Tiểu luận Cơ sở Văn hóa Việt Nam về lễ hội đâm trâu của người cơ tu ở thừa thiên huế – ĐẠI HỌC HUẾ – Studocu

ĐẠI HỌC HUẾ TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI NGỮ

KHOA: TIẾNG ANH

BÀI TIỂU LUẬN

ĐỀ TÀI: LỄ HỘI ĐÂM TRÂU CỦA NGƢỜI CƠ TU Ở TỈNH THỪA THIÊN HUẾ VÀ CÔNG CUỘC BẢO TỒN, PHÁT TRIỂN TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

Giảng viên phụ trách

Học phần Sinh viên thực hiện Mã sinh viên Nhóm học phần

: CƠ SỞ VĂN HÓA VIỆT NAM : HOÀNG THỊ DIỆU MY : 19F7011025

: 03

: NGUYỄN THỊ HOÀI THANH

Huế, tháng 06 năm 2021

Nội Dung Chính

MỤC LỤC

A. MỞ ĐẦU

1

Lý do chọn đề tài 2

2

Lịch sử nghiên cứu 2

3

Mục tiêu nghiên cứu 3

4

Phương pháp nghiên cứu 3

5

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3

6

Bố cục tiểu luận 3

B. NỘI DUNG

  • I. Khái quát về địa bàn cư trú của cộng đồng người Cơ Tu ở Thừa Thiên Huế và Tổng quan về lễ hội·········································································································4
  • 1. Khái quát về địa bàn cư trú của cộng đồng người Cơ Tu ở Thừa Thiên Huế
  • 1.1. Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên ····························································4
  • 1.2. Vài nét chung về dân tộc Cơ Tu ······························································5
  • 1.3. Bản sắc văn hóa của người Cơ Tu ···························································5
  • 1.3.1. Loại hình cư trú ··········································································5
  • 1.3.2. Đời sống văn hóa tinh thần·····························································6
  • 2. Tổng quan về lễ hội ··············································································· 11
  • 2.1. Khái niệm lễ hội ·············································································· 11
  • 2.2. Phân loại lễ hội và các phần của lễ hội ···················································· 11
  • II. Lễ hội Đâm trâu của người Cơ Tu ở Thừa Thiên Huế ·········································· 12
  • 1. Tổng quan về Lễ hội Đâm trâu của người Cơ Tu ở Thừa Thiên Huế ······················ 12
  • 1.1. Thời gian và địa điểm tổ chức ······························································ 12
  • 1.2. Diễn trình của lễ hội ········································································· 13
  • 1.3. Giá trị của lễ hội đối với người Cơ Tu ở Thừa Thiên Huế ······························ 16
  • 1.4. Ý nghĩa của lễ hội đâm trâu đối với người Cơ Tu ở Thừa Thiên Huế················· 16
  • III. Thực trạng của lễ hội đâm trâu của người Cơ Tu ở Thừa Thiên Huế trong giai đoạn hiện nay. Một số giải pháp bảo tồn và phát triển. ························································· 17
  • 1. Thực trạng ·························································································· 17
  • 2. Một số giải pháp bảo tồn và phát triển ·························································· 17
  • C. KẾT LUẬN ·························································································· 18
  • Tài liệu tham khảo ····················································································· 19
  • A .PHẦN MỞ ĐẦU

    1. Lý do chọn đề tài

    Việt Nam là một nước đa dân tộc có văn hóa đa dạng, phong phú. Các giá trị văn hóa ấy đã được bảo lưu từ thế hệ này sang thế hệ khác. Một trong các giá trị văn hóa đó nằm trong các lễ hội truyền thống. Đó là những di sản văn hóa phản ánh đời sống xã hội từ bao đời nay của những cộng đồng tộc người nói riêng và người Việt Nam nói chung, gắn liền với quá trình hình thành và phát triển của địa phương, quốc gia.

    Lễ hội là một hình thức tổng hòa văn hóa nghệ thuật dân gian và hiện đại, có vai trò quan trọng trong phát triển du lịch cũng như một số ngành nghề khác. Lễ bao gồm những yếu tố thiêng, mang tính tâm linh, hội mang lại không khí rộn rã, trở thành bộ phận không thể thiếu của lễ hội ở Việt Nam.

    Lễ hội đâm trâu của người Cơ Tu ở Thừa Thiên Huế là một lễ hội đặc sắc và độc đáo trong hệ thống các lễ hội ở Việt Nam và là một trong những tín ngưỡng thần linh quan trọng của người Cơ Tu. Được người dân địa phương gọi bằng cái tên “tặk t’rí”, đây là một lễ hội tế Giàng (Trời) trong những ngày trọng đại, con trâu chính là vật tế. Đồng thời cũng là dịp để đồng bào chung vui, gặp gỡ nhau và dâng đầu trâu tế thần linh nhằm thông báo lên Giàng tình hình buôn làng mình.

    Với sự phát triển nhanh chóng của xã hội hiện đại và người dân đều cuống cuồng vào vòng quay của cuộc sống mưu sinh mà dần quên đi những lễ hội truyền thống, phong tục tập quán của đồng bào và vì thế, chúng ngày càng bị mai một đi, thậm chí là biến mất. Vì vậy, việc bảo tồn, phục hồi, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trước những biến động to lớn của thời đại, là việc làm hết sức cấp bách.

    Với những lí do trên, tôi đã chọn đề tài “Lễ hội đâm trâu của người Cơ Tu ở tỉnh Thừa Thiên Huế và công cuộc bảo tồn, phát triển trong giai đoạn hiện nay”. Thông qua bài tiểu luận này, tôi muốn một phần nào đó góp sức vào việc giới thiệu và bảo tồn giá trị văn hóa lễ hội đâm trâu của người Cơ Tu.

    2. Lịch sử nghiên cứu

    Lễ hội là một đề tài được nhiều người đặc biệt quan tâm. Đặc biệt, đâm trâu là một nghi lễ khá phổ biến, có mặt trong hầu hết cộng đồng các tộc người ở khu vực Trường Sơn – Tây Nguyên nên có nhiều tác giả, nhà nghiên cứu đã tìm hiểu và giới thiệu một cách cụ thể như:

    “Mùa xuân với lễ hội Đâm trâu” của tác giả Nguyễn Văn Chương, NXB Khoa học Xã hội (2004) đã giới thiệu một cách đầy đủ về lễ hội này.

    Tại “Hội nghị Sinh viên Nghiên cứu Khoa Học” lần thứ 6 của Đại học Đà Nẵng năm 2008, sinh viên Phạm Thị Thu Hân đã có bài nghiên cứu về “Lễ hội đâm trâu của người Bana ở Phú Yên”. Nghiên cứu này đã có một cái nhìn toàn diện hơn về lễ hội đâm trâu của người Bana ở Phú Yên.

    “Tìm hiểu lễ ăn trâu (đâm trâu) của một số tộc nguời thiểu số ở Tây Nguyên phục vụ phát triển du lịch” của sinh viên Trần Thị Thim, Trường Đại học Dân lập Hải Phòng cũng một phần khái quát được đặc điểm của lễ hội đâm trâu ở Tây Nguyên và giá trị du lịch của nó.

    Tuy nhiên, các nghiên cứu kể trên chủ yếu tập trung vào đối tượng là các đồng bào dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên và Phú Yên, chưa có một nghiên cứu nào hướng đến các dân tộc sinh sống trên dãy Trường Sơn nói chung và Thừa Thiên Huế nói riêng. Hơn thế nữa, những nghiên cứu trước đây cũng chưa đề cập một cách rõ ràng đến thực trạng của lễ hội gây nhiều tranh cãi trong thời đại ngày nay và các cách bảo tồn, phát huy hiệu quả. Đây vẫn là một khoảng trống trong nghiên cứu văn hóa lễ hội truyền thống của tộc người này ở Việt Nam. Vì vậy trong bài tiểu luận này, tiếp thu các công trình nghiên cứu của các nhà nghiên cứu trước để nghiên cứu về “Lễ hội đâm trâu của người Cơ Tu ở tỉnh Thừa Thiên Huế và công cuộc bảo tồn, phát triển trong giai đoạn hiện nay”.

    3. Mục tiêu nghiên cứu:

    Mục tiêu đầu tiên của đề tài là tìm hiểu được những nét đặc trưng nhất về con người, mảnh đất, tín ngưỡng, đời sống văn hóa của đồng bào dân tộc Cơ Tu ở Thừa Thiên Huế. Trên cơ sở đó, kết nối với lễ hội đâm trâu từ nguồn gốc, đặc điểm, các hoạt động đến giá trị văn hóa, ý nghĩa đối với đời sống tinh thần của người dân. Thứ hai là dựa vào thực trạng, tiến tới kiến nghị những giải pháp bảo tồn và phát huy trước những biến động của thời đại và văn minh thế giới, tránh làm mai một truyền thống của ông cha.

    4. Phƣơng pháp nghiên cứu:

    Phương pháp quan sát, thu thập và xử lý tài liệu: Là phương pháp chủ yếu được sử dụng trong đề tài bằng cách thu thập thông tin từ nhiều nguồn như Internet, sách, báo, người địa phương,… dưới nhiều hình thức khác nhau như văn bản, số liệu, đoạn phim, hình ảnh, truyền miệng,… có liên quan đến đề tài. Chúng sẽ được xử lý, chọn lọc để có những kết luận cần thiết về vấn đề.

    Phương pháp thống kê, phân tích, tổng hợp: Phương pháp này giúp thống kê được những số liệu về con người, lịch sử, một cách chính xác, rõ ràng; phát hiện ra các yếu tố làm mất đi ảnh hưởng đến lễ lễ hội truyền thống để từ đó đưa ra những giải pháp, cách khắc phục vấn đề trong phạm vi nghiên cứu của đề tài.

    5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu:

  • -Đối tượng nghiên cứu của đề tài là “Lễ hội đâm trâu của người Cơ Tu ở Thừa Thiên Huế”
  • -Phạm vi nghiên cứu của đề tài là lịch sử, diễn trình, ý nghĩa và những giải pháp bảo tồn của lễ hội này.
  • 6. Bố cục của tiểu luận

    Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo thì bài tiểu luận được chia thành 03 chương:

    Chương 1: Khái quát về địa bàn cư trú của cộng đồng người dân tộc Cơ Tu ở Thừa Thiên Huế và Tổng quan về lễ hội

    Chương 2: Lễ hội đâm trâu của người Cơ Tu ở Thừa Thiên Huế Chương 3: Thực trạng của lễ hội đâm trâu hiện nay và một số giải pháp bảo tồn và phát triển

    B. NỘI DUNG

    I. Khái quát về địa bàn cƣ trú của cộng đồng ngƣời Cơ Tu ở Thừa Thiên Huế và Tổng quan về lễ hội

    1. Khái quát về địa bàn cƣ trú của cộng đồng ngƣời Cơ Tu ở Thừa Thiên Huế 1.1. Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên

    Thừa Thiên Huế là một tỉnh ven biển nằm ở vùng Bắc Trung Bộ, miền Trung, Việt Nam, trải dài từ 15o58’B đến 16o45’B và từ 107o03’Đ đến 108o08’Đ, trên biển đến 117o20’Đ. Phía bắc giáp tỉnh Quảng Trị, biển Đông về phía Đông, thành phố Đà Nẵng về phía Đông Nam, tỉnh Quảng Nam về phía Nam, dãy Trường Sơn và các tỉnh Saravane và Sekong của Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào về phía Tây.

    Có tuyến Quốc lộ 1A chạy xuyên qua tỉnh và các tuyến tỉnh lộ chạy song song, cắt ngang nâng tổng chiều dài đường bộ của toàn tỉnh đến hơn 2500km. Có hai cảng biển là cảng nước sâu Chân Mây, cảng Thuận An và cùng với 563km tổng chiều dài sông, đầm phá. Thừa Thiên Huế có sân bay quốc tế Phú Bài nằm trên quốc lộ 1A, cách phía Nam thành phố Huế khoảng 15 km và tuyến đường sắt Bắc – Nam chạy qua dài 101,2 km đóng một vai trò quan trọng trong giao thông của tỉnh. Thừa Thiên Huế nằm trên trục giao thông quan trọng xuyên Bắc – Nam, trục hành lang Đông – Tây nối Thái Lan – Lào – Việt Nam theo đường 9.

    Thừa Thiên Huế ở vào vị trí trung độ của cả nước, nằm giữa thành phố Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh là hai trung tâm lớn của hai vùng kinh tế phát triển nhất nước ta. Thừa Thiên Huế cách Hà Nội 660 km, cách Thành phố Hồ Chí Minh 1.080 km. Thừa Thiên Huế còn là trung tâm văn hóa lớn của cả nước với những di sản văn hóa cấp quốc gia và thế giới như quần thể di tích Cố đô Huế, nhã nhạc Cung đình Huế, mộc bản triều Nguyễn,…

    Đặc điểm chung của khí hậu Thừa Thiên Huế là nhiệt độ cao, độ ẩm lớn, mưa theo mùa. Do vị trí địa lý và sự kéo dài của lãnh thổ theo vĩ tuyến, kết hợp với hướng địa hình và hoàn lưu khí quyển đã tác động sâu sắc đến việc hình thành một kiểu khí hậu đặc trưng và tạo nên những hệ quả phức tạp trong chế độ mưa, chế độ nhiệt và các yếu tố khí hậu khác. Địa hình Thừa Thiên Huế có cấu tạo dạng bậc khá rõ rệt. Địa hình núi chiếm khoảng 1/4 diện tích, từ biên giới Việt -Lào và kéo dài đến thành phố Đà Nẵng. Địa hình trung du chiếm khoảng 1/2 diện tích, độ cao phần lớn dưới 500 m, có đặc điểm chủ yếu là đỉnh rộng, sườn thoải và phần lớn là đồi bát úp, với chiều rộng vài trăm mét. Đồng bằng Thừa Thiên Huế điển hình cho kiểu đồng bằng mài mòn, tích tụ, có cồn cát, đầm phá. Diện tích vùng đồng bằng chiếm khoảng 1.400 km2. Đặc biệt, hệ thống núi của Thừa Thiên Huế chiếm khoảng 75% diện tích của tỉnh, là bộ phận phía nam của dải Trường Sơn Bắc. Đây chính là địa bàn cư trú của người dân tộc thiểu số như Pa Cô, Tà Ôi, (A Lưới), Vân Kiều (Phú Lộc), Pa Hy (Phong Điền), Cơ Tu (Nam Đông và xã Hương Nguyên thuộc A Lưới) với mật độ dân số trung bình dưới 40 người/km2 .

    Đối với người Cơ Tu, địa bàn sinh sống không chỉ ở tỉnh Thừa Thiên Huế mà đa số ở vùng núi phía Tây của tỉnh Quảng Nam (Đông Giang, Tây Giang, Nam Giang), một số ít ở Đà Nẵng (Hòa Vang), Lào (Xekong, Saravan, Champasak), Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh. Nhưng trong đề tài này chỉ đề cập đến địa bàn cư trú ở Thừa Thiên Huế và đặc biệt là huyện Nam Đông (nơi phần có phần đa người Cơ Tu sinh sống).

    Huyện Nam Đông cách thành phố Huế 50 km về phía tây nam, phía đông giáp huyện Phú Lộc và huyện Hòa Vang (Đà Nẵng), phía tây giáp huyện A Lưới, phía nam giáp huyện Tây Giang và huyện Đông Giang (Quảng Nam), phía bắc giáp thị xã Hương Thủy. Vào năm 1977, huyện Nam Đông sáp nhập vào huyện Phú Lộc. Tuy nhiên, đến năm 1990, huyện được tái lập với khoảng 41% là người Cơ Tu chủ yếu ở các xã Thượng Long, Thượng Quảng, Hương Hữu, Thượng Nhật, Hương Sơn, Thượng Lộ và Hương Phú.

    1.2. Vài nét chung về dân tộc Cơ Tu

    Người Cơ Tu ở nước ta hiện nay có khoảng trên 74.000 người (2019), nói tiếng Cơ Tu thuộc nhóm ngôn ngữ Môn – Khơ me, ngữ hệ Nam Á. Chữ viết ra đời từ thời kỳ trước năm 1975, trên cơ sở dùng chữ La-tinh để phiên âm, nhưng nay ít người sử dụng. Người Cơ Tu cư trú lâu đời ở miền núi tây bắc tỉnh Quảng Nam, liền khoảnh với địa bàn phân bố tộc Cơ Tu bên Lào, thuộc số cư dân cư trú lâu đời ở vùng Trường Sơn -Tây Nguyên, trong đó có vùng núi phía tây nam Thừa Thiên Huế.

    Tên gọi Cơ Tu đã được biết đên lâu đời trong lịch sử, đó là tên tự gọi. Ngoài ra còn có nhiều cách gọi và viết khác nhau như: Ka Tu, K’tu, Ca Tu, Ca Tang,… là sự phiên âm và cách viết chệch của tộc danh Cơ tu hoặc Gao, Hạ, Phương… là tên gọi theo địa danh. Nhưng Cơ Tu là tên gọi chính thức được đồng bào thừa nhận. Theo cách giải thích của người dân thì cái tên này có ý nghĩa là “người sống ở đầu ngọn nước”, ở vùng thượng nguồn. (tu: ngọn, nguồn)

    Người Cơ Tu trồng cây lương thực theo lối phát rừng làm rẫy, thu hái các lâm thổ sản. Công cụ lao động ngày xưa khá nghèo nàn như rìu, dao, gậy chọc lỗ tra hạt. Các hoạt động kinh tế khác gồm có chăn nuôi, dệt, đan lát, hái lượm, đánh cá, săn bắn và trao đổi hàng hóa theo cách vật đổi vật (trước 1989). Trong năm chỉ có đúng 1 mùa làm rẫy, gieo vào tháng 3-4 và gặt vào tháng 10-11. Cây lương thực chủ yếu là lúa, ngô, sắn.

    1.3. Bản sắc văn hóa của ngƣời Cơ Tu
    1.3.1. Loại hình cư trú

    Các hộ dân Cơ Tu cư trú theo hình thức tổi chức làng (vel) là đơn vị tự quản trong xã hội truyền thống, mỗi làng có một người đứng đầu gọi là Già làng. Đây phải là người có tuổi đời cao, nhiều kinh nghiệm, giúp sức vào việc phát triển làng bản và phải có uy tín. Là người đứng ra quản thúc dân làng, chủ trì các lễ hội lớn. Mỗi làng có một khu vực riêng để ở, trồng trọt, chăn nuôi, săn bắn và thu hái lâm thổ sản, được bố trí theo hình tròn hoặc bầu dục, ở những nơi cao ráo, tương đối bằng phẳng và gần nguồn nước, có cấu trúc theo kiểu làng phòng thủ. Mỗi làng sẽ có các họ. Đây là đơn vị sinh hoạt trực tiếp của các hộ gia đình với nhau trong các phong tục như cưới hỏi, ma chay và các tập tục khác.

    Về nhà ở, từ ngày xưa, nhà sàn (đong đh’rơơng) là loại nhà phổ biến trong đời sống người dân. Mái uốn khum ở hai hồi tựa dáng mai rùa. Ðầu đốc nhà thường nhô lên một đoạn khau cút đơn giản. Có một cây cột cái ở chính giữa để đỡ cây đòn nóc, xung quanh có nhiều cột khác nối với cây đòn nóc bằng các kèo gỗ, được che kín bằng các liếp tre hoặc nứa cao từ sàn đến mái… Vì đặc điểm vị trí, điều kiện tự nhiên thì người dân bắt buộc phải ở nhà sàn cao để tránh thú dữ. Ngoài ra, phần dưới nhà còn dùng để nuôi gia súc, gia cầm. Tuy nhiên hiện nay, cùng với sự phát triển của xã hội và sự ảnh hưởng văn hóa của người Kinh nên nhà sàn ít khi được ở. Nếu có thì là một ngôi nhà sàn phụ nhỏ hơn được dựng bên cạnh hoặc sau nhà bếp. Hơn thế nữa là sự cách điệu, biến chuyển để phù hợp hơn với lối sống hiện đại.

    Nhà sàn của người Cơ Tu

    Gươl (nhà làng) là một kiến trúc nhà tiêu biểu. Đây là một dạng nhà tiêu biểu của người Cơ Tu được dựng lên bằng công sức của mọi người trong làng Nơi đây là nơi sinh hoạt, là nơi diễn ra các sự kiện, tiếp khách trọng, hội họp, cất giữ các đồ quý của làng của bản làng. Nhà Gươl gần giống nhà sàn nhưng được chạm khắc công phu và tỉ mỉ hơn. Trong kiến trúc truyền thống, nhà Gươl của dân tộc Cơ Tu là nhà sàn được chống bởi cây cột cái ở giữa và 8 cây cột con ở xung quanh. Mái nhà được lợp bằng lá nón hoặc lá mây, nhìn từ xa, mái Gươl có hình dáng như hình mai rùa với hai đầu hồi cuộn tròn thể hiện quan niệm đoàn kết của dân làng. Phía trên hai đầu nhà Gươl thường được chạm, khắc hình gà trống (dùng để báo thức) hoặc hai đầu trâu nhô sừng lên đối diện. Bên trong được chạm trổ các hình ảnh rất độc đáo, mang những nét văn hóa riêng của người Cơ Tu, như: hình ảnh các chàng trai, thiếu nữ Cơ Tu múa cồng chiêng, săn bắt thú rừng và những bức phù điêu hình ảnh các con vật trông rất sinh động như hình con trâu, đầu trâu, tắc kè, con trăn, kỳ đà… Ngoài ra, trong nhà Gươl bao giờ cũng trưng bày nhiều loại nhạc cụ, công cụ truyền thống, nhiều đầu thú mà dân làng đã săn bắt hoặc đã giết thịt trong các lễ hội…

    Nhà Gươl của người Cơ Tu

    1.3.2. Đời sống văn hóa tinh thần
    Ẩm thực

    Ẩm thực truyền thống của người Cơ Tu rất đa dạng, phong phú như: Bánh sừng trâu (a cuốt – loại bánh truyền thống đặc trưng), thịt nướng ống (za rá), thịt xông khói… cho đến cơm lam (a vỉ hor), thịt cá, thịt đông và các loại rượu do chính đồng bào tự làm (rượu cần, rượu tà-vạk (chế từ một loại cây rừng, họ dừa) và rượu làm từ gạo, sắn v.v…). Tất cả được chế biến theo hương vị truyền thống rất đặc trưng, cùng hương thơm của tiêu rừng, lá rau rừng tự nhiên.

    Làm bánh a cuốt

    Chiết rượu tà vạk

    Trang phục: Zèng

    Người Cơ Tu ưa chuộng nhất bộ y phục bằng vải dệt nền đen có hoa văn bằng chì, thứ đến hoa văn bằng cườm trắng. Ðàn ông quấn khố, thường ở trần. Ðàn bà mặc váy ống. Nếu váy dài thì che từ ngực trở xuống, nếu váy ngắn thì thân trên mặc áo không ống tay; ngày lễ hội có thêm thắt lưng nền trắng mộc. Loại vải tấm lớn dùng để choàng, quấn và đắp. trang phục của người Cơ tu là cả một công trình dệt công phu và mang tính thẩm mỹ cao. Để có những bộ trang phục đẹp mang bản sắc riêng cho dân tộc mình, người Cơ tu lấy sợi từ cây đay, bông. Màu đỏ lấy từ củ nâu, màu chàm từ cây tà râm, màu nâu từ củ ma rớt, cho đến việc dàn cườm để tạo thành nhưng hoa văn trên nền vải. Sau đó được dệt thủ công tạo thành dãy hoa văn đặc sắc bằng chì hoặc cườm trắng trên nên vải chàm đen, tất cả đã thể hiện tinh thẩm mỹ, tài năng của người phụ nữ Cơ Tu rất cao.

    Phụ nữ Cơ Tu dệt zèng

    Quan hệ xã hội

    Quan hệ cộng đồng dân làng khá chặt chẽ. Làng là một đơn vị dân cư trên một địa vực nhất định và riêng biệt, tự quản dựa vào tập tục, đứng đầu là ông “già làng” được nể trọng. Sự phân hoá xã hội chưa sâu sắc. Gia tài được xác định bằng chiêng ché, trâu, đồ đeo trang sức, vải.

    Cưới xin

    Nhà trai phải tốn của cải nộp cho nhà gái và tổ chức cưới. Việc lấy vợ phải trải qua các bước nghi thức: Hỏi, đính hôn, lễ cưới và sau này, khi đã khá giả thường tổ chức thêm lễ cưới lần nữa. Phổ biến hình thức ngày xưa là con trai cô lấy con gái cậu, vợ goá lấy anh hoặc em chồng quá cố.

    Cô dâu chú rể trong một đám cưới

    Hoạt động sản xuất:

    Làm rẫy là chính, canh tác theo lối phát cây bằng rìu và dao quắm, rồi đốt, sau đó dùng aving để tra hạt giống, làm cỏ, tuốt lúa bằng tay. Rẫy đa canh, xen canh và cứ sau vài vụ lại bỏ hoá một thời gian dài trước khi canh tác tiếp. Mỗi năm chỉ gieo trồng một vụ. Vật nuôi chủ yếu là trâu, lợn, chó, gà. Song, nguồn thực phẩm hàng ngày chủ yếu do hái lượm, săn bắn và đánh bắt cá đưa lại. Nghề thủ công chỉ có dệt vải và làm gốm (đồ đất nung) ở một số nơi phía giáp biên giới Việt -Lào; riêng đan lát phát triển rộng khắp. Kinh tế hàng hoá hạn hẹp, hình thức trao đổi vật đến nay vẫn thông dụng.

    Phương tiện vận chuyển:

    Gùi là vật dụng không thể thiếu trong cuộc sống sinh hoạt đời thường của người Cơ-tu. Các loại dụng cụ như zoọng, tà léc, rê, chuy, cà vông (cà lông)… là những dụng cụ dùng để gùi (mang) nông , lâm, sản, quà biếu… rất độc đáo và gắn liền với truyền thống văn hóa, bao đời của đồng bào. Tên gọi của chúng khác nhau và tương ứng cho mỗi loại gùi tùy theo mục đích sử dụng. Phần lớn gùi của người Cơ Tu được đan bằng các loại mây, mỗi cái gùi đều có 3 phần chính: thân gùi được đan bằng mây, chung quanh thân, có 4 thanh gỗ nhỏ áp vào thành gùi từ đáy trở lên miệng, giúp cho gùi được cứng cáp, không bị lệch khi mang nặng. Gùi đeo sau lưng nhờ đôi quai quàng vào hai vai. Có loại gùi đan dày, gùi đan thưa, với các cỡ thích hợp với người dùng. Trong đó, cái “zoong” (người Kinh gọi là gùi) là một loại gùi tương đối lớn. Tuỳ theo mục đích sử dụng trong các hoạt động mà đan cho phù hợp. Muốn gùi củi, sắn, khoai… thân gùi được đan thưa, và lớn; còn nếu gùi gạo, lúa, muối… thì thân gùi phải đan kín (khít). Phụ nữ là những người mang những gùi này. Ðàn ông có riêng loại gùi ba ngăn (tà léc). Cái “tà léc” cũng tương tự như cái gùi, nhưng phần thân ngắn và nhỏ hơn, được thiết kế thêm hai ngăn nhỏ ở hai bên thân gùi, hai ngăn này được dùng đựng các vật dụng nhỏ như cơm, gạo, dụng cụ lấy lửa khi đi rừng, đi rẫy.

    Zoong (gùi) nữ trong chuyến lên rẫy

    Thanh niên Cơ Tu và chiếc Ta léc

    Ma chay

    Quan tài độc mộc bằng loại gỗ tốt được chôn kín hoặc không lấp đất. Nhà khá giả thì quàn tử thi dài ngày hơn, đám ma có mổ trâu, nhà mồ làm bằng gỗ đẹp, cầu kỳ, có nhiều hình trang trí đẽo tạc và vẽ. Người Cơ Tu có tục “dồn mồ”. Sau ít năm mai táng, khi tang gia đã chuẩn bị đủ điều kiện kinh tế, phải tập trung hài cốt của tang gia trong làng cùng tiến hành một ngày.

    Nhà mồ với nghệ thuật điêu khắc thẩm mĩ của người Cơ Tu

    Thờ cúng

    Trong đời sống cá nhân, gia đình và của làng, có rất nhiều lễ cúng gắn với sản xuất, sức khoẻ… Lễ cúng nhỏ chỉ cần tế bằng gà, thậm chí dùng trứng gà; lớn hơn thì dùng lợn; cao hơn nữa là dùng trâu; xưa kia cao nhất dùng máu người. Theo người Cờ Tu, đối với các siêu nhiên, máu con vật hiến sinh quan trọng đặc biệt. Làng có thể có vật “thiêng” (thường là hòn đá) được cất giữ ở ngôi nhà chung, như một thứ bùa. Một số cá nhân cũng có loại bùa này.

    Văn nghệ

    Người Cơ Tu có nhiều truyện cổ kể về sự tích, về xã hội con người, về sự phát sinh các dòng họ… Trong lễ hội thường trình diễn múa tập thể: nữ múa điệu Da dã, nam múa Tung tung (Vũ điệu dâng trời). Nhạc cụ thường thấy là bộ chiêng 3 chiếc, cồng 1 chiếc, trống, sáo, đàn, nhị. Phụ nữ tài nghệ trong việc dệt các đồ án hoa văn bằng sợi màu trang trí với các hoạ tiết hình học phân bố và kết hợp khéo léo, chì và cườm trên vải. Nam giỏi trong điêu khắc trang trí ở nhà mồ, nhà công cộng, với những hình đầu trâu, chim, rắn, thú rừng, gà… cũng như trong việc vẽ hoa văn trang trí trên cây cột buộc con trâu tế. Người Cơ Tu có những điệu hát riêng của mình.

    Thiếu nữ xã Hương Sơn (Nam Đông) với điệu múa Da dã

    Lễ hội

    Lớn hơn cả là lễ đâm trâu, lễ “dồn mồ”, ăn tết theo làng, vào khoảng tháng giêng, tháng hai dương lịch, sau mùa tuốt lúa, trước hết có các nghi lễ cúng quải tại nhà và nhà công cộng. Tết cũng là dịp ăn uống và đón tiếp khách vui vẻ. Nay nhiều nơi tổ chức Tết vào dịp tết Nguyên đán.

    2. Tổng quan về lễ hội

    2.1. Khái niệm lễ hội

    Lễ hội là một hiện tượng lịch sử xã hội được hình thành lâu đời, mang trong mình những giá trị văn hóa độc đáo của từng dân tộc, vùng miền. Mỗi vùng miền, mỗi quốc gia, dân tộc lại có hình thức tổ chức lễ hội khác nhau ở mọi nơi, mọi thời điểm. Vì thế mà đã có rất nhiều định nghĩa khác nhau về hinh thái sinh hoạt này. Sau đây là một số định nghĩa điển hình về lễ hội như:

    Theo Bách khoa toàn thư Wikipedia, “Lễ hội là một sự kiện văn hóa được tổ chức mang tính cộng đồng. “Lễ” là hệ thống những hành vi, động tác nhằm biểu hiện sự tôn kính của con người với thần linh, phản ánh những ước mơ chính đáng của con người trước cuộc sống mà bản thân họ chưa có khả năng thực hiện. “Hội” là sinh hoạt văn hóa, tôn giáo, nghệ thuật của cộng đồng, xuất phát từ nhu cầu cuộc sống. Lễ hội là hoạt động tập thể và thường có liên quan đến tín ngưỡng, tôn giáo. Con người xưa kia rất tin vào trời đất, thần linh. Các lễ hội cổ truyền phản ảnh hiện tượng đó. Tôn giáo rất có ảnh hưởng tới lễ hội. Tôn giáo thông qua lễ hội đê phô trương thanh thế, lễ hội nhờ có tôn giáo đề thần linh hóa những thứ trần tục. Nhưng trải qua thời gian, trong nhiều lễ hội, tính tôn giáo dần giảm bớt và chỉ còn mang nặng tính văn hóa.”

    Trong “Từ điển tiếng Việt” lại có định nghĩa về lễ hội như sau: “Lễ là hệ thống các hành vi, động tác nhằm biểu hiện lòng tôn kính của con người đối với thần linh, phản ánh những ước mơ chính đáng của con người trước cuộc sống mà bản thân họ chưa có khả năng thực hiện. Hội là sinh hoạt văn hoá, tôn giáo, nghệ thuật của cộng đồng, xuất phát từ nhu cầu cuộc sống, từ sự tồn tại và phát triển của cộng đồng, sự bình yên cho từng cá nhân, hạnh phúc cho từng gia đình, sự vững mạnh cho từng dòng họ, sự sinh sôi nảy nở của gia súc, sự bội thu của mùa màng, mà từ bao đời nay quy tụ niềm mơ ước chung vào bốn chữ “nhân khang, vật thịnh”.

    Trong một bài nghiên cứ về lễ hội thì Abayomi đã định nghĩa rằng: “Nghĩa của lễ hội trong khoa học xã hội chỉ đơn giản là lấy từ ngôn ngữ chung, trong đó thuật ngữ này bao hàm một loạt các sự kiện rất khác nhau, linh thiêng và tục tĩu, tư nhân và công cộng, xử phạt truyền thống và giới thiệu sự đổi mới, đề xuất sự phục hưng hoài cổ, cung cấp các phương tiện biểu đạt cho sự tồn tại của cổ xưa nhất, phong tục dân gian và tôn vinh những người tiên phong mang tính thử nghiệm và đầu cơ cao của nghệ thuật tinh hoa.”

    Như vậy, lễ hội là một hệ thống sinh hoạt văn hóa, tôn giáo, nghệ thuật của một cộng đồng gắn liền với các nghi lễ đặc thù và các cuộc vui chung nhằm đáp ứng nhu cầu tinh thần của con người.

    2.2. Phân loại lễ hội và các phần của lễ hội:

    Lễ hội là một sinh hoạt tinh thần vô cùng phong phú, đa dạng thường xuyên đan xen hòa lẫn vào nhau cả về nội dung lẫn hình thức. Vì vậy, việc phân loại lễ hội rất cần thiết trong quá trình tìm hiểu nghiên cứu. Cho đến nay, việc phân loại lễ hội ở nước ta còn nhiều ý kiến khác nhau tùy thuộc vào từng chuyên ngành khoa học.

    Theo PGS. Trần Ngọc Thêm trong cuốn Cơ sở văn hóa Việt Nam thì “Lễ hội có phần lễ và phần hội. Phần lễ mang ý nghĩa tạ ơn và cầu xin thần linh bảo trợ cho cuộc sống của mình. Căn cứ vào mục đích này và dựa vào cấu trúc của hệ thống văn hóa, có thể phân biệt ba loại lễ hội: Lễ hội liên quan đến cơ quan trong quan hệ với môi trường tự nhiên (lễ hội cầu mưa, hội xuống đồng,…); lễ hội liên quan đến cuộc sống trong quan hệ với môi trường xã hội (kỉ niệm các anh hùng dựng nước và giữ nước – hội Đèn Hùng, hội Gióng,…) và lễ hội liên quan đến đời sống cộng đồng (các lễ hội tôn giáo và văn hóa – hội Chùa Hương, hội Chùa Tây Phương,…). Phần hội gồm các trò vui chơi giải trí hết sức phong phú. Xét về nguồn gốc, phần lớn các trò chơi này đều xuất phát từ những ước vọng thiêng liêng của con người nông nghiệp.”

    II. Lễ hội đâm trâu của ngƣời Cơ Tu ở Thừa Thiên Huế

    1. Tổng quan về lễ hội Đâm trâu của ngƣời Cơ Tu ở Thừa Thiên Huế

    Đối với người dân tộc Cơ tu, con trâu là vật nuôi gần gũi với đời sống thường ngày và cũng là loài vật quan trọng, bởi đó chính là vật tế Giàng trong những ngày trọng đại. Nghệ nhân A Lăng Sơn phân tích: “Con trâu không chỉ được xem như là tài sản quý, dùng để trao đổi và làm vật trung gian, mà còn là một sứ giả được con người gửi lên gặp gỡ thần linh trong các buổi lễ.” Trâu là biểu hiện quyền lực của làng bản, lễ hội đâm trâu là một trong những tín ngưỡng thần linh quan trọng của người Cơ Tu, là dịp để đồng bào chung vui, gặp gỡ nhau và dâng đầu trâu tế thần linh nhằm thông báo lên Giàng tình hình buôn làng mình. Đồng bào Cơ Tu quan niệm rằng, sau khi nhận lễ vật cúng của dân làng, các thần linh sẽ che chở cho họ, xua đổi ma rừng đi, dân làng không bị “chết xấu” nữa. Vì vậy, họ thường tổ chức phong tục đâm trâu trong các lễ hội được mùa, lễ hội mừng lúa mới, lễ hội nhà Gươl… Lễ hội đâm trâu của người Cơ Tu còn có ý nghĩa cầu cho mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu, cuộc sống của dân làng quanh năm luôn được ấm no, hạnh phúc…

    1.1. Thời gian và địa điểm tổ chức

    Không giống như ở những địa phương khác, lễ hội đâm trâu của người Cơ Tu ở Thừa Thiên Huế không có thời gian cố định, cũng không được tổ chức thường niên. Tùy vào tình hình kinh tế của người dân trong làng đó để tiến hành tổ chức. Thường thì lễ hội sẽ được tổ chức sau khi mùa màng đã được thu hoạch xong, người dân không còn bận rộn với việc đồng áng, nương rẫy và có tinh thần vui chơi. Cũng có lúc được tổ chức cùng với ngày vui của đất nước – Tết Độc lập. Khi đó thì niềm vui của người dân sẽ nhân đôi. Bên cạnh đó, nghi thức đâm trâu cũng sẽ xuất hiện trong lễ cúng của làng khi gặp thiên tai hay dịch họa quá lớn, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống của người dân.

    Lễ hội sẽ được tổ chức ở ngay dưới sân Gươl, nhà sinh hoạt chung của thôn làng. Nơi đây có một cột X’nur (cây nêu) được trồng ở chính giữa. X’nur là biểu tượng trung tâm của các hoạt động văn hóa cộng đồng của người Cơ Tu. Xét về phương diện tinh thần, đây là chiếc cầu nối giữa thế giới con người và thế giới thần linh thông qua các nghi lễ cầu cúng, hiến tế. Còn về phương diện nghệ thuật, đây là một sản phẩm điêu khắc dân gian đã đạt đến đỉnh cao cả về nội dung cũng như hình thức. X’nur được trang trí thành 3 phần: đế, thân và ngọn. Phần đế và thân thường là một khúc gỗ to dài khoảng 4-5m. Phần ngọn là một ống lồ ô to để nối phần thân và ngọn, thường không trang trí họa tiết. Thông thường, x’nur luôn được người Cơ tu trang trí với họa tiết, hoa văn, màu sắc gần gũi thiên nhiên và con người, bao giờ cũng được dựng vào buổi sáng sớm. Một cột x’nur dùng để cột con trâu được những người Cơ Tu lớn tuổi, am hiểu phong tục, tập quán, có kinh nghiệm, thể hiện một cách tỉ mỉ và công phu. Cột x’nur được trang trí hoa văn với 4 màu chủ đạo là đen, trắng, đỏ, vàng, thể hiện tính thẩm mỹ và nghệ thuật điêu khắc truyền thống nguồn gốc dân tộc, cầu mong cho buôn làng Cơ Tu luôn trường tồn… Theo quan niệm của người Cơ Tu, trong ý tưởng tạo hình, cột lễ là cách tái hiện dáng hình của Thần lúa (Giàng Ha ro) hay hình ảnh của người phụ nữ Cơ Tu trong điệu múa da dã, họ đưa đôi tay lên trời là tỏ lòng cầu xin hạt lúa của thần linh. Cũng ngay giữa thân cột, người Cơ Tu thường khắc chạm hình cái cối nằm đối xứng trên dưới. Đây là hình ảnh vừa mang biểu tượng của no ấm vừa mang ý nghĩa phồn thực. Trên đỉnh cột lễ là một đoạn tre được chẻ nhỏ tạo thành cái phễu ngửa lên trời, nơi chứa cái đuôi trâu hay con gà sống mà già làng ném lên trên sau khi kết thúc nghi thức hiến sinh (đâm trâu). Người Cơ tu xem đây như là một cái bàn thờ, nơi đón nhận sinh khí của đất trời, nơi thần linh tụ về hưởng thụ lễ vật và chứng giám các nghi lễ hiến sinh. Ngoài ra còn nhiều thứ dùng để trang trí phụ họa cho cột x’nur là hai cây lồ ô cao vút, còn ngọn và lá ở hai phía đối xứng, võng cong xuống gần chiếc phễu. Cùng với đó là các chùm tua rua như hoa và bông lúa, biểu trưng cho sự sinh sôi và phát triển.

    Cột X’nur ở trước sân nhà văn hóa dân tộc huyện Nam Đông

    1.2. Diễn trình của lễ hội

    Lễ hội thường được tổ chức hai ngày một đêm, trâu được dẫn về từ chiều hôm trước và lễ đâm trâu chính sẽ diễn ra vào trưa hôm sau. Để chuẩn bị cho một cuộc đâm trâu cũng phải mất hai ngày tùy lễ lớn hay nhỏ.

    Ngày đầu tiên là công tác chuẩn bị. Mỗi người trong thôn làng đều đã họp và phân chia cho nhau từng công việc rõ ràng: chuẩn bị rượu cần, trâu, bò, gà, chặt cây về dựng x’nur… Việc chính là dựng cây x’nur rất công phu và tỉ mỉ. Trước đó phải có lễ cúng trồng x’nur với lễ vật là một con gà. Sau khi dựng xong cây x’nur, dân làng đem trâu đến và buộc vào để chuẩn bị cúng tế lên Giàng báo với thần linh và mời các ngài về chứng giám cuộc đâm trâu ngày mai. Trước khi diễn ra nghi thức đâm trâu, già làng, người có uy tín trong cộng đồng, sẽ tổ chức cúng trâu tại sân Gươl. Người Cơ Tu gọi là dục t’rí. Cúng dục t’rí được tiến hành một cách trang trọng và uy nghi trong một nhà cúng rộng khoảng 4-5m2 bên cạnh nhà Gươl, được bao bọc bằng những tấm tuốt, tấm choàng thổ cẩm. Ngay giữa sàn cúng đặt 1 mâm lễ gồm: một con gà luộc chín, một xiên thịt heo nướng, một ống cá nướng, rượu tà vạk, a cuốt (bánh sừng trâu), ống cơm lam (a vỉ hor)… Già làng và các bậc cao niên có uy tín am hiểu phong tục, tập quán tập trung khấn cúng Giàng và khấn với Giàng rằng mọi việc chuẩn bị xong xuôi, ngày mai xin Giàng cho dân làng đâm trâu. Đêm hôm đó, dân làng ăn uống, nhảy múa,nổi cồng chiêng suốt đêm, còn các già làng khóc tế trâu cả đêm như là một lễ tiễn trâu về với Giàng.

    Dân làng nhảy múa trong đêm

    Lễ cúng trâu

    Sang ngày thứ hai thì nghi lễ đâm trâu mới chính thức diễn ra. Khi gà rừng cất tiếng gáy cũng chính là lễ khóc trâu dừng lại và tất cả mọi người chuẩn bị cuộc đâm trâu .Từng đoàn người đổ về từ khắp mọi nơi vây quanh vật tế trời. Reo hò, nhảy múa trong tiếng cồng chiêng rộn rã. Những người phụ nữ mặc đồ đẹp cùng thanh niên trong làng múa điệu da dã quanh con trâu nhiều vòng. Con trâu bị quay cuồng trong tiếng cồng chiêng chạy quanh cây x’nur như muốn tháo chạy . Khoảng 30 phút sau,khi những điệu múa và tiếng nhạc cất lên thì cuộc đâm trâu bắt đầu. Người đâm trâu phải là người có uy tín trong làng và là người có những nhát đâm vô cùng chính xác. Chỉ đâm đúng ba nhát và nhát cuối cùng phải trúng tim. Phát thứ nhất làm con trâu lồng lộn lên và sức lực bỗng nhiên mạnh hơn rất nhiều, nó rơi vào trạng thái hoảng loạn cố chạy quanh cây x’nur nhưng chỉ trong vài phút nhát thứ hai lại tiếp tục đâm trúng. Lúc này nó như điên tiết hơn trong tiếng reo hò không ngớt của những người dân bao quanh. Chạy một vòng nữa thì nhát quyết định đã làm nó ngã quỵ và cuộc đâm trâu kết thúc. Già làng cầm một con dao nhọn đâm vào cổ như để thông báo với Giàng và thần linh đã hạ gục được vật tế thần.

    Lúc này người ta túm đuôi và đầu trâu, vật sang một bên, tuyệt đối không để phía hông trâu bị đâm nằm xuống đất và đầu trâu không bao giờ nằm về phía cột x’nur vì như vậy là không may mắn và linh hồn trâu không về được với Giàng. Khi trâu chết, dân làng lấy tấm dồ, tấm tuốt đẹp nhất đắp lên mình trâu, a cuốt, cơm lam, trái cây, chuối chín, gà, vịt, gạo…cũng được bó vào miệng trâu như hàm ý khi trâu chết về thế giới bên kia cũng được no đủ. Những người tham dự lần lượt đến chỗ trâu tự lấy các loại bánh, cơm lam, chuối để ăn, máu trâu được họ bôi lên trán với ước nguyện sức khỏe luôn dồi dào, gia đình hạnh phúc, mưa thuận gió hòa, mùa màng tốt tươi, dân làng đoàn kết và thương yêu nhau, làm ăn no đủ… Các vị già làng đứng ra làm lễ tế linh hồn trâu. Trâu sau khi chết, được mổ thịt, chia phần cho các gia đình trong thôn. Đầu trâu được treo ở vị trí chính giữa nhà Gươl để hồn trâu luôn ở lại và giúp dân làng no ấm.

    Dân làng nhảy múa, đánh cồng chiêng xung quanh con trâu và già làng đâm trâu

    Khi trâu chết, người ta lấy chót của đuôi trâu cùng với một con gà trống còn sống mang cúng thần linh để báo tin trâu ngã quỵ thành công. Cả con gà và đuôi trâu được những người già có uy tín nhất cầm và tung lên ném đúng vào chiếc phểu trêu đầu cột X’nur. Dân làng reo vui, mừng cho điềm lành và thắng lợi rồi hân hoan mời khách quý lên nhà Gươl cùng nhau ăn, uống thỏa thích. Trâu được đem xẻ thịt, tiết trâu, gan, tim và bộ lòng trộn lẫn nhau để cúng Giàng và đãi khách quý, thịt trâu được đem đi chế biến các món ăn truyền thống…để đãi khách, số còn lại đem chia đều cho dân làng. Mọi người quây quần bên nhau trong ngôi nhà Gươl uống rượu, hát lý, đánh chiêng, thổi kèn, múa tung tung da dá cả ngày và kéo dài đến hết đêm hôm đó. Khi gà rừng cất tiếng gáy vang báo hiệu một ngày mới lại về trên núi rừng bao la và rộng lớn thì mọi người lần lượt ra về trong men say của tình hữu nghị và đoàn kết.

    Đầu trâu trong nhà Gươl xã Thượng Lộ, Nam Đông

    2. Giá trị của lễ hội đối với ngƣời Cơ Tu ở Thừa Thiên Huế

    Lễ hội đâm trâu nằm trong nhóm lễ hội liên quan đến cơ quan trong quan hệ với môi trường tự nhiên và nằm trong hệ thống lễ hội cổ truyền của Việt Nam do đó nó cũng mang nhiều giá trị chung của lễ hội.

    Lễ hội thể hiện phẩm chất tốt đẹp của cộng đồng tộc người Cơ Tu. Đó chính là sức mạnh của cộng đồng. Từ ngàn xưa, săn bắt và hái lượm chính là phương thức sinh sống phổ biến của các đồng bào ở đây. Trong điều kiện môi sinh như vậy, đòi hỏi cộng đồng phải gắn kết lại với nhau để các cuộc săn bắt diễn ra thành công và an toàn. Vì vậy, có thể thấy được tính cộng đồng là một trong những yếu tố nổi bậc khi đề cập đến văn hóa Cơ Tu. Tính cộng đồng được biểu hiện qua việc cả làng cùng chung tay chuẩn bị. Lễ hội diễn ra thì mọi người đều cùng nhau nhảy múa, ca hát, ăn uống với nhau, ngay cả việc xẻ thịt trâu cũng chia lại cho mỗi gia đình một ít… Vì lẽ đó, chính trong môi trường cộng đồng và bình đẳng ấy đã khơi dậy sự sáng tạo và thôi thúc mọi người thêm gắn kết; con người cảm thấy mình là người chủ động trong sáng tạo và hưởng thụ văn hóa, làm cho văn hóa mang tính nhân dân sâu sắc, có tính lan tỏa rộng. Đó cũng là biểu hiện của truyền thống đoàn kết – phẩm chất tốt đẹp của người Việt Nam nói chung.

    Lễ hội còn thể hiện giá trị thẩm mĩ. Không khí tưng bừng, nhộn nhịp của cả làng trong quá trình chuẩn bị lễ hội hòa chung với tiếng chim muông giữa đại ngàn là một bức tranh tuyệt đẹp về cả thị giác và thính giác. Không gian linh thiêng của lễ hội trong những nghi thức cúng bái cũng góp phần tô điểm vào vẻ đẹp ấy. Và hơn hết là những bộ trang phục truyền thống thổ cẩm ẩn chứa nhiều nét hoang dã với những hoa văn đặc trưng, lấp lánh hạt cườm, leng keng tiếng của những chiếc chuông nhỏ gắn dưới gấu váy của những cô sơn nữ. Hình ảnh trống, cồng, chiêng, khèn mang đậm nét văn hóa của dân tộc Cơ Tu nói riêng và cộng đồng các dân tộc thiểu só vùng Trường Sơn – Tây Nguyên nói chung. Tất cả vẽ nên một bức tranh tuyệt hảo, mang giá trị thẩm mĩ cao nên được lưu giữ đên ngàn đời sau.

    Thông qua lễ hội nhiều giá trị văn hoá khác cũng được phục hồi, sống lại như: nghệ thuật đánh trống, sáo, kèn và các bài hát đối đáp, múa tung tung da dã, nghệ thuật điêu khắc dân gian, trang trí dân gian (trang trí x’nur, trang phục). Nghệ thuật ẩm thực cũng được tái hiện qua việc chế biến và uống rượu cần, nấu cơm lam, a cuốt,… nhằm truyền dạy cho thế hệ trẻ tự hào về truyền thống văn hoá của dân tộc mình. Từ đó có ý thức gìn giữ và phát huy những giá trị bản sắc văn hoá riêng của cộng đồng dân tộc.

    Lễ hội giúp khuyến khích tài năng cộng đồng. Tthông qua lễ hội sẽ phát hiện được những tài năng, năng khiếu của người Cơ Tu về những nhạc cụ của dân tộc mình cũng như cách đối đáp, nói lý – hát lý, sử dụng các loại nhạc cụ,….. Là dịp để con người hội tụ chung vui, thể hiện ước muốn niềm tin đồng thời cũng là dịp để thể hiện tài năng của mình về nhiều mặt, nhất là về các hoạt động văn hóa văn nghệ.

    3. Ý nghĩa của lễ hội đâm trâu đối với ngƣời Cơ Tu ở Thừa Thiên Huế

    Lễ hội thể hiện chức năng lưu giữ, tái hiện phẩm chất tốt đẹp của cộng đồng. Đây là chức năng đặc thù và cơ bản nhất trong lễ hội. Bởi vì thông qua lễ hội các giá trị về văn hóa, lịch sử của cộng đồng được lưu truyền, làm sống lại sức mạnh có từ thuở cội nguồn của dân tộc, có tác dụng giao lưu, thưởng thức và tuyên truyền gìn giữ những giá trị văn hóa của dân tộc đến thúc đẩy phát triển kinh tế -xã hội trong địa phương.

    Thứ hai, chính lễ hội đã mang lại khoảng thời gian nhàn rỗi đáp ứng đời sống tinh thần. Sau những ngày lao động vất vả người dân có thể tổ chức những hội, nhóm, câu lạc bộ,… trao đổi kinh nghiệm, học hỏi cũng như tham gia các lễ hội trong thôn, làng tổ chức.

    Thứ ba là cố kết cộng đồng. Đây cũng chính là giá trị truyền thống của dân tộc Việt Nam, vốn là một dân tộc cùng chung nguồn gốc cội nguồn, cùng chung bản sắc văn hóa, cùng chung dòng máu lạc hồng.

    III. Thực trạng của lễ hội đâm trâu của ngƣời Cơ Tu ở Thừa Thiên Huế trong giai đoạn hiện nay. Một số giải pháp bảo tồn và phát triển.

    1. Thực trạng

    Một cuộc sống hiện đại chính là nguy cơ khiến các giá trị văn hóa của dân tộc thiểu số bị mài mòn, nếu không được chú trọng bảo tồn. Bởi lẽ đó, khi người dân luôn tập trung vào cuộc sống, chăm lo cơm áo gạo tiền thì những dịp thể hiện bản sắc văn hóa dân tộc cũng dần ít đi.

    Hơn nữa, trong rất nhiều những lễ hội của người Cơ Tu, có thể nói lễ hội đâm trâu là một điểm nhấn, thể hiện rõ nét tính cộng đồng. Tuy nhiên, thời gian gần đây, trên mạng xã hội cũng như các phương tại truyền thông đại chúng liên tục đưa tin về việc lên án một số lễ hội cổ truyền, trong đó có lễ hội đâm trâu. Lễ hội này luôn trong tình trạng bị giới truyền thông lăm le, can thiệp và phản đối vì cho rằng tính chất lễ hội là cực đoan, tàn nhẫn và không còn phù hợp với xã hội văn minh.

    Đây quả thực là vấn đề gây tranh cãi vì được nhìn dưới nhiều góc độ. Quan niệm khác nhau về con trâu trong tâm thức của đồng bào dân tộc Cơ Tu thì con trâu của họ khác hẳn với con trâu trong tâm thức của người Kinh hoặc một số tộc người khác.Với người Cơ Tu, con trâu không phải là “đầu cơ nghiệp”, không phải là bạn của nhà nông vì người dân nơi đây đa phần dựa vào nương rẫy để sống. Không có hình ảnh “con trâu đi trước cái cày theo sau”. Mà con trâu chính là vật linh thiêng, là tín ngưỡng đa thần của cư dân bản địa.

    Lễ hội là một hiện tượng văn hóa phong phú về nội dung và đa dạng về hình thức. Bản chất của lễ hội chính là sản phẩm của sự cấu thành từ nhiều yếu tố: lễ, hội, phong tục, nhận thức… Qua lễ hội, những giá trị được xem là cốt lõi của một dân tộc (hay tộc người) được hiển lộ, lan tỏa, mang ý nghĩa sâu sắc trong việc thể hiện nhân sinh quan, thế giới quan của một cộng đồng. Vì vậy, sẽ là sai lầm nếu xem xét và đánh giá các hoạt động liên quan đến lễ hội từ góc nhìn phi văn hóa.

    2. Một số giải pháp bảo tồn và phát triển.

    Theo GS.TS Ngô Đức Thịnh – Nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu Văn hóa Việt Nam, Ủy viên Hội đồng Di sản văn hóa quốc gia: “Theo tôi, không có bất cứ một lễ hội nào là lễ hội “man rợ” cả. Bởi lễ hội xuất phát từ nhu cầu của cộng đồng, những lễ hội hiến tế đối với họ cũng mang một ý nghĩa vô cùng thiêng liêng, với mục đích tế thần để cầu mong may mắn, mùa màng bội thu. Chỉ có những người không hiểu gì về lễ hội, hay về những ý nghĩa của nó mới cho rằng đó là những lễ hội “man rợ”…“Những hình ảnh được cho là phản cảm, man rợ hay đầy bạo lực đều xuất phát từ cảm nhận của những “người ngoài”, tức là những người chưa thực sự hiểu về ý nghĩa của từng lễ hội. Đúng là nếu ở ngoài nhìn vào, sẽ thấy những hình ảnh chém lợn, đâm trâu đáng sợ thật, nhưng những người dân địa phương, những chủ thể văn hóa của các lễ hội này lại không thấy như thế. Trong khi đó, họ mới là người quyết định có nên bỏ hay không các lễ hội đó, còn không một ai có quyền phán xét việc tổ chức các lễ hội này là đúng hay sai ”.

    Thực tế hiện nay cho thấy tính cấp thiết trong việc tìm ra phương hướng giải quyết vấn đề này cho thật ổn thỏa. Và đây chính là nhiệm vụ đặt ra cho các cơ quan chức năng, các nhà quản lý văn hóa. Với bản thân, tôi muốn góp phần nhỏ bé của mình vào việc giải quyết thỏa đáng một nội dung rộng lớn.

    Cần nâng cao tính tự hào và giáo dục bản sắc văn hóa dân tộc cho lớp trẻ, không để những giá trị văn hóa bị thất truyền. Nhất là những nghi lễ quan trọng, chúng cần có người nối dõi. Một dân tộc mà mất đi văn hóa, truyền thống thì sẽ rất khó tưởng tượng.

    Nếu hình ảnh đâm giáo vào trâu quả thực không phù hợp với nhiều người thì có thể không cho phép quay, chụp ảnh trong quá trình đâm trâu và cấm phát tán trên mạng xã hôi, Để chỉ những người thực sự cần mới được chứng kiến. Ngoài ra, chỉ cần làm như một nghi lễ tượng trưng, còn việc giết mổ trâu thì sẽ được thực hiện ở một nơi kín đáo.

    Các cấp lãnh đạo, các cán bộ văn hóa cần có những chính sách, giải pháp hợp lý hơn, đúng với pháp luật và phù hợp với văn hóa dân tộc để điểu chỉnh. Chứ không nên để một nét văn hóa truyền thống tốt đẹp biến mất.

    C. KẾT LUẬN

    Lễ hội đâm trâu là kết quả của quá trình đúc kết truyền thống lịch sử, văn hóa, xã hội và những nếp sống tốt đẹp, tình nghĩa làng bản và tính cộng đồng sâu sắc của dân tộc Cơ Tu. Nghiên cứu lễ hội này giúp mọi người hiểu hơn về những lĩnh vực đó, góp phần bảo lưu những nét tốt đẹp trong bản sắc văn hóa của dân tộc. Đồng thời biết gạt bỏ những cái lỗi thời, cản trở sự tiến bộ, phản khoa học, phản nhân văn, tăng cường hơn nữa mối quan hệ tốt đẹp giữa người với người, củng cố niềm tin và hy vọng để vươn tới tương lai. Lễ hội đâm trâu là một trong những tài sản quý báu của nền văn hóa dân tộc, do đó cần được giữ gìn để truyền lại cho con cháu mai sau.

    TÀI LIỆU THAM KHẢO

  • [1] Abayomi, F. (2012). Festival: Definition and Morphology. Retrive from https://brown.edu/Departments/Joukowsky_Institute/courses/cityandfestival09/files/9722047.P DF.
  • [2]

    https://vi.wikipedia.org/

    https://vnexpress.net/

    https://bnews.vn/

    https://nghiencuulichsu.com/

    http://vov4.vov.gov.vn/

    Các trang tin điện tử , , , , .

  • [3] Lời kể của người dân thôn Bha Bhar, xã Hương Sơn, huyện Nam Đông, Thừa Thiên Huế.
  • [4] Nguyễn Văn Chương, Mùa xuân với lễ hội đâm trâu, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội, 2004.
  • [5] Trần Ngọc Thêm, Cơ sở văn hóa Việt Nam, tái bản, Nhà xuất bản giáo dục, 1999.
  • [6] Viện ngôn ngữ học, Từ điển tiếng Việt, Nhà xuất bản từ điển bách khoa, 2010.