, và họ triển khai khởi nghĩa. Miền nam giành độc lập vào năm 1830 với quốc hiệu là Bỉ ( được Hà Lan công nhận vào năm 1839 ), còn liên minh cá thể giữa Hà Lan và Luxembourg bị cắt đứt vào năm 1890, khi Willem III mất trong khi không có người thừa kế là phái mạnh, còn luật kế vị của Luxembourg lại ngăn con gái ông là Nữ vương Wilhelmina trở thành nữ Đại công tước .Cách mạng Bỉ tại chính quốc và Chiến tranh Java tại Đông Ấn Hà Lan khiến Hà Lan đến bên bờ vực phá sản. Tuy nhiên, người Hà Lan áp đặt chủ trương mạng lưới hệ thống canh tác ( cultuurstelsel ) tại Đông Ấn Hà Lan vào năm 1830, theo đó 20 % đất của những làng được dành cho những cây xanh của cơ quan chính phủ nhằm mục đích xuất khẩu. Chính sách này khiến người Hà Lan có được lượng của cải khổng lồ và khiến thuộc địa này hoàn toàn có thể tự cung tự túc tự cấp. Mặt khác, những thuộc địa tại Tây Ấn ( Guiana thuộc Hà Lan cùng Curaçao và những chủ quyền lãnh thổ nhờ vào ) dựa nhiều vào nô lệ châu Phi, ước tính có đến hơn nửa triệu người châu Phi. Hà Lan bãi bỏ chính sách nô lệ vào năm 1863. [ 46 ] Tuy thế, chính sách nô lệ tại Suriname chỉ trọn vẹn bị bãi bỏ vào năm 1873, do luật pháp luật rằng có 10 năm chuyển tiếp. [ 47 ] Hà Lan cũng là một trong những vương quốc châu Âu ở đầu cuối triển khai công nghiệp hoá, quy trình này diễn ra vào nửa cuối của thế kỷ XIX .
Rotterdam sau khi bị người Đức không kích vào năm 1940Hà Lan duy trì được tính trung lập trong Chiến tranh quốc tế thứ nhất, một phần là nhờ việc nhập khẩu hàng hoá trải qua Hà Lan có ý nghĩa thiết yếu so với tính sống còn của Đức, cho đến khi Hải quân Hoàng gia Anh phong toả vào năm 1916. [ 48 ] Đến Chiến tranh quốc tế thứ hai, Đức Quốc xã xâm lăng Hà Lan vào ngày 10 tháng 5 năm 1940. Cuộc không kích Rotterdam buộc những thành phần chính của quân đội Hà Lan đầu hàng bốn ngày sau đó. Trong quy trình chiếm đóng, có trên 100.000 người Do Thái Hà Lan [ 49 ] bị tập trung chuyên sâu và chuyển đến những trại hành quyết của Đức Quốc xã. Các công nhân Hà Lan bị bắt đi lính để lao động cưỡng bách tại Đức, những thường dân kháng cự bị giết để trả thù cho những vụ tiến công vào binh sĩ Đức, và vương quốc bị cướp bóc thực phẩm. Tuy vậy, trên 20.000 thành phần phát xít Hà Lan gia nhập Waffen-SS, [ 50 ] chiến đấu trên Mặt trận phía Đông. [ 51 ] Ngày 8 tháng 12 năm 1941, cơ quan chính phủ lưu vong Hà Lan tại Luân Đôn tuyên chiến với Nhật Bản, [ 52 ] tuy nhiên không hề ngăn người Nhật chiếm đóng Đông Ấn Hà Lan. [ 53 ] Năm 1944 – 45, Tập đoàn quân Canada số 1, gồm những binh sĩ Canada, Anh và Ba Lan, chịu nghĩa vụ và trách nhiệm giải phóng phần nhiều Hà Lan. [ 54 ] Sau thế chiến, người Hà Lan chiến đấu trong cuộc chiến tranh thực dân chống lại Cộng hoà Indonesia mới xây dựng .
Năm 1954, Hiến chương Vương quốc Hà Lan cải tổ cấu trúc chính trị của Hà Lan, đây là tác dụng từ áp lực đè nén quốc tế về việc thực thi phi thực dân hoá. Các thuộc địa của Hà Lan là Surinam, Curaçao và những chủ quyền lãnh thổ phụ thuộc vào, cùng với phần chủ quyền lãnh thổ tại châu Âu đều trở thành những vương quốc trong vương quốc, tuy nhiên Suriname độc lập vào năm 1975. Sau thế chiến, Hà Lan từ bỏ tính trung lập và đạt được những quan hệ mật thiết với những vương quốc láng giềng. Hà Lan là một trong những thành viên sáng lập của Benelux, NATO, Euratom và Cộng đồng Than Thép châu Âu, thể chế này sau đó tiến triển thành Cộng đồng Kinh tế châu Âu và Liên minh châu Âu .

Chính phủ khuyến khích xuất cư nhằm giảm mật độ dân số, kết quả là nửa triệu người Hà Lan rời khỏi đất nước sau Chiến tranh thế giới thứ hai.[55] Trong các thập niên 1960 và 1970, Hà Lan có biến đổi lớn về xã hội và văn hoá, như ontzuiling nhanh chóng, nghĩa là suy tàn việc phân chia cũ theo ranh giới chính trị và tôn giáo. Thanh niên, đặc biệt là sinh viên, bác bỏ các tập tục truyền thống và thúc đẩy thay đổi trong các vấn đề như nữ quyền, đồng tính luyến ái, giải trừ quân bị và các vấn đề môi trường. Năm 2002, euro trở thành tiền tệ lưu hành. Năm 2010, Antille thuộc Hà Lan giải thể, các đảo Bonaire, Sint Eustatius và Saba đạt được quan hệ mật thiết hơn với Hà Lan.

Bản đồ địa hình Hà LanPhần chủ quyền lãnh thổ tại châu Âu của Hà Lan nằm giữa những vĩ tuyến 50 ° và 54 ° Bắc, giữa những kinh tuyến 3 ° và 8 ° Đông. Hà Lan về mặt địa lý là một vương quốc rất thấp và phẳng phiu, có khoảng chừng 26 % diện tích quy hoạnh [ 56 ] là nơi ở của 21 % dân số [ 57 ] nằm dưới mực nước biển, và chỉ có khoảng chừng 50 % đất liền cao hơn mực nước biển trên 1 m. [ 9 ] Tuy nhiên, Hà Lan có những vùng chân đồi tại cực đông nam với độ cao dưới 321 m, và có một số ít dãy đồi thấp tại TT. Hầu hết những vùng nằm dưới mực nước biển là do tự tạo, vì khai thác than bùn khiến cho độ cao giảm xuống hoặc là hình thành trải qua tái tạo đất. Kể từ cuối thế kỷ XVI, những khu vực quai đê lấn biển cỡ lớn được bảo tồn trải qua những mạng lưới hệ thống tiêu nước phức tạp gồm đê, kênh đào và trạm bơm. Gần 17 % diện tích quy hoạnh đất liền vương quốc được tái tạo từ biển và từ hồ .

Phần lớn Hà Lan lúc đầu được hình thành từ cửa sông của ba sông lớn tại châu Âu: Rhine (Rijn), Meuse (Maas) và Scheldt (Schelde), cùng các chi lưu của chúng. Phần tây nam của Hà Lan cho đến nay là một đồng bằng châu thổ của ba con sông trên, gọi là châu thổ Rhine-Meuse-Scheldt.

Hà Lan được phân loại thành phần phía bắc và phía nam qua sông Rhine, chi lưu lớn nhất của nó là Waal, và sông Meuse. Trong quá khứ, những sông này có công dụng của chướng ngại vật tự nhiên giữa những thái ấp và do đó trong lịch sử vẻ vang tạo ra một sự phân loại văn hoá, dẫn chứng là 1 số ít điểm về ngữ âm học. Nhánh quan trọng khác của sông Rhine là sông IJssel, thoát nước ra hồ IJssel, tức Zuiderzee ( ‘ biển phía nam ‘ ) cũ. Giống như những sông trên, con sông này tạo thành đường phân loại ngôn ngữ học, dân cư phía đông bắc sông nói những phương ngữ Hạ Sachsen Hà Lan ( riêng tỉnh Friesland có ngôn từ riêng ). [ 58 ]

Trải qua nhiều thế kỷ, đường bờ biển của Hà Lan có thay đổi đáng kể do kết quả từ các tai hoạ tự nhiên và can thiệp của con người, đáng chú ý nhất về việc để mất đất liền trong cơn bão năm 1134, nó tạo ra quần đảo Zeeland tại phía tây nam. Năm 1287, trận lụt Thánh Lucia tác động đến Hà Lan và Đức, làm thiệt mạng trên 50.000 người trong một trận lụt có tính tàn phá hàng đầu trong lịch sử thành văn.[59] Do nạn lụt nên việc canh tác gặp khó khăn, điều này khuyến khích ngoại thương, kết quả là Hà Lan tham gia sự vụ thế giới ngay từ thế kỷ XIV-XV.[60] Trận lụt Thánh Elizabeth vào năm 1421 và việc quản lý yếu kém sau đó làm phá huỷ một vùng đất quai đê mới cải tạo, thay thế là vùng bãi bồi thuỷ triều Biesbosch rộng 72 km² tại nam-trung. Trận lụt biển Bắc vào tháng 2 năm 1953 làm sụp đổ một số đê tại tây nam của Hà Lan, khiến hơn 1.800 người chết đuối.

Bản đồ diễn đạt những khu vực của Hà Lan nằm dưới mực nước biển, gồm có Amsterdamnhà nước Hà Lan sau đó thi hành một chương trình quy mô lớn mang tên là ” Deltawerken ” ( khu công trình châu thổ ) nhằm mục đích bảo vệ vương quốc khỏi nạn lụt trong tương lai. Dự án triển khai xong hầu hết vào năm 1997 khi triển khai xong Maeslantkering. Một tiềm năng chính của dự án Bất Động Sản Delta là giảm rủi ro tiềm ẩn lụt tại Zuid-Holland và Zeeland xuống còn một lần trong 10.000 năm ( so với 1 lần trong 4000 năm của phần còn lại trong nước ). Mục tiêu này đạt được bằng việc xây những con đê ngoài biển dài 3.000 km và 10.000 km những đê nội bộ, kênh đào và sông, đóng những cửa biển của tỉnh Zeeland. Các nhìn nhận rủi ro tiềm ẩn mới theo định kỳ cho thấy những yếu tố cần phải gia cố đê. Dự án Delta được Thương Hội Kỹ sư gia dụng Hoa Kỳ nhìn nhận là một trong bảy kỳ quan của quốc tế tân tiến. [ 61 ]Tác động của những tai hoạ đã ngày càng tăng về quy mô do hoạt động giải trí của con người, vì những vùng đàm lầy tương đối cao bị tiêu nước để sử dụng làm đất canh tác. Việc tiêu nước khiến lớp than bùn phì nhiêu bị thu hẹp và mặt đất hạ xuống, khi đó mực nước ngầm lại hạ thấp để bù vào việc mặt đất hạ, khiến lớp than bùn bên dưới thu nhỏ hơn nữa. Ngoài ra, từ thế kỷ XIX trở lại trước, việc khai thác than bùn để làm nguyên vật liệu càng làm tình hình thêm trầm trọng. Hàng thế kỷ khai thác than bùn quy mô rộng và trấn áp yếu kém khiến cho mặt đất vốn đã thấp lại bị hạ xuống vài mét. Ngay cả tại những vùng ngập nước, việc khai thác than bùn vẫn liên tục trải qua nạo vét .
Zaanse Schans là một ngôi làng Hà Lan đặc trưng được xây dựng trên một khu vực sông nước

Nhằm đề phòng lũ lụt, một loạt biện pháp phòng vệ chống nước được nghĩ ra. Trong thiên niên kỷ thứ nhất, các ngôi làng và nông gia được xây dựng trên các khu đồi nhân tạo gọi là terps. Sau đó, các terps này được liên kết bằng các đê. Trong thế kỷ XII, các cơ quan chính quyền địa phương mang tên “waterschappen” (“ban trị thuỷ”) hoặc “hoogheemraadschappen” (“hội đồng nhà cao”) bắt đầu xuất hiện, công việc của họ là duy trì mực nước và bảo vệ khu vực khỏi các trận lụt; các cơ quan này tiếp tục tồn tại cho đến nay. Đến thế kỷ XIII, các cối xay gió được sử dụng để bơm nước khỏi các khu vực thấp hơn mực nước biển. Các cối xay gió sau đó được sử dụng để tiêu nước hồ, tạo ra các vùng đất quai đê nổi tiếng.[62]

Năm 1932, Afsluitdijk (“đê đóng kín”) được hoàn thành, chặn Zuiderzee (biển phía nam) cũ khỏi biển Bắc và do đó tạo ra IJsselmeer (hồ IJssel). Nó trở thành một phần của công trình Zuiderzee có quy mô lớn hơn gồm có bốn vùng đất quai đê lấn biển với tổng diện tích là 2.500 km².[63][64]

Hà Lan là một trong những vương quốc hoàn toàn có thể phải chịu tổn thất nặng nề nhất từ biến hóa khí hậu, không chỉ vì nước biển dâng, mà còn do quy mô thời tiết thất thường hoàn toàn có thể khiến nước sông tràn bờ. [ 65 ] [ 66 ] [ 67 ]
Các cối xay gió tại Kinderdijik, Zuid-Holland là di sản quốc tế UNESCOHướng gió chi phối tại Hà Lan là tây nam, dẫn đến khí hậu hải dương ôn hoà với mùa hè ấm và mùa đông mát, có nhiệt độ cao đặc trưng. Mô hình này đặc biệt quan trọng đúng mực so với bờ biển Hà Lan, tại đây có độc lạ nhỏ hơn đáng kể về nhiệt độ giữa mùa hè và mùa đông, hay giữa ngày và đem so với nhiệt độ tại phần đông nam của quốc gia .Những ngày ngừng hoạt động, tức nhiệt độ cao nhất dưới 0 °C, thường Open từ tháng 12 đến tháng 2. Những ngày giá lạnh, tức nhiệt độ thấp nhất là 0 °C thì Open nhiều hơn, thường là từ giữa tháng 11 đến cuối tháng 3. Nếu chọn độ cao là 10 cm trên mặt đất thay vì 150 cm, hoàn toàn có thể đo được nhiệt độ như vậy vào giữa mùa hè. Trung bình, tuyết hoàn toàn có thể Open từ tháng 11 đến tháng 4, tuy nhiên nhiều lúc cũng Open trong tháng 5 hoặc tháng 10 .Các ngày ấm, tức nhiệt độ cao nhất trên 20 °C, thường Open từ tháng 4 đến tháng 10, tuy nhiên tại một số ít nơi trong nước những ngày ấm này cũng hoàn toàn có thể Open trong tháng 3. Các ngày mùa hè, tức nhiệt độ cao nhất trên 25 °C, thường đo được tại De Bilt từ tháng 5 đến tháng 9, còn những ngày nhiệt đới gió mùa với nhiệt độ cao nhất trên 30 ° là điều hiếm thấy và thường chỉ Open từ tháng 6 đến tháng 8 .Lượng giáng thuỷ trong năm được phân chia tương đối đều giữa những tháng. Các tháng ngày hè và mùa thu có xu thế nhận lượng giáng thuỷ ít hơn những tháng còn lại, hầu hết là do cường độ mưa thay vì tần suất ngày mưa, đặc biệt quan trọng là trong mùa hè. Số giờ nắng chịu ảnh hưởng tác động từ trong thực tiễn rằng do vĩ tuyến địa lý, độ dài của ngày đổi khác từ chỉ tám tiếng vào tháng 12 đến gần 17 tiếng vào tháng 6 .

Dữ liệu khí hậu của De Bilt (trung bình 1981–2010), toàn bộ các địa điểm KNMI (cực trị 1901–2011), ngày tuyết rơi: (trung bình 1971–2000).
Tháng 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 Năm
Cao kỉ lục °C (°F) 17.2 20.4 25.6 32.2 35.6 37.2 38.2 38.6 35.2 30.1 22.0 17.8 38,6
Trung bình cao °C (°F) 5.6 6.4 10.0 14.0 18.0 20.4 22.8 22.6 19.1 14.6 9.6 6.1 14,1
Trung bình ngày, °C (°F) 3.1 3.3 6.2 9.2 13.1 15.6 17.9 17.5 14.5 10.7 6.7 3.7 10,1
Trung bình thấp, °C (°F) 0.3 0.2 2.3 4.1 7.8 10.5 12.8 12.3 9.9 6.9 3.6 1.0 6,0
Thấp kỉ lục, °C (°F) −27.4 −26.8 −20.7 −9.4 −5.4 −1.2 0.7 1.3 −3.7 −8.5 −14.4 −22.3 −27,4
Giáng thủy mm (inch) 69.6
(2.74)
55.8
(2.197)
66.8
(2.63)
42.3
(1.665)
61.9
(2.437)
65.6
(2.583)
81.1
(3.193)
72.9
(2.87)
78.1
(3.075)
82.8
(3.26)
79.8
(3.142)
75.8
(2.984)
832,5
(32,776)
% độ ẩm 87 84 81 75 75 76 77 79 84 86 89 89 82
Số ngày giáng thủy TB

( ≥ 0.1 mm )

17 14 17 13 14 14 14 14 15 16 18 17 184
Số ngày tuyết rơi TB

( ≥ 0 cm )

6 6 4 2 0 0 2 5 25
Số giờ nắng trung bình hàng tháng 62.3 85.7 121.6 173.6 207.2 193.9 206.0 187.7 138.3 112.9 63.0 49.3 1.601,5
Nguồn: Knmi.nl[68]

Hà Lan có 20 khu vui chơi giải trí công viên vương quốc và hàng trăm khu bảo tồn tự nhiên khác, gồm có những hồ, bãi thạch nam, rừng thưa, đụn cát và những môi trường tự nhiên khác. Hầu hết chúng thuộc quyền sở hữu của cơ quan vương quốc về lâm nghiệp và bảo tồn tự nhiên mang tên Staatsbosbeheer, hoặc là một tổ chức triển khai tư nhân mang tên Natuurmonumenten. Phần thuộc Hà Lan của biển Wadden tại phía bắc có những bãi bùn và đất ngập nước, và được công nhận là một di sản quốc tế UNESCO vào năm 2009 .Oosterschelde nguyên là cửa hướng đông bắc của sông Scheldt, và được xác lập là một khu vui chơi giải trí công viên vương quốc vào năm 2002, trở thành khu vui chơi giải trí công viên vương quốc lớn nhất tại Hà Lan về diện tích quy hoạnh với 370 km². Nó gồm có đa phần là vùng nước mặn của Oosterschelde, tuy nhiên cùng có những bãi bùn, bãi cỏ và bãi cạn. Do phong phú về sinh vật biển, gồm có những loài độc lạ cấp khu vực, nên khu vui chơi giải trí công viên là khu vực thông dụng so với môn lặn biển. Các hoạt động giải trí khác gồm có chèo thuyền, đánh cá, đi xe đạp điện, và ngắm chim .Về mặt địa lý sinh vật, Hà Lan nằm trên những khu châu Âu Đại Tây Dương và Trung Âu của vùng Circumboreal thuộc giới Boreal. Theo Quỹ Quốc tế Bảo vệ Thiên nhiên, chủ quyền lãnh thổ Hà Lan thuộc vùng sinh thái xanh rừng hỗn hợp Đại Tây Dương. Năm 1871, rừng tự nhiên cổ nguyên bản sau cuối bị chặt hạ, và hầu hết rừng lúc bấy giờ là trồng một loại cây như thông Scots và những loài không phải là địa phương tại Hà Lan. Các khu rừng này được trồng trên những bãi thạch nam nhân tạo và cát trôi ( bãi thạch nam chăn thả quá mức ) ( Veluwe ) .

Quần đảo Caribe[sửa|sửa mã nguồn]

Curaçao, Aruba và Sint Maarten có vị thế những vương quốc cấu thành, còn Caribe Hà Lan là ba vùng hòn đảo được xác lập là những khu tự quản đặc biệt quan trọng của Hà Lan. Các hòn đảo này là bộ phận của Tiểu Antilles và có biên giới hàng hải với Pháp ( Saint Barthélemy và Saint Martin ), Anh ( Anguilla ), Venezuela, Saint Kitts và Nevis và Hoa Kỳ ( Quần đảo Virgin thuộc Mỹ ). [ 69 ]Bonaire là bộ phận của nhóm hòn đảo ABC thuộc chuỗi hòn đảo Leeward, nằm ngoài khơi bờ biển Venezuela. Chuỗi hòn đảo Leeward có nguồn gốc hỗn hợp núi lửa và sinh vật biển. Saba và Sint Eustatius là bộ phận của nhóm hòn đảo SSS. Chúng nằm về phía đông của Puerto Rico và quần đảo Virgin. Mặc dù thuộc về chuỗi hòn đảo Leeward trong tiếng Anh, tuy nhiên tại địa phương họ được cho là thuộc chuỗi hòn đảo Windward. Chuỗi hòn đảo Windward đều có nguồn gốc núi lửa và địa hình lắm núi, có ít đất thích hợp cho nông nghiệp. Đỉnh cao nhất là núi Scenery với 887 m tại Saba. Đây là điểm cao nhất tại Hà Lan cũng như toàn thể Vương quốc Hà Lan .Các hòn đảo tại Caribe Hà Lan có khí hậu nhiệt đới gió mùa, với thời tiết nóng quanh năm. Chuỗi hòn đảo Leeward ấm hơn và khô hơn so với chuỗi hòn đảo Windward. Vào mùa hè, chuỗi hòn đảo Windward chịu ảnh hưởng tác động từ những cơn bão .

Hà Lan là quốc gia quân chủ lập hiến từ năm 1815, và nhờ các nỗ lực của Johan Rudolph Thorbecke nên có được thể chế dân chủ đại nghị từ năm 1848. Hà Lan được mô tả là một nhà nước dân chủ hiệp thương. Chính trị Hà Lan có đặc điểm là nỗ lực nhằm đạt được đồng thuận rộng rãi trong các vấn đề quan trọng, cả trong chính giới lẫn trong xã hội. Năm 2010, The Economist xếp hạng Hà Lan ở vị trí thứ 10 về chỉ số dân chủ.

Quân chủ là nguyên thủ vương quốc, Willem-Alexander là quốc vương từ năm 2013. Theo hiến pháp, chức vụ này có quyền lực tối cao hạn chế, có quyền được nhận báo cáo giải trình và được tham vấn trong những yếu tố chính quyền sở tại. Tuỳ theo đậm cá tính và quan hệ giữa quốc vương và những bộ trưởng liên nghành, quân chủ hoàn toàn có thể gây tác động ảnh hưởng ngoài quyền lực tối cao được hiến pháp pháp luật .

Quyền lực hành pháp thuộc về Hội đồng Bộ trưởng, đây là hội đồng thảo luận của nội các Hà Lan. Nội các thường gồm 13 đến 16 bộ trưởng và một số lượng thay đổi các quốc vụ khanh. Có từ một đến ba bộ trưởng là bộ trưởng không bộ. Người đứng đầu chính phủ là thủ tướng, người này thường là thủ lĩnh đảng lớn nhất trong liên minh cầm quyền. Thủ tướng là một primus inter pares, tức không có thêm quyền lực rõ ràng nào so với quyền lực của các bộ trưởng khác. Mark Rutte là thủ tướng từ năm 2010; thủ tướng luôn là thủ lĩnh của chính đảng lớn nhất kể từ năm 1973.

Nội các chịu nghĩa vụ và trách nhiệm trước Quốc hội ( Staten-Generaal ) lưỡng viện, tức cơ quan có quyền lập pháp. 150 thành viên của Chúng nghị viện ( Tweede Kamer ), tức hạ viện, được bầu cử trực tiếp theo cơ sở đại diện thay mặt tỷ suất list đảng. Các cuộc bầu cử được tổ chức triển khai bốn năm một lần, hoặc trước thời hạn trong trường hợp nội các sụp đổ. Hội đồng cấp tỉnh ( Provinciale Staten ) được bầu cử trực tiếp bốn năm một lần. Các thành viên của những hội đồng cấp tỉnh bầu ra 75 thành viên của Tham nghị viện ( Eerste Kamer ), tức thượng viện, cơ cấu tổ chức này có quyền bác bỏ luật, tuy nhiên không được yêu cầu hay sửa đổi chúng. Cả hai viện đều cử thành viên đến Nghị viện Benelux, đây là một hội đồng tham vấn .
Binnenhof là nơi họp của hạ viện và nghị việnCác công đoàn và những tổ chức triển khai giới chủ được tham vấn trước trong việc lập chủ trương trong những nghành kinh tế tài chính, kinh tế tài chính và xã hội. Họ tham gia họp tiếp tục với cơ quan chính phủ trong Hội đồng Xã hội-Kinh tế. Cơ cấu này khuyến nghị chính phủ nước nhà và khuyến nghị của họ không hề bỏ lỡ một cách thuận tiện .Hà Lan có truyền thống cuội nguồn lâu bền hơn về khoan dung xã hội. Trong thế kỷ XIX, khi Giáo hội Kháng cách Hà Lan là quốc giáo, thì Công giáo La Mã và những giáo phái Tin Lành khác cũng như Do Thái giáo được dung thứ tuy nhiên bị tẩy chay. Đến cuối thế kỷ XIX, truyền thống lịch sử khoan dung tôn giáo này quy đổi thành một mạng lưới hệ thống tách biệt, theo đó những nhóm tôn giáo cùng sống sót riêng không liên quan gì đến nhau và chỉ tương tác ở Lever chính phủ nước nhà. Truyền thống khoan dung ảnh hưởng tác động đến những chủ trương tư pháp hình sự của Hà Lan về ma tuý tiêu khiển, mại dâm, quyền lợi và nghĩa vụ LGBT, an tử, phá thai, nằm vào hàng tự do nhất trên quốc tế .
Hà Lan có mạng lưới hệ thống đa đảng, không đảng nào nắm thế hầu hết trong nghị viện kể từ thế kỷ XIX, và những nội các liên minh được hình thành. Kể từ khi thi hành đại trà phổ thông đầu phiếu vào năm 1919, mạng lưới hệ thống chính trị Hà Lan chịu sự chi phối của ba nhóm chính đảng : Mạnh nhất là những người dân chủ Cơ Đốc giáo, hiện có đại diện thay mặt là Kêu gọi Dân chủ Cơ Đốc giáo ( Christen-Democratisch Appèl, CDA ) ; thứ nhì là lực lượng dân chủ xã hội với đại diện thay mặt là Công đảng ( Partij van de Arbeid, PvdA ) ; và thứ ba là lực lượng tự do với đại diện thay mặt hầu hết là Đảng Nhân dân Tự do và Dân chủ ( Volkspartij voor Vrijheid en Democratie, VVD ) .Các đảng này hợp tác trong những nội các liên minh, trong đó lực lượng dân chủ Cơ Đốc giáo luôn là một đối tác chiến lược, hoặc là trong một liên minh trung-tả gồm lực lượng dân chủ Cơ Đốc giáo và dân chủ xã hội, hoặc là một liên minh trung-hữu gồm lực lượng dân chủ Cơ Đốc giáo và tự do. Trong thập niên 1970, mạng lưới hệ thống đảng phái trở nên dịch chuyển hơn, những đảng dân chủ Cơ Đốc giáo bị mất ghế, trong khi những đảng mới lại giành được thành công xuất sắc, như thể D66. Trong bầu cử năm 1994, CDA để mất thế chi phối .Tháng 2 năm 2010, nội các sụp đổ do PvdA phủ nhận gia hạn can thiệp của lực lượng Hà Lan tại Uruzgan, Afghanistan. [ 70 ] Trong bầu cử vào tháng 6 cùng năm, đảng lớn nhất trước đó là CDA có tác dụng thảm hại, VVD trở thành đảng lớn nhất với 31 ghế, tiếp theo là PvdA với 30 ghế. Đảng giành được thêm nhiều ghế nhất là Đảng Tự do ( PVV ) của Geert Wilders. [ 71 ] [ 72 ] VVD và PvdA giành được nhiều ghế nhất trong tổng tuyển cử vào tháng 12 năm 2012, họ lập cơ quan chính phủ liên minh vào tháng 11 năm 2012. [ 73 ] Trong tổng tuyển cử vào tháng 3 năm 2017, VVD duy trì là đảng lớn nhất, PvdA để mất số ghế rất lớn, PVV giành được vị trí thứ hai [ 74 ] Sau 208 ngày đàm phán, VVD, D66, CDA và Liên minh Cơ Đốc giáo ( CU ) chấp thuận đồng ý xây dựng chính phủ nước nhà liên minh. [ 75 ]
Tỉnh của Hà Lan. Click vào các địa danh để xem bài chi tiết

Hà Lan được phân chia thành 12 tỉnh, mỗi tỉnh nằm dưới quyền của một uỷ viên của quốc vương (Commissaris van de Koning), riêng tại tỉnh Limburg chức vụ này gọi là thống đốc (Gouverneur) song có nhiệm vụ tương tự. Các tỉnh được chia tiếp thành các khu tự quản (gemeenten) với số lượng là 380.[76]

Hà Lan cũng được chia thành 21 khu vực trị thuỷ, chịu sự quản lý của một ban trị thuỷ (waterschap hoặc hoogheemraadschap), mỗi ban có quyền hạn trên các vấn đề liên quan đến quản lý nước.[77] Việc thành lập các ban trị thuỷ có từ trước khi lập quốc, ban đầu tiên hình thành vào năm 1196. Các ban trị thuỷ của Hà Lan nằm trong số các thực thể dân chủ lâu đời nhất trên thế giới vẫn còn tồn tại. Bầu cử trực tiếp các ban trị thuỷ được tiến hành bốn năm một lần.

Ba chủ quyền lãnh thổ hòn đảo tại Caribe được gọi chung là Caribe Hà Lan, họ có vị thế là thực thể công cộng ( openbare lichamen ) thay vì là những khu tự quản. Họ không phải là bộ phận của tỉnh nào. [ 78 ]Một số chủ quyền lãnh thổ tách rời của Bỉ nằm lọt trong chủ quyền lãnh thổ Hà Lan [ 79 ] và những chủ quyền lãnh thổ tách rời này lại bao quanh một số ít khu đất thuộc tỉnh Noord-Brabant, tuy nhiên do Hà Lan và Bỉ đều thuộc Khu vực Schengen nên công dân hai bên hoàn toàn có thể qua lại những vùng tách rời này .
Lịch sử chủ trương đối ngoại của Hà Lan có đặc thù là tính trung lập. Kể từ Chiến tranh quốc tế thứ hai, Hà Lan trở thành một thành viên của nhiều tổ chức triển khai quốc tế, đáng quan tâm nhất là Liên Hiệp Quốc, NATO và Liên minh châu Âu. Kinh tế Hà Lan rất mở và dựa nhiều vào ngoại thương. Chính sách đối ngoại của Hà Lan lúc bấy giờ dựa trên bốn cam kết cơ bản : Hợp tác Đại Tây Dương, nhất thể hoá châu Âu, tăng trưởng quốc tế và lao lý quốc tế. Một trong những yếu tố quốc tế gây tranh luận nhiều quanh Hà Lan là chủ trương tự do so với những loại ma tuý nhẹ. Trong và sau thời kỳ hoàng kim Hà Lan, người Hà Lan thiết kế xây dựng một đế quốc thương mại và thực dân. Các cựu thuộc địa quan trọng nhất của Hà Lan hiện là Suriname và Indonesia. Các quan hệ lịch sử dân tộc kế thừa từ lịch sử dân tộc thực dân này vẫn có tác động ảnh hưởng đến quan hệ đối ngoại của Hà Lan, và nhiều người từ những vương quốc này thường trú tại Hà Lan .Chính sách bảo mật an ninh của Hà Lan hầu hết dựa vào quyền thành viên trong NATO, và có nhiều vũ khí hạt nhân của liên minh được đặt tại Hà Lan. Ngày 10 tháng 6 năm 2013, cựu thủ tướng Ruud Lubbers xác nhận sự sống sót của 22 vũ khí hạt nhân tại địa thế căn cứ không quân Volkel thuộc tỉnh Noord-Brabant. [ 84 ] Hà Lan cũng theo đuổi hợp tác quốc phòng trong Liên minh châu Âu, cả đa phương dưới nền tảng Liên minh Tây Âu và Chính sách An ninh và Phòng thủ châu Âu, và song phương như quân đoàn Đức-Hà Lan. Trong những năm gần đây, Hà Lan trở thành nước góp phần quan trọng cho những nỗ lực duy trì hoà bình trên khắp quốc tế, như tại Bosnia và Herzegovina .Hà Lan ưng ý can đảm và mạnh mẽ nhất thể hoá châu Âu, và hầu hết những góc nhìn trong chủ trương ngoại giao, kinh tế tài chính và thương mại của nước này được điều phối trải qua Liên minh châu Âu. Liên minh thuế quan hậu chiến giữa Hà Lan với Bỉ và Luxembourg ( Benelux ) mở đường cho việc hình thành Cộng đồng châu Âu ( tiền thân của Liên minh châu Âu ). Benelux bãi bỏ trấn áp biên giới nội bộ, điều này trở thành một hình mẫu cho Hiệp ước Schengen trên quy mô lớn hơn. Hà Lan là nòng cốt trong Hiệp ước Maastricht năm 1992 và là nhà xây đắp hiệp định Amsterdam ký kết vào năm 1998. Hà Lan do đó giữ vai trò quan trọng trong nhất thể hoá chính trị và tiền tệ châu Âu .Truyền thống uyên bác về pháp lý khiến Hà Lan trở thành trụ sở của Tòa án Công lý Quốc tế ; Toà án Yêu sách Iran-Hoa Kỳ ; Tòa án Hình sự Quốc tế về Nam Tư cũ ; Tòa án Hình sự Quốc tế Rwanda ; Tòa án Hình sự Quốc tế ( ICC ). Ngoài ra, Hà Lan còn có trụ sở của tổ chức triển khai công an châu Âu Europol ; và Tổ chức Cấm Vũ khí Hóa học .Hà Lan nằm vào hàng những vương quốc viện trợ đứng đầu quốc tế, là một trong năm vương quốc toàn thế giới cung ứng tiềm năng ODA lâu dài hơn của Liên Hiệp Quốc. Quốc gia này có góp phần lớn về viện trợ trải qua những kênh đa phương, đặc biệt quan trọng là Chương trình Phát triển Liên Hiệp Quốc, những tổ chức triển khai kinh tế tài chính quốc tế, những chương trình của Liên minh châu Âu. Một lượng lớn viện trợ của Hà Lan cũng được chuyển qua những những tổ chức triển khai tư nhân ( đồng hỗ trợ vốn ) có gần như toàn quyền trong lựa chọn những dự án Bất Động Sản .
Hà Lan có một trong những lực lượng quân đội thường trực lâu năm nhất tại châu Âu ; được xây dựng lần đầu bởi Maurits xứ Nassau. Quân đội Hà Lan được sử dụng trên khắp Đế quốc Hà Lan, và sau thất bại của Napoléon, quân đội Hà Lan chuyển sang chính sách quân dịch. Quân đội được tiến hành trong Cách mạng Bỉ năm 1830 tuy nhiên không thành công xuất sắc. Sau năm 1830, họ đa phần được tiến hành tại những thuộc địa của Hà Lan. Hà Lan duy trì trung lập trong những cuộc cuộc chiến tranh tại châu Âu cho đến khi bị xâm lược trong Chiến tranh quốc tế thứ hai, và nhanh gọn thất thủ trước Wehrmacht Đức vào tháng 5 năm 1940 .
Zr. Ms. Holland là một tàu tuần tra ngoài khơi của Hải quân Hoàng gia Hà Lanlà một tàu tuần tra ngoài khơi của Hải quân Hoàng gia Hà LanHà Lan từ bỏ thực trạng trung lập vào năm 1948 khi ký kết Hiệp ước Bruxelles vào năm 1949. Quân đội Hà Lan do đó là bộ phận của NATO trong cuộc chiến tranh lạnh tại châu Âu, được tiến hành đến 1 số ít địa thế căn cứ tại Tây Đức. Trên 3.000 binh sĩ Hà Lan được phân vào Sư đoàn bộ binh số 2 của Hoa Kỳ trong Chiến tranh Triều Tiên. Năm 1996, chính sách quân dịch bị đình chỉ, và quân đội Hà Lan lại chuyển sang chính sách chuyên nghiệp. Kể từ thập niên 1990, quân đội Hà Lan từng tham gia Chiến tranh Bosnia và Chiến tranh Kosovo, và nắm giữ một tỉnh của Iraq sau thất bại của Saddam Hussein, và tham gia trong cuộc chiến tranh tại Afghanistan .

Quân đội Hà Lan gồm có bốn nhánh, đều mang tiền tố Koninklijke (hoàng gia): Koninklijke Landmacht (KL) tức Lục quân Hoàng gia Hà Lan; Koninklijke Marine (KM) tức Hải quân Hoàng gia Hà Lan, bao gồm hàng không Hải quân và thuỷ quân lục chiến; Koninklijke Luchtmacht (KLu) tức Không quân Hoàng gia Hà Lan; Koninklijke Marechaussee (KMar) tức Đội hiến binh Hoàng gia, chịu trách nhiệm quân cảnh và kiểm soát biên giới.

Korps Commandotroepen là lực lượng hành quân đặc biệt quan trọng của Lục quân Hà Lan, Open cho phái đẹp tuy nhiên do nhu yếu sức khỏe thể chất cực kỳ cao để đào tạo và giảng dạy bắt đầu nên phái đẹp hầu hết không hề trở thành một đặc công. [ 85 ] Bộ Quốc phòng Hà Lan sử dụng trên 70.000 nhân viên cấp dưới, gồm có trên 20.000 nhân viên cấp dưới dân sự và trên 50.000 nhân viên cấp dưới quân sự chiến lược tính đến năm 2011. [ 86 ] Trong tháng 4 năm 2011, chính phủ nước nhà công bố một đợt tinh giản trong quân đội do cắt giảm tiêu tốn cơ quan chính phủ, gồm có việc giảm số lượng xe tăng, chiến đấu cơ, tàu thủy quân và quan chức cấp cao. [ 87 ]
Hà Lan có nền kinh tế tài chính tăng trưởng, giữ một vai trò đặc biệt quan trọng trong kinh tế tài chính châu Âu từ nhiều thế kỷ. Kể từ thế kỷ XVI, những ngành đóng tàu, ngư nghiệp, nông nghiệp, mậu dịch và ngân hàng nhà nước là những nghành nghề dịch vụ đứng vị trí số 1 của kinh tế tài chính Hà Lan. Hà Lan có tự do kinh tế tài chính ở mức độ cao, đứng thứ hai trong Báo cáo Thuận lợi Mậu dịch Toàn cầu năm năm nay, và đứng thứ 5 về tính cạnh tranh đối đầu theo nhìn nhận của Học viện Phát triển Quản lý Quốc tế Thuỵ Sĩ vào năm 2017. [ 88 ] Ngoài ra, Hà Lan xếp thứ ba trong chỉ số phát minh sáng tạo toàn thế giới GII năm 2017. [ 89 ] Trong bảng xếp hạng chỉ số tự do kinh tế tài chính năm năm nay, Hà Lan đứng thứ 17/178 vương quốc. [ 90 ]Tính đến năm 2013, những đối tác chiến lược mậu dịch chủ chốt của Hà Lan là Đức, Bỉ, Anh, Mỹ, Pháp, Ý, Trung Quốc và Nga. [ 91 ] Hà Lan là một trong mười vương quốc xuất khẩu số 1 quốc tế. Thực phẩm là ngành lớn nhất, những ngành lớn khác là hoá chất, luyện kim, chế tạo máy, hàng điện tử, mậu dịch, dịch vụ và du lịch. Một số công ty Hà Lan có quy mô quốc tế là Randstad, Unilever, Heineken, KLM ; trong nghành dịch vụ có ING, ABN AMRO, Rabobank ; về hoá học có DSM, AKZO ; về lọc dầu có Royal Dutch Shell ; về máy móc điện tử có Philips, ASML ; về điều hướng xe hơi có TomTom ) .Hà Lan có GDP danh nghĩa lớn thứ 18 quốc tế, và GDP danh nghĩa trung bình đứng thứ 13 quốc tế vào năm năm nay theo số liệu của IMF. Từ năm 1997 đến năm 2000, vận tốc tăng trưởng kinh tế tài chính hàng năm trung bình là gần 4 %, hơn nhiều mức trung bình của châu Âu. Tăng trưởng chậm lại đáng kể từ năm 2001 đến năm 2005 do suy thoái và khủng hoảng kinh tế tài chính toàn thế giới, tuy nhiên tăng cường lên 4,1 % vào quý thứ ba của năm 2007. Trong quý 3 và 4 năm 2011, kinh tế tài chính Hà Lan lần lượt giảm 0,4 % và 0,7 %, do khủng hoảng cục bộ nợ công châu Âu, trong khi vào quý 4 kinh tế tài chính khu vực đồng euro giảm 0,3 %. [ 92 ] Trong tháng 5 năm 2013, mức lạm phát kinh tế là 2,8 % / năm. [ 93 ] Trong tháng 4 năm 2013, tỷ suất thất nghiệp là 8,2 % ( hoặc 6,7 % theo định nghĩa của ILO ). [ 94 ] Trong tháng 4 năm 2017, số lượng này giảm xuống 5,1 %. [ 95 ] Hà Lan có thông số GINI tương đối thấp. UNICEF xếp hạng Hà Lan ở vị trí thứ nhất về phúc lợi trẻ nhỏ trong số những vương quốc phong phú, cả trong năm 2007 và năm 2013. [ 96 ] [ 97 ] [ 98 ]Amsterdam là thủ đô kinh tế tài chính và kinh doanh thương mại của Hà Lan. [ 99 ] Sàn thanh toán giao dịch sàn chứng khoán Amsterdam ( AEX ) là bộ phận của Euronext, đây là sàn thanh toán giao dịch sàn chứng khoán cổ nhất trên quốc tế và nằm trong số những kinh doanh thị trường chứng khoán lớn nhất châu Âu. Sàn nằm gần Quảng trường Dam tại TT thành phố. Hà Lan là thành viên sáng lập euro, sửa chữa thay thế đơn vị chức năng tiền tệ cũ là ” gulden “. Tại Caribe Hà Lan, đô la Mỹ được sử dụng thay cho euro .

Hà Lan là bộ phận của liên minh tiền tệ khu vực đồng euro (lam đậm), và của thị trường chung châu Âu].

Vị trí của Hà Lan được cho phép họ có lợi thế tiếp cận thị trường Anh và Đức, cùng với cảng Rotterdam lớn nhất châu Âu. Các bộ phận quan trọng khác của nền kinh tế tài chính là ngoại thương ( chủ nghĩa thực dân Hà Lan mở màn với những doanh nghiệp tư nhân hợp tác như Công ty Đông Ấn Hà Lan ), ngân hàng nhà nước và giao thông vận tải. Hà Lan thành công xuất sắc trong việc xử lý những yếu tố tài chính công và đình trệ việc làm trước những đối tác chiến lược của họ tại châu Âu. Amsterdam là khu vực du lịch sinh động thứ năm tại châu Âu với trên 4,2 triệu hành khách quốc tế theo số liệu năm 2009. [ 100 ] Kể từ khi lan rộng ra Liên minh châu Âu, có lượng lớn công nhân di cư đến Hà Lan từ những vương quốc Trung và Đông Âu. [ 101 ]BrabantStad là một quan hệ đối tác chiến lược giữa những khu tự quản Breda, Eindhoven, Helmond, ‘ s-Hertogenbosch và Tilburg và tỉnh Noord-Brabant. BrabantStad là vùng kinh tế tài chính tăng trưởng nhanh nhất tại Hà Lan, với Brabantse Stedenrij ( vùng thành phố đa TT ) là một trong những vùng số 1 toàn nước, chỉ đứng sau khu thành thị lớn Randstad ( Amsterdam, Rotterdam, Den Haag và Utrecht ). [ 102 ] Quan hệ đối tác chiến lược tại Noord-Brabant nhắm tiềm năng hình thành một mạng lưới đô thị và biến tỉnh này có vị thế điển hình nổi bật là một vùng tri thức số 1 tại châu Âu. Với tổng dân số 1,5 triệu và 20 % sản lượng công nghiệp của Hà Lan, BrabantStad là một trong những vùng quan trọng về kinh tế tài chính của nước này. Một phần tư số việc làm trong vùng là về kỹ thuật, và công nghệ thông tin-truyền thông. [ 103 ]Trong số hàng loạt những đơn xin cấp văn bằng bản quyền trí tuệ của châu Âu trong nghành nghề dịch vụ vật lý học và điện tử, có khoảng chừng 8 % đến từ tỉnh Noord-Brabant. [ 104 ] Trong vùng lan rộng ra, BrabantStad là bộ phận của tam giác Eindhoven-Leuven-Aachen ( ELAT ). Hiệp định hợp tác kinh tế tài chính giữa ba thành phố tại ba vương quốc tạo ra một trong những vùng phát minh sáng tạo nhất trong Liên minh châu Âu ( xét theo tiền góp vốn đầu tư vào công nghệ tiên tiến và kinh tế tri thức ). [ 105 ] Thành công kinh tế tài chính của vùng này có ý nghĩa quan trọng so với tính cạnh tranh đối đầu quốc tế của Hà Lan ; Amsterdam, Rotterdam, và Eindhoven cùng nhau tạo thành nền tảng cho kinh tế tài chính Hà Lan. [ 106 ] Hà Lan liên tục là một trong những vương quốc số 1 châu Âu về lôi cuốn góp vốn đầu tư trực tiếp quốc tế, và là một trong những vương quốc góp vốn đầu tư lớn nhất tại Hoa Kỳ .
Kể từ thập niên 1950, Hà Lan phát hiện được trữ lượng khí đốt tự nhiên khổng lồ. Việc bán khí đốt tự nhiên mang lại lệch giá khổng lồ cho Hà Lan trong nhiều thập niên, thêm vào hàng trăm tỉ euro cho ngân sách chính phủ nước nhà. [ 107 ] Tuy nhiên, của cải từ nguồn nguồn năng lượng khổng lồ có ảnh hưởng tác động không lường trước được đến tính cạnh tranh đối đầu của những nghành kinh tế tài chính khác, dẫn đến thuyết căn bệnh Hà Lan. [ 107 ] Hà Lan được ước tính chiếm hữu 25 % trữ lượng khí đốt tự nhiên trong Liên minh châu Âu. [ 108 ]Ngoài than đá và khí đốt, Hà Lan không còn tài nguyên khai khoáng nào, và mỏ than ở đầu cuối bị đóng cửa vào năm 1974. Mỏ khí Groningen là một trong những mỏ khí đốt tự nhiên lớn nhất trên quốc tế, nằm gần Slochteren. Việc khai thác này tạo được lệch giá 159 tỉ euro từ giữa thập niên 1970 đến năm 2009. [ 109 ] Mỏ hoạt động giải trí dưới quyền của công ty quốc doanh Gasunie và khai thác chung bởi chính phủ nước nhà, Royal Dutch Shell, và Exxon Mobil trải qua NAM ( Nederlandse Aardolie Maatschappij ). Việc khai thác khí đốt dẫn đến ngày càng tăng chấn động mặt đất mạnh, 1 số ít trận có cường độ lên tới 3,6 độ theo thang cường độ Richter. Ngân sách chi tiêu để thay thế sửa chữa thiệt hại, cải tổ cấu trúc của những toà nhà, và bồi thường cho giá trị nhà bị suy giảm ước tính là 6,5 tỉ euro. Khoảng 35.000 ngôi nhà được cho là bị tác động ảnh hưởng. [ 110 ]
Bò gần thành phố ArnhemKhu vực nông nghiệp của Hà Lan được cơ giới hoá cao độ, và tập trung chuyên sâu mạnh vào xuất khẩu quốc tế. Ngành này sử dụng khoảng chừng 4 % lực lượng lao động của Hà Lan tuy nhiên tạo ra thặng dư lớn cho ngành công nghiệp chế biến thực phẩm và góp phần 21 % vào tổng kim ngạch xuất khẩu của Hà Lan. [ 111 ] Hà Lan xếp thứ hai quốc tế về giá trị xuất khẩu nông nghiệp, chỉ sau Hoa Kỳ. [ 112 ] với nguồn thu xuất khẩu là 80,7 tỉ euro vào năm năm trước, [ 113 ] tăng so với 75,4 tỉ euro vào năm 2012. [ 11 ]Trong một số ít thời gian gần đây, Hà Lan từng phân phối một phần tư tổng cà chua xuất khẩu trên quốc tế, và việc kinh doanh một phần ba xuất khẩu của quốc tế về ớt, cà chua và dưa chuột là trải qua Hà Lan. Hà Lan cũng xuất khẩu một phần mười lăm táo tây của quốc tế. [ 114 ]Ngoài ra, một phần đáng kể xuất khẩu nông sản của Hà Lan là cây tươi cắt, hoa, và củ hoa, chiếm hai phần ba tổng xuất khẩu toàn quốc tế. [ 114 ]
Tính lưu động trên những tuyến đường đi bộ của Hà Lan tăng trưởng liên tục kể từ thập niên 1950 và nay vượt trên 200 tỉ km qua lại mỗi năm, [ 115 ] three quarters of which are done by car. [ 116 ] Khoảng 50% số hành trình dài tại Hà Lan được triển khai bằng xe hơi, 25 % bằng xe đạp điện, 20 % bằng cách đi bộ, và 5 % sử dụng giao thông vận tải công cộng. [ 116 ] Tổng chiều dài mạng lưới đường đi bộ là 139.295 km, gồm có 2.758 km đường cao tốc, [ 117 ] Hà Lan có một trong những mạng lưới đường đi bộ rậm rạp nhất trên quốc tế, hơn nhiều so với Đức hay Pháp tuy nhiên thấp hơn Bỉ. [ 118 ]
Xa lộ A1 tại GelderlandKhoảng 13 % hàng loạt quãng đường được đi bằng phương tiện đi lại công cộng, đa phần là dùng tàu hoả. [ 116 ] Giống như nhiều vương quốc châu Âu khác, mạng lưới đường tàu Hà Lan gồm 3.013 km cũng khá sum sê. [ 119 ] Mạng lưới hầu hết tập trung chuyên sâu vào dịch vụ đường tàu chở khách và link gần như hàng loạt những thành thị chính. Các tuyến đường ray liên tục hoạt động giải trí, có một hoặc hai chuyến mỗi giờ trên những tuyến nhỏ, hai đến bốn chuyến mỗi giờ ở những tuyến trung bình, và đến tám chuyến mỗi giờ tại những tuyến sinh động nhất .Đạp xe là một phương pháp giao thông vận tải rộng khắp tại Hà Lan. Số km hành trình dài của xe đạp điện tương tự với tàu hoả. [ 116 ] Người Hà Lan được ước tính chiếm hữu tối thiểu 18 triệu xe đạp điện, [ 120 ] [ 121 ] nghĩa hơn mỗi người có hơn một xe, gấp đôi so với khoảng chừng 9 triệu xe hơi trên đường. [ 122 ] Năm 2013, Liên đoàn người đi xe đạp điện châu Âu xếp hạng Hà Lan và Đan Mạch là những vương quốc thân thiện nhất với xe đạp điện tại châu Âu, [ 123 ] tuy nhiên người Hà Lan ( 36 % ) xếp trên người Đan Mạch ( 23 % ) về việc xe đạp điện là phương pháp liên tục nhất trong giao thông vận tải ngày thông thường. [ 124 ] [ nb 1 ] Hạ tầng cho việc đạp xe có tính tổng lực. Các tuyến đường sinh động có khoảng chừng 35.000 km đường đi dành riêng cho xe đạp điện, được tách biệt về tự nhiên khỏi giao thông vận tải cơ giới. [ 127 ] Các nút giao sinh động thường có những thiết bị đèn giao thông vận tải dành cho xe đạp điện. Tồn tại những hạ tầng gửi xe đạp điện cỡ lớn, đặc biệt quan trọng là trung TT thành phố và tại những nhà ga đường tàu .Rotterdam là cảng lớn nhất tại châu Âu, những sông Meuse và Rhine tạo ra con đường tiếp cận lý tưởng đến vùng thượng du nội lục xa đến Basel, Thuỵ Sĩ, và đến Pháp. Tính đến năm 2013, Rotterdam là cảng container lớn thứ tám trên quốc tế, chuyên chở 440,5 triệu tấn hàng hoá mỗi năm. [ 128 ] Các công dụng chính của cảng là công nghiệp hoá dầu và chuyên chở chung, và trung chuyển tàu. Cảng là một điểm trung chuyển quan trọng so với hàng rời và giữa lục địa châu Âu với hải ngoại. Từ Rotterdam, hàng hoá được chuyên chở bằng tàu, sà lan sông, tàu hoả hoặc đường đi bộ. Năm 2007, tuyến đường sắt chở hàng nhanh Betuweroute giữa Rotterdam với Đức được triển khai xong .Sân bay Schiphol nằm ngay tây nam của Amsterdam, là cảng hàng không quốc tế quốc tế chính của Hà Lan, và là trường bay sinh động thứ ba tại châu Âu về lượng hành khách. Năm năm nay, những trường bay của Royal Schiphol Group chuyên chở 70 triệu hành khách. [ 129 ]Nằm trong cam kết của mình về tính vững chắc thiên nhiên và môi trường, chính phủ nước nhà Hà Lan khởi xướng một kế hoạch thiết lập trên 200 trạm nạp điện cho những phương tiện đi lại chạy bằng điện trên khắp quốc gia đến năm năm ngoái. Việc tiến hành được triển khai bởi công ty nguồn năng lượng và tự động hóa hoà ABB có trụ sở tại Thuỵ Sĩ và công ty khởi nghiệp Hà Lan Fastned, nhắm tiềm năng phân phối tối thiểu một trạm trong nửa đường kính 50 km từ mọi mái ấm gia đình tại Hà Lan. [ 130 ]
Tháp dân số Hà Lan năm năm nayDân số Hà Lan ước tính đạt 17.093.000 vào tháng 1 năm 2017. [ 131 ] Đây là vương quốc có tỷ lệ dân số cao nhất tại châu Âu nếu không kể những thành bang như Monaco hay Thành Vatican. Từ năm 1900 đến năm 1950, dân số Hà Lan tăng gần gấp đôi từ 5,1 lên 10 triệu. Từ năm 1950 đến năm 2000, dân số liên tục ngày càng tăng, lên đến 15,9 triệu, tuy nhiên với vận tốc thấp hơn. [ 132 ] Tốc độ ngày càng tăng vào năm 2013 ước tính là 0,44 %. [ 133 ]Tỷ suất sinh tại Hà Lan là 1,78 trẻ mỗi phụ nữ theo ước tính năm 2013 [ 133 ], cao hơn so với nhiều vương quốc châu Âu khác, tuy nhiên dưới mức sửa chữa thay thế là 2,1 trẻ mỗi phụ nữ. Tuổi thọ dự trù khi sinh của Hà Lan ở mức cao, với 83,21 năm so với trẻ gái và 78,93 so với trẻ trai sơ sinh theo ước tính vào năm 2013. [ 133 ] ). Hà Lan có tỷ suất di cư là 1,99 người di cư mỗi 1.000 dân cư một năm. [ 133 ]Đa số dân cư Hà Lan thuộc dân tộc bản địa Hà Lan. Theo ước tính vào năm 2005, thành phần dân tộc bản địa là 80,9 % người Hà Lan, 2,4 % người Indonesia, 2,4 % người Đức, 2,2 % người Thổ Nhĩ Kỳ, 2,0 % người Suriname, 1,9 % người Maroc, 0,8 % người Antilles và Aruba, và 7,4 % thuộc những nhóm khác. [ 134 ] Có khoảng chừng 150.000 đến 200.000 người sống tại Hà Lan là ngoại kiều, hầu hết tập trung chuyên sâu tại và xung quanh Amsterdam và Den Haag, nay chiếm khoảng chừng 10 % dân số những thành phố này. [ 135 ] [ 136 ]Người Hà Lan là dân tộc bản địa cao nhất trên quốc tế, [ 137 ] chiều cao trung bình là 1,81 m so với phái mạnh trưởng thành và 1,67 m so với phái đẹp trưởng thành theo số liệu năm 2009. [ 138 ] Cư dân miền nam trung bình thấp hơn 2 cm so với dân cư miền bắc .
Tại Rotterdam, gần 50% dân cư có nguồn gốc di dân .Theo Eurostat, vào năm 2010 có 1,8 triệu cư dân số tại quốc tế tại Hà Lan, tương ứng với 11,1 % dân số. Trong số đó, 1,4 triệu người ( 8,5 % ) sinh ngoài Liên minh châu Âu và 0,428 triệu người ( 2,6 % ) sinh tại những vương quốc trong Liên minh châu Âu. [ 139 ] Vào ngày 21 tháng 11 năm năm nay, có 3,8 triệu dân cư Hà Lan có tối thiểu một cha / mẹ sinh tại quốc tế ( ” nguồn gốc di dân ” ). [ 140 ] Trên một nửa người trẻ tuổi tại Amsterdam và Rotterdam có nguồn gốc ngoài phương tây. [ 141 ] Người Hà Lan hoặc những hậu duệ của người Hà Lan cũng hiện hữu trên khắp quốc tế, đáng chú ý quan tâm là tại Canada, Úc, Nam Phi và Hoa Kỳ. Theo tìm hiểu năm 2006 tại Hoa Kỳ, có trên 5 triệu người Mỹ cho biết rằng họ có nguồn gốc Hà Lan thuần chủng hoặc một phần. [ 142 ] Có gần 3 triệu người Afrikaner gốc Hà Lan sống tại Nam Phi. [ 143 ] Năm 1940, có 290.000 người châu Âu và người lai Á-Âu tại Indonesia, [ 144 ] tuy nhiên hầu hết rời khỏi nước này sau đó. [ 145 ]Hà Lan là một vương quốc có tỷ lệ dân số cao, với trên 400 người / km² còn nếu chỉ tính mặt đất thì số lượng này là trên 500 người / km². [ 146 ] Randstad là chùm đô thị lớn nhất Hà Lan, nằm tại phía tây của quốc gia và có bốn thành phố lớn : Amsterdam thuộc tỉnh Noord-Holland, Rotterdam và Den Haag thuộc tỉnh Zuid-Holland, và Utrecht thuộc tỉnh Utrecht. Randstad có khoảng chừng 7 triệu dân cư và là vùng đại đô thị lớn thứ năm tại châu Âu. Theo Cục Thống kê Trung ương Hà Lan, vào năm năm ngoái, có 28 % dân cư Hà Lan có thu nhập khả dụng trên 40.000 euro ( không gồm có tiêu tốn vào y tế hay giáo dục ). [ 147 ]

Các vùng đô thị chức năng

Mật độ dân số tại Hà Lan vào năm 2007
[150]Kiến thức ngoại ngữ của dân cư Hà Lan, theo Xác Suất dân số từ 15 tuổi trở lên, năm 2006

Ngôn ngữ chính thức là tiếng Hà Lan, được đại đa số cư dân nói. Bên cạnh tiếng Hà Lan, tiếng Tây Frisia được công nhận là một ngôn ngữ chính thức thứ hai tại tỉnh Friesland.[151] Tiếng Tây Frisia có vị thế chính thức đối với thư tín của chính phủ trong tỉnh này. Tại phần châu Âu của vương quốc có hai ngôn ngữ khu vực khác được công nhận theo Hiến chương châu Âu về các ngôn ngữ khu vực và thiểu số,[152] là tiếng Hạ Sachsen (Nedersaksisch) gồm một số phương ngữ được nói tại miền bắc và miền đông, như phương ngữ Twente tại vùng Twente, và phương ngữ Drenthe tại tỉnh Drenthe; và tiếng Limburg gồm các dạng tại Hà Lan của các ngôn ngữ Franconia Meuse-Rhine được nói tại tỉnh Limburg.[58] Các phương ngữ được nói nhiều nhất tại Hà Lan là Brabant-Holland.[153]

Tiếng Ripuaria được nói tại Kerkrade và Vaals lần lượt dưới dạng phương ngữ Kerkrade và phương ngữ Vaals [ 154 ] [ 155 ] tuy nhiên không được công nhận là một ngôn từ khu vực của Hà Lan, những phương ngữ này nhiều lúc được xem là một phần hoặc có liên hệ với tiếng Limburg .Tiếng Anh có vị thế chính thức tại những khu tự quản đặc biệt quan trọng Saba và Sint Eustatius tại Caribe, được nói phổ cập trên những hòn đảo này. Papiamento có vị thế chính thức tại khu tự quản đặc biệt quan trọng Bonaire tại Caribe. Tiếng Yiddish và tiếng Digan được công nhận là những ngôn từ phi chủ quyền lãnh thổ vào năm 1996. [ 156 ]

Người Hà Lan có truyền thống học ngoại ngữ, điều này được chính thức hoá trong luật giáo dục Hà Lan. Khoảng 90% tổng dân số Hà Lan cho biết rằng họ có thể giao tiếp bằng tiếng Anh, 70% bằng tiếng Đức, và 29% bằng tiếng Pháp.[157] Tiếng Anh là môn học bắt buộc trong toàn bộ các trường trung học.[158] Trong hầu hết các trường sơ trung học (vmbo), một ngoại ngữ hiện đại khác là môn học bắt buộc trong hai năm đầu.[159] Trong các trường cao trung học (HAVO và VWO), hai ngoại ngữ hiện đại khác là môn bắt buộc trong ba năm đầu, chỉ trong ba năm cuối của VWO thì mới giảm xuống còn bắt buộc một ngoại ngữ. Ngoài tiếng Anh, các ngôn ngữ tiêu chuẩn hiện đại là tiếng Pháp và Đức, song các trường có thể thay thế một trong các ngôn ngữ này bằng tiếng Tây Ban Nha, Thổ Nhĩ Kỳ, Ả Rập hoặc Nga.[159] Ngoài ra, các trường học tại Friesland giảng dạy và có kỳ thi tiếng Tây Frisia, và các trường trên toàn quốc giảng dạy và có kỳ thi tiếng Hy Lạp cổ đại và tiếng Latinh cho các trường trung học (gọi là Gymnasium hoặc VWO+).

Cơ Đốc giáo là tôn giáo chi phối tại Hà Lan cho đến cuối thế kỷ XX. Mặc dù Hà Lan vẫn có tính phong phú về tôn giáo, tuy nhiên diễn ra xu thế suy thoái và khủng hoảng gắn bó với tôn giáo. Năm năm ngoái, Cục Thống kê Hà Lan tích lũy thông tin thống kê về Hà Lan, hiệu quả là 50,1 % tổng dân số công khai minh bạch rằng họ không theo tôn giáo. Tín đồ Cơ Đốc giáo chiếm 43,8 % tổng dân số, trong đó Công giáo La Mã với 23,7 %, Tin Lành với 15,5 % và những giáo phái Cơ Đốc khác là 4,6 %. Tín đồ Hồi giáo chiếm 4,9 % tổng dân số và những tôn giáo khác ( như Do Thái giáo, Phật giáo và Ấn Độ giáo ) chiếm 1,1 % còn lại. [ 160 ]Theo phỏng vấn chuyên sâu độc lập của Đại học Radboud và Đại học Vrije Amsterdam vào năm 2006, 34 % người Hà Lan được xác lập là Fan Hâm mộ Cơ Đốc giáo, [ 161 ] đến năm năm ngoái giảm xuống còn gần 25 % dân số trung thành với chủ với một giáo phái Cơ Đốc ( 11,7 % Công giáo La Mã, 8,6 % Giáo hội Tin Lành Hà Lan, 4,2 % những giáo phái Cơ Đốc nhỏ khác ), 5 % là người Hồi giáo và 2 % trung thành với chủ với Ấn Độ giáo hay Phật giáo, khoảng chừng 67,8 % dân số vào năm năm ngoái không link tôn giáo, tăng từ 61 % vào năm 2006, 53 % vào năm 1996, 43 % vào năm 1979 và 33 % vào năm 1966. [ 162 ] [ 163 ] SCP dự trù số lượng người Hà Lan không link tôn giáo đạt 72 % vào năm 2020. [ 164 ]Hiến pháp Hà Lan bảo vệ quyền tự do trong giáo dục, nghĩa là hàng loạt những trường học tôn trọng tiêu chuẩn chất lượng chung đều được nhận hỗ trợ vốn như nhau của chính phủ nước nhà. Điều này gồm có những trường học dựa trên những nguyên tắc tôn giáo thuộc những nhóm tôn giáo ( đặc biệt quan trọng là Công giáo La Mã và những nhóm Tin Lành ). Ba chính đảng trong Quốc hội Hà Lan là dựa trên đức tin Cơ Đốc. Một số dịp nghỉ lễ tôn giáo Cơ Đốc là ngày nghỉ lễ vương quốc ( Giáng sinh, Phục sinh, Hiện xuống và Thăng thiên ). [ 165 ] Vào cuối thế kỷ XIX, thuyết vô thần khởi đầu nổi lên khi chủ nghĩa thế tục, chủ nghĩa tự do và chủ nghĩa xã hội tăng trưởng ; trong thập niên 1960 và 1970 Tin Lành và Công giáo khởi đầu suy thoái và khủng hoảng đáng kể. Tuy nhiên, Hồi giáo tăng trưởng đáng kể do nhập cư, và kể từ năm 2000 có sự ngày càng tăng nhận thức về tôn giáo, đa phần là do chủ nghĩa Hồi giáo cực đoan. [ 166 ] .Theo một nghiên cứu và điều tra vào tháng 12 năm năm trước của Đại học VU Amsterdam thì lần tiên phong số người theo thuyết vô thần ( 25 % ) đông hơn người theo thuyết hữu thần ( 17 % ) tại Hà Lan. Đa số dân chúng theo thuyết bất khả tri ( 31 % ) hoặc chút ít ( 27 % ). [ 167 ]
Vương cung thánh đường Thánh Nicholas tại AmsterdamNăm năm ngoái, đại đa số dân cư Hà Lan ( 82 % ) cho biết họ chưa từng hoặc gần như chưa từng đến nhà thời thánh, và 59 % nói rằng họ chưa từng đến nhà thời thánh dưới bất kể hình thức nào. Trong số những người được hỏi, 24 % nhận mình là người vô thần, tăng 11 % so với nghiên cứu và điều tra vào năm 2006. [ 162 ] Sự ngày càng tăng dự trù về tính niềm tin ( ietsisme ) sẽ ngưng lại theo nghiên cứu và điều tra vào năm năm ngoái. Năm 2006, 40 % số người vấn đáp tự nhận có niềm tin, đến năm năm ngoái số lượng này giảm còn 31 %. Số lượng người tin vào sự sống sót của một quyền lực tối cao bề trên giảm từ 36 % xuống 28 % trong cùng quá trình. [ 161 ]Cơ Đốc giáo hiện là tôn giáo lớn nhất tại Hà Lan. Các tỉnh Noord-Brabant và Limburg có truyền thống lịch sử can đảm và mạnh mẽ tin theo Công giáo La Mã, và một số ít dân cư tại đó vẫn nhìn nhận Giáo hội Công giáo là nền tảng cho truyền thống văn hoá của họ. Tin Lành tại Hà Lan gồm có 1 số ít giáo hội, lớn nhất trong số đó là Giáo hội Tin Lành Hà Lan ( PKN ), đây là một giáo hội thống nhất có khuynh hướng Cải cách và Luther. [ 168 ] Giáo hội này được xây dựng vào năm 2004 với việc hợp nhất Giáo hội Cải cách Hà Lan, Các giáo hội Cải cách tại Hà Lan và một giáo hội Luther nhỏ hơn. Một số giáo hội Cải cách chính thống và tự do không hợp nhất với PKN. Mặc dù Fan Hâm mộ Cơ Đốc giáo nay là thiểu số tại Hà Lan, tuy nhiên Hà Lan có một vành đai Kinh Thánh từ Zeeland đến phần phía bắc của tỉnh Overijssel, tại đó những đức tin Tin Lành ( đặc biệt quan trọng là Cải cách ) vẫn can đảm và mạnh mẽ, và thậm chí còn chiếm hầu hết tại những hội đồng tự quản .Hồi giáo là tôn giáo lớn thứ nhì tại Hà Lan, và vào năm 2012 tôn giáo này có khoảng chừng 825.000 Fan Hâm mộ ( 5 % dân số ). [ 169 ] Số lượng người Hồi giáo khởi đầu ngày càng tăng từ năm 1960 do có lượng lớn công nhân di cư. Con số này gồm có di dân từ những cựu thuộc địa Hà Lan như Suriname và Indonesia, tuy nhiên hầu hết là công nhân di cư từ Thổ Nhĩ Kỳ và Maroc. Trong thập niên 1990, người Hồi giáo tị nạn đến từ những vương quốc như Bosnia và Herzegovina, Iran, Iraq, Somalia và Afghanistan. [ 170 ]Các tôn giáo khác chiếm khoảng chừng 6 % dân chúng Hà Lan. Ấn Độ giáo có khoảng chừng 215.000 Fan Hâm mộ, hầu hết là người Suriname gốc Ấn Độ. Ngoài ra, còn có số lượng đáng kể người nhập cư theo Ấn Độ giáo đến từ Ấn Độ và Sri Lanka, và 1 số ít Fan Hâm mộ phương Tây của những trào lưu tôn giáo mới có khuynh hướng Ấn Độ giáo như Hare Krishna. Hà Lan có khoảng chừng 250.000 Fan Hâm mộ Phật giáo hoặc những người gắn bó can đảm và mạnh mẽ với tôn giáo này, nhiều người thuộc dân tộc bản địa Hà Lan. Có khoảng chừng 45.000 người Do Thái tại Hà Lan .
Giáo dục đào tạo tại Hà Lan có đặc thù nghĩa vụ và trách nhiệm so với trẻ từ 5 đến 15 tuổi. [ 171 ] Toàn bộ trẻ nhỏ tại Hà Lan thường theo học tiểu học từ 4 đến 12 tuổi. Tiểu học gồm có tám năm, và dựa trên một bài kiểm tra năng lượng, khuyến nghị của giáo viên năm lớp tám và quan điểm của cha mẹ hoặc người giám hộ học viên, sẽ có một lựa chọn về một trong ba hướng giáo dục trung học ( sau khi hoàn thành xong một chương trình, học viên vẫn hoàn toàn có thể liên tục vào năm áp chót của chương trình sau đó ) :

  • Voorbereidend middelbaar beroepsonderwijs (VMBO) có bốn bậc học và chia thành một vài mức. Người hoàn thành VMBO với mức độ nghề nghiệp thấp được cấp quyền theo học MBO. MBO là một hình thức giáo dục chủ yếu tập trung vào giảng dạy một nghề nghiệp thực tiễn, hoặc một bằng nghề nghiệp. Với bằng MBO, sinh viên có thể nộp đơn theo học HBO.
  • Hoger algemeen voortgezet onderwijs (HAVO) gồm năm bậc học và cho phép nhập học HBO. HBO là các trường đại học giáo dục nghề nghiệp (khoa học ứng dụng) cấp bằng cử nhân chuyên nghiệp; tương tự như các bằng bách khoa. Một bằng HBO cho phép tiếp cận hệ thống đại học.
  • Voorbereidend wetenschappelijk onderwijs (VWO) (gồm atheneum và gymnasium) có 6 năm học và chuẩn bị cho học tập tại một đại học (nghiên cứu).

Các ĐH phân phối chương trình cử nhân ba năm, tiếp theo là chương trình thạc sĩ 1-3 năm, sau đó hoàn toàn có thể theo một chương trình tiến sỹ bốn năm. Các ứng viên tiến sỹ tại Hà Lan thường là nhân viên cấp dưới không biên chế của một ĐH. Toàn bộ những ĐH tại Hà Lan do nhà nước chiếm hữu và quản lý và điều hành, và có một khoảng chừng học phí khoảng chừng 2000 euro mỗi năm so với sinh viên đến từ Hà Lan và Liên minh châu Âu .

Giáo dục bậc đại học tại Hà Lan gồm hai loại hình thể chế là các đại học khoa học ứng dụng (HBO) dành cho những người tốt nghiệp HAVO, VWO và MBO, và các đại học nghiên cứu (universiteiten; WO) chỉ dành cho những người tốt nghiệp VWO và HBO (bao gồm tốt nghiệp HBO propaedeuse). HBO bao gồm các thể chế tổng hợp hoặc các thể chế chuyên về một lĩnh vực cụ thể, như nông nghiệp, nghệ thuật thị giác và trình diễn, hoặc đào tạo giáo dục, trong khi Wo gồm 12 đại học tổng hợp cùng ba đại học kỹ thuật.[172]

Kể từ tháng 9 năm 2002, hệ thống giáo dục bậc đại học tại Hà Lan được tổ chức theo một hệ thống ba chu kỳ gồm cử nhân, thạc sĩ và tiến sĩ, nhằm thích hợp và tiêu chuẩn hoá giảng dạy trong cả HBO và WO theo tiến trình Bologna. Trong cùng thời gian, hệ thống ECTS được chấp thuận làm cách thức định lượng khối lượng công việc của sinh viên. Bất chấp những thay đổi này, hệ thống lưỡng thể có khác biệt giữa giáo dục định hướng nghiên cứu và giáo dục bậc cao định hướng nghề nghiệp vẫn tồn tại trên thực tế. Chương trình tiến sĩ chỉ được cung cấp từ các đại học nghiên cứu, quá trình nghiên cứu sinh tiến sĩ được gọi là “thăng cấp” (promotie). Bằng tiến sĩ chủ yếu là một bằng nghiên cứu, một luận văn dựa trên nghiên cứu gốc cần phải được viết và bảo vệ công khai. Nghiên cứu này thường được tiến hành khi họ làm việc tại một trường đại học với vị thế promovendus (trợ lý nghiên cứu).

Một bệnh viện cong tại Amersfoort, tỉnh UtrechtNăm năm nay, Hà Lan duy trì vị trí số một trong Chỉ số người thụ hưởng y tế châu Âu ( EHCI ), là chỉ số so sánh những mạng lưới hệ thống y tế tại châu Âu. Hà Lan thuộc ba vương quốc tiên phong trong những báo cáo giải trình công bố kể từ năm 2005. Trong số 48 tiêu chuẩn như quyền hạn, thông tin, năng lực tiếp cận và hiệu quả, Hà Lan bảo vệ vị trí đứng đầu trong sáu năm liên tục. [ 173 ] Hà Lan xếp thứ nhất trong một nghiên cứu và điều tra vào năm 2009 về so sánh những mạng lưới hệ thống y tế của Hoa Kỳ, Úc, Canada, Đức và New Zealand. [ 174 ] [ 175 ]Hầu hết bệnh viện tại Hà Lan do tư nhân quản lý và điều hành, thuộc những tổ chức triển khai phi doanh thu, tuy nhiên hầu hết nhà phân phối bảo hiểm y tế là những công ty vì doanh thu. [ 176 ] Có khoảng chừng 90 tổ chức triển khai bệnh viện tại Hà Lan, [ 177 ] một số ít quản lý nhiều bệnh viện trên trong thực tiễn, thường là do hợp nhất những bệnh viện độc lập vào trước đó. Hà Lan có một mạng lưới 160 TT chăm nom sơ cấp cấp tính luôn Open, do vậy mọi người hoàn toàn có thể tiếp cận thuận tiện. [ 178 ] Phân tích của Viện Quốc gia về Y tế công cộng và Môi trường Hà Lan cho thấy rằng 99,8 % dân cư hoàn toàn có thể được luân chuyển đến một đơn vị chức năng cấp cứu hoặc bệnh viện phân phối sản khoa cấp cứu trong vòng 45 phút vào năm năm ngoái. [ 179 ]Kể từ khi có một cuộc cải cách lớn về mạng lưới hệ thống y tế vào năm 2006, mạng lưới hệ thống của Hà Lan nhận được thêm nhiều điểm mỗi năm. Theo HCP ( Health Consumer Powerhouse ), Hà Lan có ‘ một mạng lưới hệ thống lộn xộn ‘, nghĩa là bệnh nhân có mức độ tự do lớn về nơi mua bảo hiểm y tế, cho đến nơi họ nhận dịch vụ y tế. Tuy nhiên độc lạ giữa Hà Lan và những vương quốc khác chính là sự hỗn loạn này được quản trị. Các quyết định hành động y tế được triển khai trải qua đối thoại giữa bệnh nhân và chuyên viên y tế. [ 180 ]Bảo hiểm y tế tại Hà Lan là điều bắt buộc. Y tế tại Hà Lan được bao trùm bởi hai hình thức bảo hiểm luật định : Zorgverzekeringswet ( Zvw ), thường gọi là ” bảo hiểm cơ bản “, gồm có chăm nom y tế thường thì. Algemene Wet Bijzondere Ziektekosten ( AWBZ ) gồm có điều dưỡng và chăm nom y tế dài hạn. Trong khi dân cư Hà Lan được tự động hóa nhận bảo hiểm AWBZ từ cơ quan chính phủ, thì mọi người phải mua bảo hiểm y tế cơ bản cho mình ( basisverzekering ), ngoại trừ những người dưới 18 được tự động hóa gắn liền theo tiền đóng bảo hiểm của cha mẹ .

Y tế tại Hà Lan có thể chia thành một vài cách thức: Ba cấp bậc là chăm sóc y tế thân thể và tinh thần, ‘điều trị’ (ngắn hạn), ‘chăm sóc’ (dài hạn). Các bác sĩ gia đình (huisartsen, có thể so sánh với bác sĩ đa khoa) tạo thành bộ phận lớn nhất của cấp bậc đầu tiên. Tham khảo một thành viên trong cấp đầu tiên là điều bắt buộc để tiếp cận cấp thứ hai và thứ ba.[181] Hệ thống chăm sóc y tế Hà Lan khá hiệu quả so với các quốc gia phương Tây khác song không phải là có hiệu quả chi phí nhất.[182]

Y tế tại Hà Lan là một hệ thống kép, có hiệu lực từ tháng 1 năm 2006. Điều trị dài hạn, đặc biệt là các bệnh liên quan đến nằm viện bán thường xuyên, và các chi phí tàn tật như xe lăn, được che phủ bởi một loại bảo hiểm bắt buộc do nhà nước kiểm soát. Điều này được quy định trong Algemene Wet Bijzondere Ziektekosten (“Luật tổng quát về Chi phí y tế đặc biệt”) có hiệu lực lần đầu vào năm 1968. Năm 2009, loại bảo hiểm này chi trả 27% tổng chi phí chăm sóc y tế.[183] Đối với toàn bộ điều trị y tế ngắn hạn, có một hệ thống bảo hiểm y tế bắt buộc, với các công ty bảo hiểm y tế tư nhân. Các công ty bảo hiểm y tế này buộc phải cung cấp một gói được định rõ các điều trị được bảo hiểm.[184] Loại bảo hiểm này chi trả 41% toàn bộ phí tổn chăm sóc y tế trên toàn quốc.[183] Các nguồn chi trả y tế khác là thuế (14%), chi trả tiền mặt (9%), các gói bảo hiểm y tế tự nguyện (4%) và các nguồn khác (4%).[183] Khả năng chi trả được đảm bảo thông qua một hệ thống các khoản trợ cấp liên quan đến thu nhập và tiền đóng bảo hiểm cá nhân liên quan đến thu nhập do cá nhân và giới chủ chi trả.

Hà Lan là vương quốc của những triết gia Erasmus thành Rotterdam và Spinoza. Toàn bộ những tác phẩm chính của Descartes được triển khai tại Hà Lan. Nhà khoa học Hà Lan Christiaan Huygens ( 1629 – 1695 ) mày mò vệ tinh Titan của Sao Thổ và là nhà vật lý học tiên phong sử dụng những công thức toán học. Antonie van Leeuwenhoek là người tiên phong quan sát và diễn đạt sinh vật đơn bào bằng một kính hiển vi. Kiến trúc truyền thống cuội nguồn Hà Lan đặc biệt quan trọng có giá trị tại Amsterdam, Delft và Leiden, với những toà nhà từ thế kỷ XVII và XVIII dọc theo những kênh. Kiến trúc làng nhỏ với những nhà bằng gỗ hiện hữu tại Zaandam và Marken. Cối xay gió, hoa tulip, guốc gỗ, pho mát, đồ gốm Delft, và cần sa nằm trong số những vật thể được hành khách liên tưởng với Hà Lan .Hà Lan có lịch sử vẻ vang lâu bền hơn về khoan dung xã hội và nay được nhìn nhận là một vương quốc tự do, xét về chủ trương ma tuý của nước này và việc họ hợp pháp hoá an tử. Năm 2001, Hà Lan trở thành vương quốc tiên phong hợp pháp hoá hôn nhân gia đình đồng giới. [ 185 ] Hà Lan có nổi tiếng là vương quốc đi đầu về quản trị môi trường tự nhiên và dân cư. [ 186 ] Năm năm ngoái, Amsterdam và Rotterdam lần lượt đứng thứ 4 và thứ 5 trong chỉ số thành phố thành phố vững chắc Arcadis. [ 187 ] [ 188 ] Tính vững chắc là một khái niệm quan trọng so với người Hà Lan, tiềm năng của chính phủ nước nhà Hà Lan là có một mạng lưới hệ thống nguồn năng lượng bền vững và kiên cố, đáng an toàn và đáng tin cậy và giá thành phải chăng đến năm 2050, khi đó phát thải CO2 sẽ giảm 50% và 40 % điện năng đến từ những nguồn vững chắc. [ 189 ] nhà nước đang góp vốn đầu tư hàng tỉ euro vào tính hiệu suất cao nguồn năng lượng, nguồn năng lượng bền vững và kiên cố và giảm phát thải CO2. Vương quốc cũng khuyến khích những công ty Hà Lan kiến thiết xây dựng các hạ tầng bền vững và kiên cố, với tương hỗ kinh tế tài chính của nhà nước cho những công ty hoặc cá thể hoạt động giải trí trong việc biến vương quốc trở nên bền vững và kiên cố hơn. [ 189 ]
Hội họa Thời kỳ hoàng kim Hà Lan nằm vào hàng được tôn vinh nhất quốc tế đương thời, trong thế kỷ XVII. Đây là thời của ” những bậc thầy Hà Lan ” như Rembrandt van Rijn, Johannes Vermeer, Jan Steen, Jacob van Ruisdael. Rembrandt thường được đánh giá và nhận định là một trong những nghệ sĩ thị giác vĩ đại nhất trong lịch sử dân tộc, những tác phẩm của ông miêu tả phong phú về phong thái và chủ đề, từ chân dung và tự hoạ đến cảnh sắc, cảnh tượng kinh thánh hay thần thoại cổ xưa. Từ thập niên 1620, hội họa Hà Lan tách biệt dứt khoát khỏi phong thái Baroque để bước sang một phong thái miêu tả hiện thực hơn, chăm sóc rất nhiều đến quốc tế thực. Các loại tranh gồm có tranh lịch sử vẻ vang, chân dung, cảnh sắc, cảnh đô thị, tĩnh vật và thể loại. Trong bốn loại tranh cuối nêu trên, những họa sỹ Hà Lan lập ra những phong thái được giới mỹ thuật châu Âu dựa vào trong hai thế kỷ sau đó. Các bức tranh tường có một ẩn ý đạo đức. Các chủ đề được ưa thích về cảnh sắc Hà Lan là những đụn cát dọc theo bờ biển phía tây, những sông với những bãi cỏ liền kề thoáng đãng và là nơi chăn gia súc, và thường có một bóng hình thành phố ở phía xa. Thời kỳ hoàng kim không khi nào Phục hồi được từ sau khi Pháp xâm lăng vào năm 1672, tuy nhiên có một quá trình hoàng hôn lê dài cho đến khoảng chừng năm 1710 .

Trường phái Haag xuất hiện vào khoảng lúc bắt đầu thế kỷ XIX, thể hiện toàn bộ những gì tối nhất hoặc sáng nhất trong cảnh quan Hà Lan, những gì âm u nhất hoặc trong trẻo nhất trong khí quyển. Trường phái ấn tượng Amsterdam thịnh hành vào giữa thế kỷ XIX, cùng thời kỳ với trường phái ấn tượng Pháp. Các họa sĩ dùng các nét vẽ nhanh và rõ để ghi dấu lên bức vẽ. Họ tập trung vào miêu tả sinh hoạt thường nhật của thành phố. Amsterdam cuối thế kỷ XIX là một trung tâm nhộn nhịp về mỹ thuật và văn học. Vincent van Gogh là một họa sĩ hậu ấn tượng, các tác phẩm của ông được chú ý vì vẻ đẹp thô, tính chân thật biểu cảm và màu sắc rõ nét, có ảnh hưởng sâu rộng đến mỹ thuật thế kỷ XX. Trong thế kỷ XX, Hà Lan sản sinh nhiều họa sĩ như Roelof Frankot, Salomon Garf, Pyke Koch. Khoảng năm 1905-1910, pha màu theo phép xen kẽ phát triển thịnh vượng. Từ năm 1911 đến năm 1914, toàn bộ các phong trào mỹ thuật mới nhất lần lượt truyền đến Hà Lan, bao gồm trường phái lập thể, trường phái vị lai và trường phái biểu hiện. Sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, De Stijl (phong cách) được dẫn dắt bởi Piet Mondrian và xúc tiến mỹ thuật thuần tuý, chỉ bao gồm các đường dọc và ngang, sử dụng các màu cơ bản.

Koninklijk Paleis (Cung điện Hoàng gia) do ( Cung điện Hoàng gia ) do Jacob van Campen phong cách thiết kếTrong Thời kỳ hoàng kim Hà Lan vào thế kỷ XVII, do kinh tế tài chính thịnh vượng nên những thành phố được mở mang rất nhiều. Các toà thị chính và nhà kho mới được thiết kế xây dựng, và nhiều kênh đào mới được hình thành trong và quanh những thành phố như Delft, Leiden và Amsterdam để nhằm mục đích mục tiêu phòng thủ và luân chuyển. Nhiều thương gia giàu sang chiếm hữu một ngôi nhà mới dọc những kênh đào này, những ngôi nhà này thường rất hẹp và có mặt tiền được trang trí nhằm mục đích thích hợp với vị thế mới của gia chủ. Nguyên nhân khiến những ngôi nhà này hẹp là do bị đánh thuế chiều rộng mặt tiền. Kiến trúc của nền cộng hoà tiên phong tại phía bắc châu Âu ghi dấu với tính nhã nhặn và giản dị và đơn giản, và là phương pháp phản ánh những giá trị dân chủ. Nhìn chung, kiến trúc tại những Vùng đất thấp, cả tại miền nam chịu ảnh hưởng tác động của phản cải cách và miền bắc do Tin Lành chi phối, vẫn góp vốn đầu tư can đảm và mạnh mẽ vào những dạng phục hưng và kiểu cách của miền bắc Ý. Dạng mộc mạc hơn được tiến hành tại Cộng hoà Hà Lan rất tương thích so với những quy mô thiết kế xây dựng lớn : Các hoàng cung cho Nhà Oranje và những toà nhà dân sự mới, không chịu tác động ảnh hưởng từ phong thái phản cải cách đang tạo ra một số ít tân tiến tại Antwerpen. Đến cuối thế kỷ XIX, có một dòng Tân Goth đáng quan tâm hoặc Phục hưng Goth trong những kiến trúc nhà thời thánh cũng như công cộng, đáng chú ý quan tâm là Pierre Cuypers, ông lấy cảm hứng từ kiến trúc sư người Pháp Viollet le Duc. Bảo tàng Rijksmuseum ( 1876 – 1885 ) và ga Amsterdam Centraal ( 1881 – 1889 ) nằm trong những toà nhà chính của ông .Trong thế kỷ XX, những kiến trúc sư Hà Lan đóng vai trò đứng vị trí số 1 trong tăng trưởng kiến trúc tân tiến. Ngoài kiến trúc duy lý đầu thế kỷ XX của Berlage, là người phong cách thiết kế Beurs van Berlage, còn có ba nhóm riêng không liên quan gì đến nhau khác tăng trưởng trong thập niên 1920, mỗi nhóm có quan điểm riêng về phương hướng của kiến trúc tân tiến. Các kiến trúc sư theo phe phái bộc lộ như M. de Klerk and P.J. Kramer tại Amsterdam. Trường phái tính năng có Mart Stam, L.C. van der Vlugt, Willem Marinus Dudok và Johannes Duiker, họ có quan hệ tốt với nhóm theo chủ nghĩa tân thời quốc tế CIAM. Nhóm thứ ba Open từ trào lưu De Stijl, trong số họ có J.J.P Oud và Gerrit Rietveld, hai người này về sau kiến thiết xây dựng theo một phong thái tính năng. Trong những thập niên 1950 và 1960, một thế hệ kiến trúc sư mới như Aldo van Eyck, J.B. Bakema và Herman Hertzberger, gọi là ‘ thế hệ Forum ’ ( theo tạp chí Forum ) hình thành một link với những nhóm quốc tế như Team 10. Từ thập niên 1980 đến nay, Rem Koolhaas với hãng Office for Metropolitan Architecture ( OMA ) của ông trở thành một trong những kiến trúc sư số 1 quốc tế. Cùng với ông, hình thành một thế hệ kiến trúc sư Hà Lan mới thao tác trong truyền thống lịch sử văn minh .
Multatuli tố cáo sự lạm dụng của chủ nghĩa thực dân tại Đông Ấn Hà Lan

Cho đến cuối thế kỷ XI, văn học Hà Lan giống như văn học tại những nơi khác của châu Âu vẫn hầu như là theo hình thức truyền khẩu bằng thể loại thơ. Trong thế kỷ XII và XIII, các nhà văn bắt đầu viết các truyện anh hùng kị sĩ và tiểu sử các thánh cho giới quý tộc. Từ thế kỷ XIII, văn học trở nên mô phạm hơn và phát triển một đặc tính quốc gia sơ khai do nó được viết cho giai cấp tư sản. Văn học Hà Lan diễn ra một biến đổi khi kết thúc thế kỷ XIII, các thị trấn vùng Vlaanderen nay thuộc Bỉ và vùng Holland nay thuộc Hà Lan trở nên thịnh vượng và một cách diễn đạt văn học khác bắt đầu. Khoảng năm 1440, các phường hội văn chương gọi là rederijkerskamers (“phòng tu từ học”) xuất hiện và thường mang sắc thái của tầng lớp trung lưu. Những phòng sớm nhất trong số này hầu như hoàn toàn tham gia vào chuẩn bị các vở kịch tôn giáo và kịch thần bí cho nhân dân. Anna Bijns (khoảng 1494–1575) là một nhân vật quan trọng, ông viết bằng tiếng Hà Lan hiện đại. Cải cách Tin Lành xuất hiện trong văn học Hà Lan bằng một bộ sưu tập các bản dịch Thánh Vịnh vào năm 1540 và bằng một bản dịch Tân Ước vào năm 1566 sang tiếng Hà Lan. Nổi tiếng nhất trong số các nhà văn Hà Lan là nhà biên kịch và nhà thơ Công giáo Joost van den Vondel (1587–1679). Pieter Corneliszoon Hooft (1581-1647) là thành viên nổi bật nhất trong nhóm Muiderkring, viết các bài thơ mục đồng và trữ tình.

Vào cuối thế kỷ XVIII và đầu thế kỷ XIX, các Vùng đất thấp trải qua biến động lớn về chính trị, các nhà văn nổi bật trong giai đoạn này là Willem Bilderdijk (1756–1831), Hiëronymus van Alphen (1746–1803) và Rhijnvis Feith (1753–1824). Piet Paaltjens (bút danh của François Haverschmidt, 1835–1894) là một trong rất ít nhà thơ đáng đọc vào thế kỷ XIX, là đại diện tại Hà Lan của lối viết lãng mạn với Heine là điển hình. Một phong trào mới mang tên Tachtigers hay “phong trào 80” theo thập kỷ nó xuất hiện. Multatuli viết về việc đối xử tồi với người bản địa tại thuộc địa Đông Ấn Hà Lan. Một trong các nhà văn lịch sử nổi tiếng nhất trong thế kỷ XX là Johan Huizinga, được bên ngoài biết đến và được dịch sang các ngôn ngữ khác, tác phẩm của ông được liệt vào trong một vài danh sách bộ sách thiết yếu. Trong thập niên 1920, xuất hiện một nhóm nhà văn mới tách mình khỏi phong cách hoa mỹ của Phong trào 80, dẫn đầu là Nescio (J.H.F. Grönloh, 1882–1961). Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, có Anne Frank (với nhật ký của cô bé), cùng nhà văn tiểu thuyết hình sự và nhà thơ Jan Campert. Các nhà văn sống qua sự tàn bạo của Chiến tranh thế giới thứ hai đã phản ánh trong tác phẩm của họ về thay đổi trong nhận chức thực tiễn. Nhiều người nhìn lại các trải nghiệm của họ theo cách Anne Frank đã làm trong nhật ký của cô bé, như trong trường hợp Het bittere kruid (cỏ đắng) của Marga Minco, và Kinderjaren (thời thơ ấu) của Jona Oberski. Sự phục hồi, trong lịch sử văn học được mô tả là “ontluisterend realisme” (chủ nghĩa hiện thực sửng sốt), chủ yếu có liên hệ với ba tác giả Gerard Reve, W.F. Hermans và Anna Blaman. Reve và Hermans thường được trích dẫn cùng với Harry Mulisch là ba tác giả lớn của văn học Hà Lan thời hậu chiến.

Phòng hoà nhạc Concertgebouw tại Amsterdam có từ thế kỷ XIX Amsterdam Arena là địa điểm hoà nhạc lớn nhất tại Hà Lan

Hà Lan có truyền thống âm nhạc đa dạng, âm nhạc truyền thống Hà Lan là một thể loại được gọi là “Levenslied”, nghĩa là tiếng hát của đời sống, có đặc trưng là giai điệu và nhịp điệu đơn giản, với cấu trúc đơn giản trong các cặp câu và đoạn điệp khúc. Chủ đề có thể nhẹ nhàng, song thường sẽ là đa cảm và gồm có tình yêu, cái chết và nỗi cô đơn. Các nhạc cụ truyền thống như phong cầm và đàn thùng là một yếu tố chủ yếu trong âm nhạc levenslied, song vào những năm gần đây có nhiều nghệ sĩ cũng sử dụng synthesizer và guitar. Các nghệ sĩ trong thể loại này có thể kể đến như Jan Smit, Frans Bauer và André Hazes.

Nhạc rock và pop đương đại Hà Lan ( Nederpop ) có nguồn gốc từ thập niên 1960, nó chịu tác động ảnh hưởng mạnh từ âm nhạc đại chúng Mỹ và Anh. Trong những thập niên 1960 và 1970, phần lời hầu hết viết bằng tiếng Anh và một số ít bài hát được trình diễn bằng nhạc cụ. Các ban nhạc như Shocking Blue, Golden Earring, Tee Set, George Baker Selection và Focus đạt được thành công xuất sắc ở tầm quốc tế. Đến thập niên 1980, ngày càng nhiều nhạc sĩ pop mở màn thao tác bằng tiếng Hà Lan, một phần là do được truyền cảm hứng từ thành công xuất sắc vang dội của ban nhạc Doe Maar. Ngày nay, nhạc rock và pop Hà Lan tăng trưởng mạnh trong cả hai ngôn từ, 1 số ít nghệ sĩ cũng ghi âm bằng cả hai ngôn từ .Các ban nhạc symphonic metal là Epica, Delain, ReVamp, The Gathering, Asrai, Autumn, Ayreon và Within Temptation cùng ca sĩ nhạc jazz và pop Caro Emerald có thành công xuất sắc ở tầm quốc tế. Các ban nhạc metal như Hail of Bullets, God Dethroned, Izegrim, Asphyx, Textures, Present Danger, Heidevolk và Slechtvalk là khách mời thông dụng tại những nhạc hội metal lớn nhất châu Âu. Các ngôi sao 5 cánh ca nhạc Hà Lan đương đại gồm có ca sĩ nhạc pop Anouk, ca sĩ nhạc country pop Ilse DeLange, ban nhạc dân gian hát bằng phương ngữ Nam Gelderland và Limburg Rowwen Hèze, ban nhạc rock BLØF và bộ đôi Nick và Simon .

Vào đầu thập niên 1990, các nghệ sĩ nhạc house Hà Lan và Bỉ cùng tiến hành dự án Eurodance 2 Unlimited. Họ bán được 18 triệu bản,[190] hai ca sĩ trong ban nhạc là các nghệ sĩ âm nhạc Hà Lan thành công nhất cho đến nay. Các ban nhạc Hà Lan khác thành công quốc tế là 2 Brothers On The 4th Floor và Vengaboys. Vào giữa thập niên 1990, nhạc rap và hip hop tiếng Hà Lan (Nederhop) cũng thăng hoa và trở nên phổ biến tại Hà Lan và Bỉ. Các nghệ sĩ có nguồn gốc Bắc Phi, Caribe hoặc Trung Đông có ảnh hưởng mạnh trong thể loại này.

Kể từ thập niên 1990, nhạc dance điện tử Hà Lan ( EDM ) trở nên phổ cập thoáng đãng trên quốc tế với nhiều dạng như trance, techno và gabber hay hardstyle. Một số DJ vào hàng nổi tiếng nhất quốc tế tới từ Hà Lan, như Armin van Buuren, Tiësto, Hardwell, Martin Garrix, Nicky Romero và Afrojack ; bốn người tiên phong kể trên nằm vào hàng giỏi nhất quốc tế theo DJ Mag Top 100 DJs. Các DJ cũng góp phần cho nhạc pop dòng chính do họ tiếp tục cộng tác và sản xuất cho những nghệ sĩ quốc tế nổi tiếng. Amsterdam Dance Event ( ADE ) là nhạc hội điện tử số 1 quốc tế và là liên hoan câu lạc bộ lớn nhất so với nhiều phân loại điện tử. [ 191 ] [ 192 ]Về âm nhạc cổ xưa, Jan Sweelinck được nhìn nhận là nhà soạn nhạc Hà Lan nổi tiếng nhất, còn Louis Andriessen nằm trong số những nhà soạn nhạc cổ xưa người Hà Lan nổi tiếng nhất đang sống. Ton Koopman là một nhạc trưởng, nghệ sĩ đàn ống và harpsichord người Hà Lan, đồng thời là giáo sư Trường Âm nhạc Hoàng gia Den Haag. Các nghệ sĩ vĩ cầm nổi tiếng là Janine Jansen và André Rieu. André Rieu cùng với Dàn nhạc Johann Strauss của ông trình diễn trong những cuộc lưu diễn hoà nhạc trên toàn thế giới, quy mô và lệch giá của chúng hoàn toàn có thể sánh với những màn màn biểu diễn nhạc rock và pop lớn nhất quốc tế. Tác phẩm cổ xưa Hà Lan nổi tiếng nhất là ” Canto Ostinato ” của Simeon ten Holt, một tác phẩm giản lược cho những nhạc cụ đa công dụng. [ 193 ] [ 194 ] [ 195 ] Nghệ sĩ đàn hạc Lavinia Meijer vào năm 2012 phát hành một tuyển tập với những tác phẩm của Philip Glass được bà quy đổi cho đàn hạc. [ 196 ] Concertgebouw ( hoàn thành xong vào năm 1888 ) tại Amsterdam là cứ điểm của Dàn nhạc Concertgebouw Hoàng gia, được cho là một trong những dàn nhạc hay nhất quốc tế. [ 197 ]
Phim tiên phong của Hà Lan là phim hài hề tếu Gestoorde hengelaar ( 1896 ) của M.H. Laddé. [ 198 ] [ 199 ]. Mặc dù ngành phim Hà Lan tương đối nhỏ, tuy nhiên có một số ít quá trình tích cực khi ngành làm phim Hà Lan thịnh vượng. Giai đoạn bùng nổ tiên phong đến vào Chiến tranh quốc tế thứ nhất, khi Hà Lan là một trong những vương quốc trung lập. Các xưởng phim như Hollandia sản xuất một loạt phim truyền hình. Một làn sóng thứ thì Open trong thập niên 1930, khi việc Open phim nói dẫn đến những lời lôi kéo sản xuất phim nói tiếng Hà Lan, hiệu quả là bùng nổ về sản xuất. Để thích ứng với sự tăng trưởng nhanh gọn, ngành phim Hà Lan trông cậy vào những người ngoại bang có kinh nghiệm tay nghề về kỹ thuật phim âm thanh. Trong Chiến tranh quốc tế thứ hai, ngành phim tư nhân Hà Lan gần như phải ngưng lại, tuy nhiê người Đức đã tương hỗ nhiều phim tuyên truyền quy mô nhỏ với nội dung ủng hộ Đức Quốc xã .Phim tài liệu Hà Lan nổi tiếng quốc tế từ lâu, những đạo diễn Hà Lan nổi tiếng nhất có xuất phát điểm từ phim tài liệu, đặc biệt quan trọng là những người mở màn sự nghiệp trước Chiến tranh quốc tế thứ hai, như Joris Ivens và Bert Haanstra. Tuy nhiên, kể từ đầu thập niên 1970, sản xuất phim tài liệu với mục tiêu phát hành tại rạp bị suy thoái và khủng hoảng, có lẽ rằng là do chuyển hướng sang phim tài liệu truyền hình. Trong những năm ngay sau cuộc chiến tranh, hầu hết những nỗ lực được dành cho tái thiết vương quốc, và phim không phải là một ưu tiên. Vào cuối thập niên 1950, ngành phim Hà Lan được chuyên nghiệp hoá. Phim tài liệu vẫn giữ một vai trò quan trọng trong ngành làm phim Hà Lan. Liên hoan phim tài liệu quốc tế Amsterdam được tổ chức triển khai vào tháng 11 hàng năm, và được xem là một trong những liên hoan phim tài liệu lớn nhất quốc tế .

Đến cuối thập niên 1960, thế hệ đầu tiên các nhà làm phim Hà Lan tốt nghiệp từ Học viện Điện ảnh Hà Lan bắt đầu gây dựng tên tuổi. Đạo diễn nổi tiếng trong giai đoạn này là Fons Rademakers, Rademakers học nghề từ Vittorio De Sica và Jean Renoir và đem các kiến thức mới về phim nghệ thuật nước ngoài về nước. Một giai đoạn thành công lâu dài hơn của điện ảnh Hà Lan đến trong thập niên 1970, dẫn đầu là Paul Verhoeven. Năm bộ phim của Verhoeven trong thập niên là Wat zien ik? (1971), Turks Fruit (1973), Keetje Tippel (1975), Soldaat van Oranje (1977) và Spetters (1980) – đạt kỷ lục phòng vé. Turks FruitSoldaat van Oranje cũng thành công ở nước ngoài, và khiến Verhoeven có sự nghiệp tại Hollywood. Năm 2006, Verhoeven làm phim Black Book (Zwartboek), đây là phim nói tiếng Hà Lan đầu tiên của ông kể từ The Fourth Man (1983). Các dạo diễn thành công khác trong giai đoạn này là Wim Verstappen và Pim de la Parra. Sau năm 1980, ít phim Hà Lan có thể đủ sức đưa hàng triệu người đến các rạp chiếu phim, do suy giảm mức độ quan tâm và sự phổ biến của hệ thống video gia đình.

Đến giữa thập niên 1990, chính phủ Hà Lan áp dụng việc tránh thuế (gọi là ‘CV-regeling’) nhằm khuyến khích các nhà đầu tư tư nhân trong ngành điện ảnh Hà Lan. Sau khi thực hiện các quy tắc mới này, diễn ra một cuộc bùng nổ trong sản xuất phim Hà Lan, với những phim nhắm đến khán giả trẻ như Costa! (2001). Sau một thời gian, công thức này đuối dần và hương vị thương mại mới trở thành các bộ phim với cảm giác đa văn hoá, Shouf Shouf Habibi (2004) và Het Schnitzelparadijs (2005) có thành công thương mại.

Các diễn viên Hà Lan thành công nhất tại Hollywood là Rutger Hauer (Blade Runner), Jeroen Krabbé (The Fugitive), Famke Janssen (X-Men) và Carice van Houten (Game of Thrones). Các nhà làm phim có sự nghiệp thành công tại Hollywood ngoài Paul Verhoeven còn có Jan de Bont (với SpeedTwister), nhà biên kịch-chuyển thể-đạo diễn Menno Meyjes (The Color PurpleIndiana Jones and the Last Crusade) và nhà sản xuất Pieter Jan Brugge (Glory, Miami Vice, Defiance). Roel Reiné sau khi chuyển tới Hollywood đã trở thành một đạo diễn-nhà sản xuất có ảnh hưởng với các bộ phim DVD Premiere, như Pistol Whipped (2008). Các đạo diễn hình ảnh Hà Lan có được thành công quốc tế là Hoyte van Hoytema (Interstellar, Spectre, Dunkirk) và Theo van de Sande (Wayne’s WorldBlade).

Các báo quan trọng nhất của Hà Lan là De Telegraaf, Algemeen Dagblad, de Volkskrant, NRC HandelsbladTrouw. Trong quá khứ, Parool được thành lập trong Chiến tranh thế giới thứ hai cũng là một tờ báo chính yếu, song nay nó chủ yếu tập trung vào cấp thành phố và khu vực của Hà Lan. Đối với độc giả tu sĩ (Tin Lành), Reformatorisch DagbladNederlands Dagblad là các báo quốc gia nổi tiếng.

Truyền hình tại Hà Lan mở màn vào năm 1951. Tại Hà Lan, thị trường truyền hình được phân loại giữa 1 số ít mạng lưới thương mại như RTL Nederland, và một mạng lưới hệ thống phát sóng công cộng san sẻ ba kênh NPO 1, NPO 2 và NPO 3. Các chương trình nhập khẩu ( ngoại trừ cho trẻ nhỏ ), cũng như những phỏng vấn tin tức với câu vấn đáp bằng ngoại ngữ luôn được hiển thị trong ngôn từ gốc, đi kèm phụ đề. [ 200 ] Đến năm 2013, 78,3 % người theo dõi Hà Lan đảm nhiệm truyền hình kỹ thuật số. [ 201 ] Truyền hình kỹ thuật số có nhiều phương pháp, phổ cập nhất là qua cáp với Ziggo là nhà cung ứng chính về truyền hình cáp tại Hà Lan, CanalDigitaal là nhà phân phối truyền hình vệ tinh, KPN Digitenne là nhà cung ứng truyền hình kỹ thuật số mặt đất, KPN và Tele2 là hai nhà phân phối chính về truyền hình internet. Các kênh truyền hình cung ứng sẽ nhờ vào nhiều vào nhà phân phối, tuy nhiên có có một nhóm nhỏ những kênh mà mọi nhà khai thác cần phải truyền tải, kể từ năm năm trước là những kênh như [ 202 ] những kênh vương quốc NPO 1, NPO 2, NPO 3. Truyền hình thương mại tại Hà Lan được cấp phép từ năm 1988, muộn hơn so với những vương quốc láng giềng, những công ty chính phân phối truyền hình thương mại là RTL Nederland và SBS Broadcasting .

Xuất khẩu truyền hình từ Hà Lan hầu hết được tiến hành dưới dạng thể thức và nhượng quyèn cụ thể, đáng chú ý nhất là thông qua tổ hợp sản xuất truyền hình quốc tế Endemol của các tài phiệt truyền thông người Hà Lan là John de Mol và Joop van den Ende. Endemol có trụ sở tại Amsterdam với khoảng 90 công ty tại 30 quốc gia. Endemol và các công ty con của họ sáng tạo và vận hành các chương trình nhượng quyền thực tế, tài năng và trò chơi truyền hình trên khắp thế giới, như Big BrotherDeal or No Deal. John de Mol sau đó bắt đầu công ty riêng của mình mang tên Talpa, tạo ra các chương trình nhượng quyền như The VoiceUtopia.

Hà Lan cũng có một lượng lớn những đài phát thanh, với sáu kênh phát thanh vương quốc như NPO Radio 1, NPO Radio 2 và NPO 3FM, cùng một số ít kênh công cộng kỹ thuật số và khu vực. Radio 538, Sky Radio và Q-music là những nhà sản xuất chính trong thị trường thương mại .
Có khoảng chừng 4,5 triệu dân Hà Lan ĐK tại một trong số 35.000 câu lạc bộ thể thao trong nước, và khoảng chừng hai phần ba dân số từ 15 đến 75 tuổi tham gia hoạt động giải trí thể thao hàng tuần. [ 203 ] Bóng đá là môn thể thao được người Hà Lan tham gia thông dụng nhất, những môn thể thao đội tuyển phổ cập tiếp nối là khúc côn cầu trên cỏ và bóng chuyền. Quần vợt, thể dục dụng cụ và golf là ba môn thể thao cá thể được tham gia thoáng đãng nhất. [ 204 ]Các tổ chức triển khai thể thao khởi đầu vào cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX. Các liên đoàn thể thao được xây dựng như ( liên đoàn trượt băng vận tốc vào năm 1882 ), những quy tắc được thống nhất và những câu lạc bộ thể thao Open. Ủy ban Olympic Quốc gia Hà Lan được xây dựng vào năm 1912, và Hà Lan giành được 285 huy chương tại Thế vận hội Mùa hè tính đến năm năm nay và 110 huy chương tại Thế vận hội Mùa đông tính đến năm năm trước. Trong tranh tài quốc tế, những đội tuyển và vận động viên Hà Lan chiếm lợi thế trong một số ít nghành nghề dịch vụ. Đội tuyển khúc côn cầu trên cỏ nữ Hà Lan là đội tuyển thành công xuất sắc nhất trong lịch sử vẻ vang của khuôn khổ này. Đội tuyển bóng chày Hà Lan từng 20 lần giành chức vô địch châu Âu. Các võ sĩ Kickboxing K1 Hà Lan từng 15 lần thắng giải K-1 World Grand Prix .Trượt băng vận tốc Hà Lan giành thắng lợi trong 8/12 sự kiện, 23/36 huy chương vàng tại Thế vận hội Mùa đông năm trước, là thành tích chiếm lợi thế nhất trong một môn thể thao của lịch sử vẻ vang Thế vận hội. Đua xe hơi tại trường đua TT Assen có một lịch sử vẻ vang lâu dài hơn. Assen là khu vực duy nhất liên tục tổ chức triển khai một vòng đấu của giải vô địch xe hơi quốc tế từ khi hình thành vào năm 1949. Trường đua được kiến thiết xây dựng dành cho Dutch TT vào năm 1954, những sự kiện trước đó được tổ chức triển khai trên đường phố .Max Verstappen tranh tài tại Công thức một, và là người Hà Lan tiên phong thắng một giải Grand Prix. Khu nghỉ ngơi ven biển Zandvoort tổ chức triển khai Dutch Grand Prix từ năm 1958 đến năm 1985. Đội tuyển bóng chuyền nam vương quốc Hà Lan từng giành huy chương vàng tại Thế vận hội Mùa hè 1996. Thành công lớn nhất của đội tuyển bóng chuyền nữ vương quốc Hà Lan là vô địch châu Âu năm 1995 và World Grand Prix vào năm 2007 .
Ban đầu, nhà hàng siêu thị Hà Lan hình thành dựa theo hoạt động giải trí ngư nghiệp và nông nghiệp, gồm có canh tác cây cối và nuôi động vật hoang dã được thuần hoá. Ẩm thực Hà Lan đơn thuần và không phức tạp, gồm nhiều mẫu sản phẩm bơ sữa. Bữa sáng và bữa trưa nổi bật là bánh mì phủ pho mát, hoặc là ngũ cốc cho bữa sáng. Theo truyền thống cuội nguồn, bữa tối gồm có khoai tây, một phần thịt, và rau theo mùa. Món ăn Hà Lan có hàm lượng cacbohydrat và chất béo ở mức cao, phản ánh nhu yếu ăn của những người lao động vì văn hoá của họ định hình nên vương quốc. Món ăn Hà Lan không có nhiều sự tinh xảo, diễn đạt tốt nhất là mộc mạc, tuy nhiên những loại món ăn đặc biệt quan trọng được chuẩn bị sẵn sàng cho nhiều dịp nghỉ lễ. Trong thế kỷ XX, đồ ăn Hà Lan đổi khác và trở nên toàn thế giới hơn, và hầu hết những nền nhà hàng siêu thị toàn thế giới có đại diện thay mặt trong những thành phố lớn tại đây. Vào đầu năm năm trước, Oxfam xếp hạng Hà Lan là vương quốc có món ăn bổ dưỡng, phong phú và đa dạng và tốt cho sức khoẻ nhất, khi so sánh trong số 125 vương quốc. [ 205 ] [ 206 ]
Một nổi bật về bữa tối Hà Lan truyền thống : Cải Brussels, khoai tây và xúc xích kèm nước xốt

Các tác giả ẩm thực hiện đại phân biệt giữa ba thể loại khu vực tổng quát của ẩm thực Hà Lan. Các khu vực tại đông bắc Hà Lan, đại thể tương ứng với các tỉnh Groningen, Friesland, Drenthe, Overijssel và Gelderland là khu vực thưa dân nhất. Đây là khu vực phát triển nông nghiệp muộn, ẩm thực tại đây được biết đến với nhiều loại thịt, phong phú về săn bắt và chăn nuôi, song các món ăn gần bờ biển cũng có lượng lớn cá. Khu vực có các loại xúc xích khô khác nhau, thuộc nhóm metworst của xúc xích Hà Lan, và được đánh giá cao vì thường có vị rất mạnh. Xúc xích lớn thường được ăn kèm với stamppot, hutspot hay zuurkool (dưa cải Đức); còn xúc xích nhỏ thường là một loại đồ ăn đường phố. Các tỉnh này cũng là nơi sản xuất bán mì đen cứng, bánh ngọt, bánh quy, trong đó bánh quy có vị mạnh với gừng hoặc quả giầm nước đường hoặc gồm một ít thịt. Các đặc điểm đáng chú ý của Fries roggebrood (bánh mì đen Frisia) là thời gian nướng lâu (đến 20 tiếng), kết quả là vị ngọt và màu đen thẫm.[207] Về đồ uống có cồn, khu vực này nổi tiếng với nhiều loại rượu bia đắng (như Beerenburg) và các loại rượu chưng chất có nồng độ cao hơn bia.

Các tỉnh Noord-Holland, Zuid-Holland, Zeeland, Utrecht và khu vực Betuwe của Gelderland thuộc khu vực ẩm thực miền tây Hà Lan. Do phong phú về nước và đất đồng cỏ, nên khu vực nổi tiếng với các sản phẩm bơ sữa trong đó có các loại pho mát như Gouda, Leyden, Edam, trong khi Zaanstreek tại Noord-Holland nổi tiếng với mayonnaise từ thế kỷ XVI, các loại mù tạc nguyên hạt đặc trưng[208] và sô-cô-la. Zeeland và Zuid-Holland sản xuất nhiều bơ, có lượng chất béo lớn hơn so với hầu hết các loại bơ khác tại châu Âu. Một sản phẩm phụ của quá trình làm bơ là karnemelk (sữa bơ), nó cũng được xem là đặc trưng cho khu vực này. Các món từ biển như cá trích dầm muối, trai, cá chình, hàu và tôm hiện diện phổ biến và đặc trưng cho khu vực. Kibbeling là một món ăn tinh tế của địa phương, gồm các miếng nhỏ cá thịt trắng, song nay trở thành một loại đồ ăn nhanh quốc gia. Các loại bánh ngọt trong khu vực này có xu hướng khá mềm nhão, và thường có lượng đường cao, oliebolZeeuwse bolus là những điển hình. Các loại bánh quy cũng được sản xuất với số lượng lớn và có xu hướng chứa nhiều bơ và đường như stroopwafel, hoặc được nhồi quả hạnh như gevulde koek. Các loại đồ uống có cồn truyền thống của khu vực này là bia và Jenever, một loại rượu mạnh hương bách xù. Advocaat là một ngoại lệ so với truyền thống Hà Lan, loại rượu này làm từ trứng, đường và brandy.

Ẩm thực miền nam Hà Lan gồm tỉnh Noord-Brabant và tỉnh Limburg, tương đồng với vùng Vlaanderen tại Bỉ. Khu vực này nổi tiếng do phong phú về các loại bánh ngọt, súp, các món hầm và rau. Đây là khu vực ẩm thực duy nhất tại Hà Lan phát triển ẩm thực cao cấp. Các loại bánh ngọt thường được làm với nhiều kem sữa trứng và quả. Các loại bánh như Vlaai từ Limburg và Moorkop cùng Bossche Bol từ Brabant là các loại bánh ngọt đặc trưng. Ngoài ra, còn có các loại bánh ngọt mặn, trong đó worstenbroodje là phổ biến nhất. Đồ uống có cồn truyền thống của khu vực này là bía. Có nhiều thương hiệu địa phương, như TrappistKriek. 5 trong số 10 nhà máy bia được Hiệp hội Luyện tâm Quốc tế công nhân là nằm tại khu vực văn hoá miền nam Hà Lan. Bia trong ẩm thực khu vực còn được dùng để nấu ăn, thường là trong các món hầm, giống như rượu vang trong ẩm thực Pháp.

Di sản thuộc địa[sửa|sửa mã nguồn]

Từ hoạt động giải trí khai thác của Công ty Đông Ấn Hà Lan trong thế kỷ XVII, cho đến hoạt động giải trí thuộc địa hoá trong thế kỷ XIX, những thuộc địa của Đế quốc Hà Lan liên tục được lan rộng ra, đạt đến mức độ cực lớn khi thiết lập quyền bá chủ so với Đông Ấn Hà Lan vào đầu thế kỷ XX. Đông Ấn Hà Lan, nay là Indonesia, là một trong những thuộc địa có giá trị nhất của thực dân châu Âu trên quốc tế, và là thuộc địa quan trọng nhất so với Hà Lan. [ 209 ] Trên 350 năm di sản tác động ảnh hưởng tương hỗ đã để lại dấu ấn văn hoá quan trọng tại Hà Lan .Trong Thời kỳ hoàng kim Hà Lan vào thế kỷ XVII, Hà Lan thực thi đô thị hoá ở mức độ đáng kể, hầu hết được lấy từ tiền thu nhập doanh nghiệp bắt nguồn từ độc quyền mậu dịch tại châu Á. Vị thế xã hội dựa trên thu nhập của thương nhân, làm suy yếu chính sách phong kiến và biến hóa đáng kể động lực của xã hội Hà Lan. Khi Hoàng gia Hà Lan được xây dựng vào năm 1815, hầu hết của cải của họ đến từ mậu dịch thuộc địa. [ 210 ]
Một bác sĩ Hà Lan tiêm chủng cho bệnh nhân Indonesia .Các ĐH như Đại học Leiden xây dựng vào thế kỷ XVI được tăng trưởng thành những TT kỹ năng và kiến thức đứng vị trí số 1 về nghiên cứu và điều tra Khu vực Đông Nam Á và Indonesia. Đại học Leiden sản sinh những viện sĩ hàn lâm số 1 như Christiaan Snouck Hurgronje, và vẫn có những viện sĩ hàn lâm chuyên về ngôn từ và văn hoá Indonesia. Đại học Leiden và đặc biệt quan trọng là KITLV là những thể chế giáo dục và khoa học cho đến nay san sẻ cả quan tâm tri thức và lịch sử dân tộc trong điều tra và nghiên cứu Indonesia. Các viện khoa học khác tại Hà Lan gồm có Tropenmuseum Amsterdam, một kho lưu trữ bảo tàng quả đât học với những bộ sưu tập đồ sộ về thẩm mỹ và nghệ thuật, văn hoá, dân tộc bản địa học và quả đât học Indonesia .

Truyền thống của Lục quân Hoàng gia Đông Ấn Hà Lan (KNIL) nay được duy trì bởi Trung đoàn Van Heutsz của Lục quân Hoàng gia Hà Lan. Một Bảo tàng Bronbeek chuyên biệt tồn tại ở Arnhem cho đến nay, đây vốn là nơi ở cũ của các binh sĩ KNIL xuất ngũ.

Một phân đoạn riêng không liên quan gì đến nhau của văn học Hà Lan mang tên văn học Đông Ấn Hà Lan vẫn sống sót và có những tác giả thành danh như Louis Couperus với ” De Stille Kracht “, lấy thời thuộc địa là một nguồn cảm hứng quan trọng. [ 211 ] Một trong số những siêu phẩm vĩ đại nhất của văn học Hà Lan là sách ” Max Havelaar “, do Multatuli viết vào năm 1860. [ 212 ]

Đa số người Hà Lan hồi hương sau và trong Cách mạng Indonesia là người Indo (lai Á-Âu). Nhóm cư dân lai Á-Âu tương đối lớn này phát triển trong suốt 400 năm và được phân loại là thuộc cộng đồng tư pháp châu Âu theo pháp luật thuộc địa.[213] Trong tiếng Hà Lan họ được gọi là Indische Nederlanders hay là Indo (rút ngắn của Indo-Âu).[214] Nếu tính cả thế hệ thứ nhì, người Indo hiện là nhóm nhập cư lớn nhất tại Hà Lan. Năm 2008, Cục Thống kê Trung ương Hà Lan (CBS)[215] đã đăng ký 387.000 người Indo thế hệ thứ nhất và thứ hai sống tại Hà Lan.[216] Mặc dù được nhận định là hoàn toàn đồng hoá vào xã hội Hà Lan, có tư cách dân tộc thiểu số lớn tại Hà Lan, những người hồi hương này giữ một vai trò chủ chốt trong việc đưa các yếu tố văn hoá Indonesia vào văn hoá chủ lưu của Hà Lan.

Trong thực tiễn mọi đô thị tại Hà Lan đều có một ” Toko ” ( shop người Hà Lan gốc Indonesia ) hoặc shop Indonesia gốc Hoa [ 217 ] và nhiều hội chợ ‘ Pasar Malam ‘ ( chợ đêm trong tiếng Indonesia ) được tổ chức triển khai suốt năm. Nhiều món ăn và thực phẩm Indonesia trở nên thông dụng tại Hà Lan. Rijsttafel là một khái niệm nấu ăn thuộc địa, và những món như Nasi goreng và satay rất phổ cập tại Hà Lan. [ 218 ]

  1. ^ [125][126]Tăng so với 31 % và 19 % cho biết phương pháp giao thông vận tải hầu hết của họ trong những hoạt động giải trí thường ngày vào năm 2011 .
  • Burke, Gerald L. The making of Dutch towns: A study in urban development from the 10th–17th centuries (1960)
  • Lambert, Audrey M. The Making of the Dutch Landscape: An Historical Geography of the Netherlands (1985); focus on the history of land reclamation
  • Meijer, Henk. Compact geography of the Netherlands (1985)
  • Riley, R. C., and G. J. Ashworth. Benelux: An Economic Geography of Belgium, the Netherlands, and Luxembourg (1975) online
  • Paul Arblaster. A History of the Low Countries. Palgrave Essential Histories Series New York: Palgrave Macmillan, 2006. 298 pp. ISBN 1-4039-4828-3.
  • J. C. H. Blom and E. Lamberts, eds. History of the Low Countries (1998)
  • Jonathan Israel. The Dutch Republic: Its Rise, Greatness, and Fall 1477–1806 (1995)
  • J. A. Kossmann-Putto and E. H. Kossmann. The Low Countries: History of the Northern and Southern Netherlands (1987)

Liên kết ngoài[sửa|sửa mã nguồn]