TIỂU LUẬN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC (2021) – HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN KHOA CHỦ NGHĨA XÃ HỘI – Studocu

HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN KHOA CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC

Nội Dung Chính

TIỂU LUẬN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC

ĐỀ TÀI: ĐIỂM TƯƠNG ĐỒNG GIỮA GIAI CẤP CÔNG NHÂN HIỆN NAY VỚI GIAI CẤP CÔNG NHÂN Ở THẾ KỶ XIX VÀ Ý NGHĨA CỦA VIỆC NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ NÀY

Sinh viên: HỒ THỊ MINH CHÂU Mã số sinh viên: 2151040008 Lớp: TRUYỀN THÔNG ĐA PHƯƠNG TIỆN K41

Hà Nội, tháng 12 năm 2021

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU………………………………………………………………………………………………..3

NỘI DUNG……………………………………………………………………………………………..3

CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ GIAI CẤP CÔNG NHÂN……………3

1

Quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin về giai cấp công nhân

và khái niệm của giai cấp công nhân………………………………………………..3

1.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về giai cấp công nhân. ..3

1.2. Khái niệm giai cấp công nhân………………………………………………..4

2. Nội dung và đặc điểm sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân………5

2.1. Nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân……………………5

2.2. Đặc điểm sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân……………………8

CHƯƠNG II: GIAI CẤP CÔNG NHÂN HIỆN NAY…………………………10

1

Điểm tương đồng của giai cấp công nhân hiện nay với giai cấp công

nhân ở thế kỷ XIX…………………………………………………………………………10

2. Những nhận thức mới về giai cấp công nhân hiện nay…………………13

CHƯƠNG III: Ý NGHĨA CỦA VIỆC NGHIÊN CỨU, SỨ MỆNH LỊCH

SỬ VÀ PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP XÂY DỰNG GIAI CẤP

CÔNG NHÂN VIỆT NAM NGÀY NAY……………………………………………16

1

Ý nghĩa của việc nghiên cứu điểm tương đồng giữa giai cấp công

nhân hiện nay với giai cấp công nhân ở thế kỷ XIX………………………..16

2. Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay…………16

2.1. Đặc điểm của giai cấp công nhân Việt Nam…………………………..16

3

Phướng hướng và giải pháp để xây dựng giai cấp công nhân Việt

Nam ngày nay……………………………………………………………………………….22

3.1. Phương hướng……………………………………………………………………..22

3. 2. Một số giải pháp………………………………………………………………….23

KẾT LUẬN……………………………………………………………………………………..25

TÀI LIỆU THAM KHẢO………………………………………………………………..26

MỞ ĐẦU

1. Lý do và tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu

Như chúng ta đã biết, giai cấp công nhân từ lâu đã là lực lượng vô cùng quan trọng trong xã hội. Giai cấp công nhân đóng vai trò then chốt trong việc xóa bỏ sự thống trị của chủ nghĩa tư bản, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản để giải phóng chính mình, giải phóng các dân tộc bị áp bức, giải phóng xã hội loài người và giải phóng con người. Hiện nay, trong tình hình mới với rất nhiều chuyển biến trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội giai cấp công nhân càng thể hiện rõ vai trò sứ mệnh của mình. Trên cơ sở tiếp thu những cái mới nhằm hội nhập với quốc tế, với toàn cầu giai cấp công nhân hiện nay vẫn giữ được những nét tương đồng so với giai cấp công nhân ở thế kỷ XIX. Vì thế, tác giả tiểu luận nhận thấy việc nghiên cứu đề tài “Điểm tương đồng giữa giai cấp công nhân hiện nay và giai cấp công nhân ở thế kỷ XIX và ý nghĩa của việc nghiên cứu vấn đề này” là vô cùng cần thiết giúp cho việc tìm hiểu sâu hơn về giai cấp công nhân, khẳng định những giá trị của chủ nghĩa Mác – Lênin. Từ đó, đưa ra những quan điểm mang tính bổ sung, phát triển nhận thức mới về việc thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân hiện nay.

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

2.1. Mục đích:

Nắm vững được quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin về giai cấp công nhân và sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, nội dung, biểu hiện của sứ mệnh đó trong bối cảnh hiện nay.

Phân tích được những điểm tương đồng giữa giai cấp công nhân hiện nay với giai cấp công nhân ở thế kỷ XIX, đồng thời làm rõ ý nghĩa của việc nghiên cứu đó.

2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu:

Nêu và phân tích khái niệm giai cấp công nhân trong tư tưởng Mác – Lênin.

Làm rõ sứ mệnh lịch sử toàn thế giới của giai cấp công nhân.

Làm rõ ý nghĩa của việc nghiên cứu điểm tương đồng giữa giai cấp công nhân hiện nay với giai cấp công nhân ở thế kỷ XIX.

Đưa ra những giải pháp ….

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

3.1. Đối tượng:

Đề tài nghiên cứu điểm tương đồng giữa giai cấp công nhân hiện nay với giai cấp công nhân ở thế kỷ XIX.

3.2. Phạm vi nghiên cứu:

Đề tài chủ yếu tập trung nghiên cứu điểm tương đồng giữa giai cấp công nhân hiện nay với giai cấp công nhân ở thế kỷ XIX trong chủ nghĩa Mác – Lênin ở Việt Nam và trên toàn thế giới.

4. Ý nghĩa của việc nghiên cứu đề tài (nhận thức và hành động)

Góp phần xây dựng và củng cố tư tưởng của bản thân về lập trường giai cấp công nhân đối với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam nói riêng và trên thế giới.

Tích cực tham gia vào cuộc đấu tranh tư tưởng, lý luận; lên án những quan điểm sai trái phủ nhận sứ mệnh lịch sử giai cấp công nhân trong phong trào cách mạng thế giới, trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội trên thế giới và Việt Nam.

NỘI DUNG

CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ GIAI CẤP CÔNG NHÂN

1. Quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin về giai cấp công nhân và khái niệm của giai cấp công nhân

1.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về giai cấp công nhân

Khi bàn về giai cấp công nhân và sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, C.Mác và Ph. Ăngghen chỉ rõ : “Vấn đề là ở chỗ tìm hiểu xem giai cấp vô sản thực ra là gì và phù hợp với tồn tại ấy của bản thân nó, giai cấp vô sản buộc phải làm gì về mặt lịch sử ”. Để chỉ giai cấp công nhân, các nhà kinh điển dùng nhiều khái niệm như: giai cấp vô sản -giai cấp xã hội hoàn toàn chỉ chỉ dựa vào bán sức lao động của mình, lao động làm thuê ở thế kỷ XIX; giai cấp vô sản hiện đại; giai cấp công nhân hiện đại; giai cấp công nhân đại công nghiệp, v.v.. Các thuật ngữ này là những cụm từ đồng nghĩa để biểu thị cho giai cấp công nhân – con đẻ của nền đại công nghiệp tư bản chủ nghĩa, giai cấp đại biểu cho lực lượng sản xuất tiên tiến, cho phương thức sản xuất hiện đại trong nền sản xuất tư bản chủ nghĩa.

Nhưng dù khái niệm giai cấp công nhân có nhiều tên gọi khác nhau như thế nào thì theo C. Mác và Ph. Ăngghen đặc điểm của giai cấp công nhân có thể khái quát thành hai thuộc tính cơ bản:

Về phương thức lao động, phương thức sản xuất, đó là những người lao động trực tiếp hay gián tiếp vận hành các công cụ sản xuất có tính chất công nghiệp ngày càng hiện đại và xã hội hóa cao.

C. Mác và Ph. Ăngghen đã nhấn mạnh rằng: “Các giai cấp khác đều suy tàn và tiêu vong cùng với sự phát triển của đại công nghiệp, còn giai cấp vô sản lại là sản phẩm của bản thân nền đại công nghiệp” và “công nhân cũng là một phát minh của thời đại mới, giống như máy móc vậy”… “công nhân Anh là đứa con đầu lòng của nền công nghiệp hiện đại”.

Về vị trí trong quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, đó là những người không sở hữu tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội. Họ phải bán sức lao động cho nhà tư bản và bị chủ tư bản bóc lột giá trị thặng dư. Với nhà tư bản, họ là những người lao động tự do, nghĩa là tự do bán sức lao động của mình để kiếm sống.

Ngày nay với sự phát triển của chủ nghĩa tư bản, bộ mặt của giai cấp công nhân hiện đại có nhiều thay đổi khác trước. Cơ cấu ngành nghề của giai cấp công nhân đã có những thay đổi to lớn: bên cạnh công nhân của nền công nghiệp cơ khí đã xuất hiện công nhân của nền công nghiệp tự động hóa, với việc áp dụng phổ biến công nghệ thông tin vào sản xuất. Thế nhưng, cho dù trình độ kỹ thuật có thay đổi như thế nào đi nữa thì xét theo tiêu chí kinh tế -xã hội, giai cấp công nhân vẫn tồn tại như là một giai cấp đặc thù.

1.2. Khái niệm giai cấp công nhân

Những quan điểm của C.Mác và Ph. Ăngghen về hai thuộc tính cơ bản của giai cấp công nhân cho đến nay vẫn giữ nguyên giá trị, vẫn là cơ sở phương pháp luận để chúng ta nghiên cứu giai cấp công nhân hiện đại, đặc biệt là để làm sáng tỏ sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân trong thời đại ngày nay. Căn cứ vào hai thuộc tính cơ bản nói trên, chúng ta có thể định nghĩa giai cấp công nhân như sau:

Giai cấp công nhân là một tập đoàn xã hội ổn định, hình thành và phát triển cùng với quá trình phát triển của nền đại công nghiệp hiện đại, với nhịp độ phát triển của lực lượng sản xuất có tính chất xã hội hóa ngày càng cao, là lực lượng lao động cơ bản trực tiếp hoặc tham gia vào quá trình sản xuất, tái sản xuất ra của cải vật chất và cải tạo các quan hệ xã hội; đại biểu cho lực lượng sản xuất và phương thức sản xuất tiên tiến trong thời đại ngày nay.

Giai cấp công nhân là sản phẩm của cách mạng công nghiệp, ra đời và phát triển gắn liền với sự ra đời và phát triển của nền đại công nghiệp; trực tiếp hay gián tiếp vận hành các công cụ sản xuất có tính chất công nghiệp ngày càng hiện đại và xã hội hóa cao.

Giai cấp công nhân là sản phẩm của nền công nghiệp hiện đại, lực lượng đại biểu cho sự phát triển của lực lượng sản xuất tiến bộ, cho xu hướng tiến bộ của phương thức sản xuất; là giai cấp có tinh thần triệt để cách mạnh; là giai cấp có tính tổ chức và kỉ luật cao; là giai cấp có bản chất quốc tế.

Trong xã hội tư bản chủ nghĩa, giai cấp công nhân là một trong những giai cấp cơ bản, chủ yếu, đối lập với giai cấp tư sản, là giai cấp bị giai cấp tư sản tước đoạt hết tư liệu sản xuất, buộc phải bán sức lao động cho nhà tư bản để sống, bị bóc lột giá trị thặng dư. Họ là những người được tự do về thân thể và có quyền bán sức lao động tùy theo cung – cầu hàng hóa sức lao động. Đây là giai cấp bị bóc lột nặng nề, bị bần cùng hóa về vật chất lẫn tinh thần. Sự tồn tại của họ phụ thuộc và quy luật cung – cầu hàng hóa sức lao động, phụ thuộc vào kết quả lao động của chính họ. Họ phải tạo ra giá trị thặng dư, nhưng giá trị thặng dư lại bị giai cấp tư sản chiếm đoạt. Dưới chủ nghĩa tư bản, C. Mác và Ph. Ăngghen đã định nghĩa rằng: “Giai cấp vô sản là giai cấp những công nhân làm thuê hiện đại, vì mất hết tư liệu sản xuất của bản thân, nên buộc bán sức lao động của mình đế sống”.

2. Nội dung và đặc điểm sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân

2.1. Nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân

Nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là những nhiệm vụ mà giai cấp công nhân cần phải thực hiện với tư cách là giai cấp tiên phong, lực lượng đi đầu trong cuộc cách mạng xác lập hình thái kinh tế -xã hội cộng sản chủ nghĩa được thể hiện toàn diện trên các lĩnh vực chủ yếu của đời sống xã hội.

-Nội dung kinh tế:

Là nhân tố hàng đầu của lực lượng sản xuất xã hội hóa cao giai cấp công nhân cũng là đại biểu cho quan hệ sản xuất mới tiêu biểu nhất dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất đại biểu cho phương thức sản xuất tiến bộ nhất thuộc về xu thế phát triển của lịch sử xã hội

Dù ở chế độ chính trị nào thì giai cấp công nhân vẫn là chủ thể hàng đầu của quá trình sản xuất vật chất bằng phương thức sản xuất công nghiệp mang tính chất xã hội hóa cao nhằm sản xuất ra nhiều của cải vật chất , đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của con người và xã hội. Qua đó, họ tạo ra tiền đề vật chất – kĩ thuật cho sự ra đời của xã hội mới. Giai cấp công nhân đã thể hiện rõ nét vai trò chủ thể của nó ở chỗ nó đại biểu cho lợi ích chung của xã hội. Nó phấn đấu cho lợi ích chung của xã hội. Và nó chỉ tìm thấy lợi ích chân chính của mình khi thực hiện lợi ích chung của xã hội.

Ở các nước tư bản chủ nghĩa hiện nay, từ vị thế của mình, giai cấp công nhân đang thực hiện nội dung kinh tế này thông qua các cuộc cách mạng khoa học -kĩ thuật và công nghệ hiện đại nhằm mục đích thúc đẩy mạnh mẽ các lực lượng sản xuất xã hội hóa.

Ở các nước xã hội chủ nghĩa, giai cấp công nhân thông qua một quá trình công nghiệp hóa và thực hiện “một kiểu tổ chức xã hội mới về lao động” để tăng năng suất lao động xã hội và thực hiện các nguyên tắc sở hữu, quản lý và phân phối phù hợp với nhu cầu phát triển xã hội, thực hiên tiến bộ và công bằng xã hội.

Trên thực tế, hầu hết các nước xã hội chủ nghĩa lại ra đời từ phương thức phát triển rút ngắn, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Do đó để thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình về nội dung kinh tế, giai cấp công nhân phải đóng vai trò nòng cốt trong quá trình giải phóng lực lượng sản xuất (vốn bị kìm hãm, lạc hậu, chậm phát triển trong quá khứ), thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển để tạo cơ sở cho quan hệ sản xuất mới, xã hội chủ nghĩa ra đời.

Nội dung kinh tế này là yếu tố sâu xa nhất khẳng định sự cần thiết và quy mô phạm vi toàn thế giới về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân đối với quá trình phát triển của văn minh nhân loại. Thực hiện một cách thành công và đầy đủ nội dung này sẽ tạo điều kiện vật chất để chủ nghĩa xã hội chiến thắng chủ nghĩa tư bản.

-Nội dung chính trị – xã hội:

Giai cấp công nhân cùng với nhân dân lao động, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, tiến hành cách mạng chính trị để lật đổ quyền thống trị của giai cấp thống trị, xóa bỏ chế độ bóc lột, áp bức, giành quyền lực về tay giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Thiết lập nhà nước kiểu mới, mang bản chất giai cấp công nhân, xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện quyền lực của nhân dân, quyền dân chủ và làm chủ xã hội của tuyệt đại đa số nhân dân lao động.

Giai cấp công nhân và nhân dân lao động sử dụng nhà nước của mình, do mình làm chủ như một công cụ có hiệu lực để cải tạo xã hội cũ và tổ chức xây dựng xã hội mới, phát triển kinh tế và văn hóa, xây dựng nền chính trị dân chủ -pháp quyền, quản lý kinh tế -xã hội và tổ chức đời sống xã hội phục vụ quyền và lợi ích của nhân dân lao động, thực hiện dân chủ, công bằng, bình đẳng và tiến bộ xã hội theo lý tưởng và mục tiêu của chủ nghĩa xã hội.

Những nội dung phong phú, quan trọng của cách mạng chính trị cho ta thấy đây là một quá trình lâu dài và khó khăn. Chủ nghĩa xã hội hiện thực chỉ có thể ra đời thông qua chiến thắng của cuộc cách mạng chính trị do giai cấp công nhân thực hiện.

-Nội dung văn hóa, tư tưởng:

Thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình, giai cấp công nhân trong tiến trình cách mạng cải tạo xã hội cũ và xây dựng xã hội mới trên lĩnh vực văn hóa, tư tưởng cần phải tập trung xây dựng hệ giá trị mới: lao động; công bằng; dân chủ; bình đẳng và tự do.

Giai cấp công nhân thực hiện cuộc cách mạng về văn hóa, tư tưởng bao gồm cải tạo cái cũ lỗi thời, lạc hậu, xây dựng cái mới tiến bộ trong lĩnh vực ý thức tư tưởng, trong tâm lý, lối sống và trong đời sống tinh thần xã hội. Xây dựng và củng cố ý thức hệ tiên tiến của giai cấp công nhân, đó là chủ nghĩa Mác – Lênin, đấu tranh để khắc phục ý thức hệ tư sản và các tàn dư còn sót lại của các hệ tư tưởng cũ. Phát triển văn hóa, xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa, đạo đức và lối sống mới xã hội chủ nghĩa là một trong những nội dung căn bản mà cách mạng xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực văn hóa, tư tưởng đặt ra đối với sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân hiện đại.

Mục tiêu trên hết của cuộc cách mạng này là xây dựng nền văn hóa xã hội chủ nghĩa và con người được phát triển toàn diện, được sống trong một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

2.2. Đặc điểm sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân

Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân xuất phát từ những tiền đề kinh tế -xã hội của sản xuất mang tính xã hội hóa.

  • -Quá trình sản xuất mang tính xã hội hoá làm xuất hiện những tiền đề vật chất, thúc đẩy sự phát triển xã hội, thúc đẩy sự vận động của mâu thuẫn cơ bản trong lòng phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Sự xung đột giữa tính chất xã hội hoá của LLSX với tính chất chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất là nội dung kinh tế -vật chất của mâu thuẫn cơ bản trong chủ nghĩa tư bản.
  • -Quá trình sản xuất mang tính xã hội hóa đã sản sinh ra giai cấp công nhân và luyện nó thành chủ thể thực hiện sứ mệnh lịch sử. Do mâu thuẫn về lợi ích cơ bản không thể điều hoà giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản, nên mâu thuẫn này trở thành động lực chính cho cuộc đấu tranh giai cấp trong xã hội hiện đại. Giải quyết mâu thuẫn cơ bản về kinh tế và chính trị trong lòng phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa chính là sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Đó là tính quy định khách quan, yêu cầu khách quan của sự vận động, phát triển của lịch sử từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản.

    Thực hiện sứ mệnh lịch sử là sự nghiệp cách mạng của bản thân giai cấp công nhân cùng đông đảo nhân dân lao động do Đảng Cộng sản lãnh đạo và mang lại lợi ích cho đa số.

  • -Đây là cuộc cách mạng của đại đa số mưu lợi ích cho tuyệt đại đa số, nhờ việc hướng tới xây dựng một xã hội mới dựa trên chế độ công hữu về những tư liệu sản xuất của xã hội. Sự thống nhất về lợi ích cơ bản của giai cấp công nhân với lợi ích của nhân dân lao động tạo ra điều kiện để đặc điểm quan trọng này về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân được thực hiện.
  • -Lực lượng sản xuất xã hội hoá cao, ở trình độ phát triển hiện đại và chế độ công hữu sẽ tạo ra cơ sở kinh tế để chấm dứt vĩnh viễn chế độ người bóc lột người.
  • -Giai cấp công nhân chỉ có thể tự giải phóng mình thông qua việc đồng thời giải phóng các giai cấp bị bóc lột khác, giải phóng xã hội, giải phóng con người.

    Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân không phải là thay thế chế độ sở hữu tư nhân này bằng một chế độ sở hữu tư nhân khác mà là xóa bỏ triệt để chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất chủ yếu.

  • -Đối tượng xoá bỏ ở đây là sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa là nguồn gốc sinh ra những áp bức , bóc lột, bất công trong xã hội hiện đại.
  • -Sự xóa bỏ này hoàn toàn bị quy định một cách khách quan từ trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.

    Giai cấp công nhân giành lấy quyền lực thống trị là tiền đề cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới nhằm giải phóng con người.

  • -Cuộc cách mạng của giai cấp công nhân nhằm xóa bỏ trình trạng bóc lột , áp bức và nô dịch con người, xoá bỏ sự thống trị của giai cấp tư sản để thực hiện quyền làm chủ của giai cấp công nhân và nhân dân lao động.
  • – Đó là cuộc cách mạng triệt để nhất thực hiện lý tưởng và mục tiêu của của chủ nghĩa cộng sản “sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người” như C.Mác và Ph.Ăngghen nhấn mạnh.
  • CHƯƠNG II: GIAI CẤP CÔNG NHÂN HIỆN NAY

    1. Điểm tương đồng của giai cấp công nhân hiện nay với giai cấp công nhân ở thế kỷ XIX.

    Thứ nhất, giai cấp công nhân thế kỷ XIX hay giai cấp công nhân hiện nay vẫn là lực lượng sản xuất hàng đầu của xã hội. Họ là chủ thể của quá trình sản xuất công nghiệp hiện đại mang tính xã hội hóa ngày càng cao. Ở các nước phát triển, có một tỉ lệ thuận giữa sự phát triển của giai cấp công nhân với sự phát triển kinh tế. Lực lượng lao động bằng phương thức công nghiệp chiếm tỷ lệ cao ở mức tuyệt đối ở những nước có trình độ phát triển cao về kinh tế, đó là những nước công nghiệp phát triển (như các nước thuộc nhóm G7). Thực tế chỉ ra rằng, muốn phát triển lực lượng lao động thì phải chú trọng đến nguồn lực con người, đây là “nguồn lực” đặc biệt của mỗi quốc gia, bao gồm trình độ học vấn, chuyên môn; phẩm chất chính trị, đạo đức lối sống; kỹ năng nghề nghiệp; sức khỏe,… của mỗi cá nhân hợp thành khả năng lao động xã hội. Trên thực tế, giữa nguồn lực con người, vốn, tài nguyên thiên nhiên, cơ sở vật chất -kỹ thuật, khoa học -công nghệ,… luôn có quan hệ mật thiết với nhau, trong đó nguồn nhân lực được xem là năng lực nội sinh chi phối các nguồn lực khác. Nói cách khác, nguồn nhân lực chính là nhân tố quyết định đến việc khai thác, sử dụng, bảo vệ và tái tạo các nguồn lực khác, do vậy nó quyết định đến sự phát triển của quốc gia. Thực tiễn đã chứng minh, có những quốc gia không giàu về tài nguyên, điều kiện thiên nhiên không thuận lợi như Nhật Bản, Israel, Singapore,… nhưng vẫn phát triển, vẫn “cất cánh” một khi quốc gia đó biết coi trọng phát triển và phát huy nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao.

    Cũng vì thế, đa số các nước đang phát triển hiện nay đều thực hiện chiến lược công nghiệp hóa nhằm đẩy mạnh tốc độ, chất lượng và quy mô phát triển. Công nghiệp hóa vẫn đang là cơ sở khách quan để giai cấp công nhân hiện đại phát triển mạnh mẽ cả về số lượng và chất lượng. Công nghiệp hóa là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của quá trình phát triển vì nó đưa cả nền sản xuất vật chất và đời sống văn hóa – xã hội của đất nước lên trình độ mới. Đối với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, công nghiệp hóa có vai trò tạo điều kiện, tiền đề vật chất -kỹ thuật cho chế độ xã hội chủ nghĩa. Ở mỗi thời kỳ lịch sử, căn cứ vào tình hình kinh tế -xã hội, công nghiệp hóa có nội dung và bước đi cụ thể, phù hợp. Đối với Việt Nam, khi chính thức bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đảng chủ trương tiến hành công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa, và từ cuối thế kỷ XX đến nay, quá trình này được xác định đầy đủ là công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đó là một quá trình kinh tế, kỹ thuật -công nghệ và kinh tế -xã hội toàn diện, sâu rộng nhằm chuyển đổi nền sản xuất và xã hội Việt Nam từ trình độ nông nghiệp lạc hậu lên trình độ công nghiệp với các trình độ công nghệ ngày càng tiên tiến, hiện đại, văn minh.

    Thứ hai, cũng giống như thế kỷ XIX, ở các nước tư bản chủ nghĩa hiện nay, công nhân vẫn bị giai cấp tư sản và chủ nghĩa tư bản bóc lột giá trị thặng dư. Quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa với chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa xã hội sản sinh ra tình trạng bóc lột này vẫn tồn tại. Ngày nay, chủ nghĩa tư bản tuy có những điều chỉnh nhất định về hình thức sở hữu, quản lý và phân phối để thích nghi ở mức độ nào đó với điều kiện mới, nhưng sự thống trị của chủ nghĩa tư bản tư nhân vẫn tồn tại nguyên vẹn, bản chất bóc lột của nó vẫn không hề thay đổi. Nhà nước tư sản hiện nay tuy có tăng cường can thiệp vào đời sống kinh tế -xã hội, nhưng về cơ bản nó vẫn là bộ máy thống trị của giai cấp tư sản. Những khái niệm và luận điểm phản ánh, đề cập những sự kiện, quan hệ kinh tế

  • -xã hội mới nhất bao giờ cũng hấp dẫn người ta. Nhưng chúng không bác bỏ được thực tế là: không phải lao động quá khứ như máy móc, thiết bị kỹ thuật làm ra giá trị mới, mà lao động sống mới làm ra giá trị mới, lao động sống mới tạo ra giá trị thặng dư trong thời đại kinh tế công nghiệp trước đây đã như vậy, trong kinh tế tri thức hiện đại cũng vậy.
  • Thực tế đó cho thấy, xung đột về lợi ích cơ bản giữa giai cấp tư sản và giai cấp công nhân (giữa tư bản và lao động) vẫn tồn tại, vẫn là nguyên nhân cơ bản, sâu xa của đấu tranh giai cấp trong xã hội hiện đại ngày nay. Ngày nay, dù những hình thức bóc lột có biến tướng, tinh vi đến mức nào chăng nữa thì bản chất bóc lột của tư bản đối với lao động vẫn là bóc lột giá trị thặng dư -tức là bóc lột lao động sống của người lao động chứ không thể bóc lột lao động “chết” của máy móc được.

    Thứ ba, phong trào cộng sản và công nhân ở nhiều nước vẫn luôn là lực lượng đi đầu trong các cuộc đấu tranh vì hòa bình, hợp tác và phát triển, vì dân sinh, dân chủ, tiến bộ xã hội và chủ nghĩa xã hội. Công nhân ở thế kỷ XIX hay hiện nay vẫn đóng vai trò nòng cốt trong việc xây dựng và đấu tranh để xây dựng một xã hội tốt đẹp hơn. Từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai (1945) đến giữa những năm 70, phong trào cộng sản quốc tế chuyển sang một giai đoạn phát triển mới. Đây là giai đoạn phát triển cao nhất của phong trào cộng sản quốc tế. Cuối giai đoạn này, Đảng Cộng sản đã hoạt động ở hơn 90 nước trên thế giới với hơn 75 triệu đảng viên (trong đó, 15 Đảng Cộng sản cầm quyền ở 15 nước xã hội chủ nghĩa với gần 70 triệu đảng viên, 28 Đảng Cộng sản ở các nước tư bản phát triển gồm 3,5 triệu đảng viên, 16 Đảng Cộng sản ở các nước đang phát triển ở châu Á, 9 Đảng Cộng sản ở châu Phi và 26 Đảng Cộng sản ở Mĩ La-tinh gồm tổng số l,5 triệu đảng viên). Không có một trào lưu tư tưởng chính trị nào có lực lượng và ảnh hưởng mạnh mẽ đến tiến trình lịch sử thế giới trong giai đoạn lịch sử này như phong trào cộng sản quốc tế.

    Và hơn cả, phong trào cộng sản quốc tế đã đạt được một thành tựu to lớn: sự ra đời của hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới. Từ những năm 1944 – 1945 đến 1949, một loạt nước dân chủ nhân dân ở châu Âu và châu Á xuất hiện, cùng với Liên Xô -nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới -hình thành hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới. Sự ra đời và phát triển của hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới với 1/4 diện tích trái đất và gần l/3 dân số nhân loại với những tiềm lực và thành tựu to lớn trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, giáo dục, khoa học -kĩ thuật sau chiến tranh là nhân tố quan trọng, có vai trò đặc biệt đối với sự phát triển tiến bộ của thế giới trong suốt mấy thập niên giữa thế kỉ XX.

    Từ những điểm tương đồng đó của công nhân hiện đại so với công nhân thế kỷ XIX, có thể khẳng định: Lý luận về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân trong chủ nghĩa Mác -Lênin vừa mang giá trị khoa học và cách mạng, vẫn có ý nghĩa thực tiễn to lớn, chỉ đạo cuộc đấu tranh cách mạng hiện nay của giai cấp công nhân, phong trào công nhân và quần chúng lao động, chống chủ nghĩa tư bản và lựa chọn con đường xã hội chủ nghĩa trong sự phát triển của thế giới ngày nay.

    2. Những nhận thức mới về giai cấp công nhân hiện nay

    Ngày nay do bối cảnh thế giới có nhiều biến đổi nhất là cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang tác động và ảnh hưởng sâu sắc vào bảng sản xuất và đời sống xã hội giai cấp công nhân hiện đại đã và đang phát triển mạnh mẽ cả về số lượng và chất lượng. Số lượng công nhân tăng nhanh, theo Tổ chức Lao động quốc tế (ILO), nếu năm 1900 mới có 80 triệu công nhân thì nay, công nhân đã lên tới 1 tỷ người. Nhiều quốc gia có nền kinh tế phát triển cao, tiêu biểu là nhóm G7, công nhân chiếm khoảng 70 đến 90% tổng số lao động trong xã hội.

    Nhận thức mới về giai cấp công nhân hiện nay thể hiện trên các phương diện sau:

    Đại biểu cho giai cấp công nhân hiện đại ngày nay là đội ngũ công nhân tri thức làm việc trong môi trường kinh tế tri thức, đòi hỏi nhiều năng lực sáng tạo, phải huy động trí tuệ vào sản xuất nhiều hơn là sức lao động cơ bắp như trước đây. Phương thức lao động công nghiệp đặc trưng cho công nhân là có sự phát triển mới theo tư tưởng tri thức hóa và trí thức hóa công nhân.

    Kinh tế tri thức hình thành và phát triển một cách tất yếu và ngày càng trở nên phổ phổ biến thể hiện một trình độ mới của sản xuất hiện đại. Vai trò của tri thức, của khoa học -công nghệ đang có vị trí ưu thế, là động lực chủ yếu quyết định đối với việc tăng năng suất lao động, chất lượng và hiệu quả của sản xuất, của nền kinh tế thị trường hiện đại.

    Hướng tới kinh tế tri thức là xu hướng chung của thế giới để đổi mới cơ cấu kinh tế và mô hình tăng trưởng, chuyển nền kinh tế từ phát triển theo bề rộng sang phát triển theo chiều sâu. Công nhân tri thức đang dần chiếm tỷ lệ cao trong tổng số lao động ở xã hội ở các nước phát triển.

    Để đáp ứng nhu cầu về nhân lực chất lượng cao, công nhân phải được đào tạo và thường xuyên bổ túc về công nghệ, không những để thích ứng mà còn phải làm chủ khoa học – công nghệ hiện đại.

    Do cơ cấu nghề nghiệp đa dạng, trình độ công nghệ và giác ngộ chính trị khác nhau, phương thức sản xuất và sinh hoạt của công nhân có nhiều biến đổi, phong trào công nhân quốc tế lại đang bị chi phối bởi nhiều tổ chức chính trị -xã hội phức tạp, nhất là trong bối cảnh toàn cầu hóa, trật tự thế giới thay đổi sau sự đổ vỡ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu, hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới tan rã, nên vấn đề đoàn kết và thống nhất trong giai cấp công nhân và phong trào công nhân cần có những nhận thức mới.

    Trong các nước tư bản chủ nghĩa, việc củng cố giai cấp công nhân và tập hợp các lực lượng xã hội đoàn kết với giai cấp công nhân trong cuộc đấu tranh vì dân sinh, dân chủ, tiến bộ xã hội chủ nghĩa và chủ nghĩa xã hội được đặt ra như một yêu cầu cấp thiết và thường xuyên. Các Đảng Cộng sản hoạt động trong các nước tư bản chủ nghĩa phải tăng cường công tác giáo dục chính trị, tư tưởng trong công nhân và lao động, mở rộng ảnh hưởng của Đảng trong xã hội, nhất là đối với thế hệ công nhân và trí thức trẻ.

    Trong các nước xã hội chủ nghĩa đang phải nỗ lực cải cách, đổi mới và phát triển kinh tế thị trường, đẩy mạnh hội nhập quốc tế. Tình hình đó đặt ra yêu cầu phải đổi mới nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng Cộng sản, nội dung và phương thức hoạt động của các tổ chức chính trị -xã hội, nhất là tổ chức công đoàn. Tổ chức và phối hợp hành động trong phong trào công nhân cần phải tìm tòi những hình thức mới, phù hợp, linh hoạt và sáng tạo để tăng cường đoàn kết và thống nhất giai cấp công nhân làm nòng cốt tăng cường đoàn kết dân tộc và xã hội cũng như đoàn kết quốc tế

    Mối quan hệ giữa lợi ích của giai cấp công nhân và lợi ích quốc gia -dân tộc cũng đang xuất hiện những tình huống mới.

    Toàn cầu hóa vừa liên kết về mặt lực lượng sản xuất lại vừa chia rẽ người lao động trong quan hệ sản xuất do họ gắn bó về lợi ích với các doanh nghiệp tư bản, các tập đoàn xuyên quốc gia.

    Lợi ích của công dân vừa gắn bó với lợi ích quốc gia -dân tộc lại vừa phụ thuộc vào thành phần kinh tế, tác động của thị trường sức lao động và những biến động của nền kinh tế toàn cầu. Thực tế đó tạo ra những quan hệ phức tạp, đan xen giữa các dạng lợi ích đòi hỏi phải có những hình thức tập hợp lực lượng mới.

    Chủ nghĩa tư bản hiện đại đang có những điều chỉnh về thể chế kinh tế và chính trị, áp dụng những phương thức quản lý mới, các biện pháp điều hòa mâu thuẫn và xung đột xã hội của giai cấp tư sản. Điều đó đang tác động vào giai cấp công nhân cả về đời sống và tâm lý, ý thức của họ.

    Trên thực tế ở các nước tư bản chủ nghĩa, một bộ phận công dân đã tham gia vào sở hữu một lượng tư liệu sản xuất của xã hội thông qua chế độ cổ phần hóa. Như vậy, xét về mặt hình thức, họ không còn là “vô sản” nữa mà có xu hướng “trung lưu hóa” về mức sống, song xét về thực chất, ở các nước tư bản, do không chiếm được tỷ lệ sở hữu cao nên trong quá trình sản xuất và phân phối lợi nhuận vẫn bị phụ thuộc vào những cổ đông lớn, vẫn thuộc quyền chi phối của giai cấp tư sản. Việc làm và lao động vẫn là nhân tố quyết định mức thu nhập và đời sống của công nhân.

    Hơn nữa, khi sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất vẫn tồn tại thì những thành quả của khoa học -công nghệ, sự phát triển kinh tế tri thức cũng như những điều chỉnh về thể chế vẫn chủ yếu là công cụ để giai cấp tư sản bóc lột giá trị thặng dư sức lao động của công nhân. Chủ nghĩa tư bản dù phát triển ở trình độ chủ nghĩa tư bản hiện đại vẫn không hề thay đổi bản chất bóc lột của nó. Giai cấp công nhân đấu tranh chống lại ách bóc lột, áp bức, thống trị của giai cấp tư sản và chủ nghĩa tư bản vẫn là một yếu tố sống còn để thực hiện sứ mệnh lịch sử của nó.

    CHƯƠNG III: Ý NGHĨA CỦA VIỆC NGHIÊN CỨU, SỨ MỆNH LỊCH SỬ VÀ PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP XÂY DỰNG GIAI CẤP CÔNG NHÂN VIỆT NAM NGÀY NAY

    1. Ý nghĩa của việc nghiên cứu điểm tương đồng giữa giai cấp công nhân hiện nay với giai cấp công nhân ở thế kỷ XIX

    Mục đích của việc làm rõ những điểm tương đồng theo quan điểm lịch sử -cụ thể của chủ nghĩa Mác – Lênin để khẳng định những giá trị của chủ nghĩa Mác – Lênin và cũng nhờ vào đó để bổ sung, phát triển thêm những nhận thức mới, phù hợp với thời đại, phù hợp với việc thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân hiện nay.

    Qua nghiên cứu đề tài thấy được Giai cấp công nhân có tinh thần cách mạng triệt để và là giai cấp lãnh đạo cách mạng thông qua đội tiên phong của mình là Đảng Cộng sản, hiểu rõ về tư tưởng lý luận để bảo vệ sự trong sáng của chủ nghĩa Mác -Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, đó là nền tảng tư tưởng của Đảng, chống lại những quan điểm sai trái, những sự xuyên tạc của các thế lực thù địch, kiên định lý tưởng, mục tiêu và con đường cách mạng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.

    ….

    2. Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay

    2.1. Đặc điểm của giai cấp công nhân Việt Nam

    Tại hội nghị lần thứ sau Ban Chấp hành Trung ương khóa X, Đảng đã xác định: “Giai cấp công nhân Việt Nam là một lực lượng xã hội to lớn, đang phát triển, bao gồm những người lao động chân tay và trí óc, làm công hưởng lương trong các loại hình sản xuất kinh doanh và dịch vụ công nghiệp, hoặc sản xuất kinh doanh và dịch vụ có tính chất công nghiệp”.

    Giai cấp công nhân Việt Nam ra đời và phát triển gắn liền với chính sách khai thác thuộc địa của thực dân Pháp ở Việt Nam. Giai cấp công nhân Việt Nam mang những đặc điểm chủ yếu sau đây:

    Giai cấp công nhân Việt Nam ra đời trước giai cấp tư sản vào đầu thế kỷ XX, là giai cấp trực tiếp đối kháng với tư bản thực dân Pháp và bè lũ tay sai của chúng. Giai cấp công nhân Việt Nam phát triển chậm vì nó sinh ra và lớn lên ở một nước thuộc địa, nửa phong kiến, dưới ách thống trị của thực dân Pháp.

    Trực tiếp đối kháng với tư bản thực dân Pháp, trong cuộc đấu tranh chống tư bản thực dân đế quốc và phong kiến để giành độc lập chủ quyền, xóa bỏ ách bóc lột và thống trị thực dân, giai cấp công nhân đã tự thể hiện mình là lực lượng chính trị tiên phong để lãnh đạo cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, giải quyết mâu thuẫn cơ bản giữa dân tộc Việt Nam với đế quốc thực dân và phong kiến thống trị, mở đường cho sự phát triển của dân tộc trong thời đại cách mạng vô sản. Giai cấp công nhân Việt Nam không chỉ thể hiện đặc tính cách mạng của mình ở ý thức giai cấp và lập trường chính trị mà còn thể hiện tinh thần dân tộc, giai cấp công nhân Việt Nam gắn bó mật thiết với nhân dân, với dân tộc có truyền thống yêu nước, đoàn kết và bất khuất chống xâm lược.

    Tuy số lượng giai cấp công nhân Việt Nam khi ra đời còn ít, những đặc tính của công nhân với tư cách là sản phẩm của đại công nghiệp chưa thật sự đầy đủ, lại sinh trưởng trong một xã hội nông nghiệp còn mang nhiều tàn dư của tâm lý tiểu nông nhưng giai cấp công nhân Việt Nam sớm được tôi luyện trong đấu tranh cách mạng chống thực dân đế quốc nên đã trưởng thành nhanh chóng về ý thức chính trị của giai cấp, sớm giác ngộ lý tưởng, mục tiêu cách mạng, tức là giác ngộ về sứ mệnh lịch sử của giai cấp mình, nhất là từ khi Đảng ra đời. Lịch sử đấu tranh cách mạng của giai cấp công nhân và của Đảng cũng như phong trào công nhân Việt Nam do Đảng lãnh đạo gắn liền với lịch sử và truyền thống đấu tranh của dân tộc, nổi bật ở truyền thông yêu nước và đoàn kết đã cho thấy giai cấp công nhân Việt Nam trung thành với chủ nghĩa Mác -Lênin, với Đảng Cộng sản, với lý tưởng, mục tiêu cách mạng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Giai cấp công nhân có tinh thần cách mạng triệt để và là giai cấp lãnh đạo cách mạng thông qua đội tiên phong của mình là Đảng Cộng sản.

    Giai cấp công nhân Việt Nam gắn bó mật thiết với các tầng lớp nhân dân trong xã hội. Lợi ích của giai cấp công nhân và lợi ích dân tộc gắn chặt với nhau, tạo thành động lực thúc đẩy đoàn kết giai cấp gắn liền với đoàn kết dân tộc trong mọi thời kỳ đấu tranh cách mạng, từ cách mạng giải phóng dân tộc đến cách mạng xã hội chủ nghĩa, trong xây dựng chủ nghĩa xã hội và trong sự nghiệp đổi mới hiện nay.

    Đại bộ phận công nhân Việt Nam xuất thân từ nông dân và các tầng lớp lao động khác, cùng chung lợi ích, cùng chung nguyện vọng và khát vọng đấu tranh cho độc lập tự do, để giải phóng dân tộc và phát triển dân tộc Việt Nam, hướng đích tới chủ nghĩa xã hội nên giai cấp công nhân Việt Nam có mối liên hệ tự nhiên, chặt chẽ với giai cấp nông dân và các tầng lớp lao động trong xã hội. Đặc điểm này tạo ra thuận lợi để giai cấp công nhân xây dựng khối liên minh giai cấp với giai cấp nông dân, với đội ngũ trí thức làm nòng cốt trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Đó cũng là cơ sở xã hội rộng lớn để thức hiện các nhiệm vụ cách mạng, thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam, trước đây cũng như hiện nay.

    Những đặc điểm nêu trên bắt nguồn từ lịch sử hình thành và phát triển giai cấp công nhân Việt Nam với cơ sở kinh tế – xã hội và chính trị ở đầu thế kỷ XX.

    Ngày nay, nhất là trong hơn 30 năm đổi mới vừa qua, những đặc điểm đó của giai cấp công nhân đã có những biến đổi do tác động của tình hình kinh tế -xã hội trong nước và những tác động của tình hình quốc tế và thế giới. Bản thân giai cấp công nhân Việt Nam cũng có những biến đổi từ cơ cấu xã hội -nghề nghiệp, trình độ học vấn và tay nghề bậc thợ, đến đời sống, lối sống, tâm lý ý thức. Đội tiên phong của giai cấp công nhân là Đảng Cộng sản đã có một quá trình trưởng thành, trở thành Đảng cầm quyền, duy nhất cầm quyền ở Việt Nam, đang nỗ lực tự đổi mới, tự chỉnh đốn đề nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, làm cho Đảng ngang tầm nhiệm vụ.

    Những biến đổi đó thể hiện những nét chính sau đây:

    Giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay đã tăng nhanh về số lượng và chất lượng, là giai cấp đi đầu trong sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, gắn với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên và môi trường.

    Giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay đa dạng về cơ cấu nghề nghiệp, có mặt trong mọi thành phần kinh tế nhưng đội ngũ công nhân trong khu vực kinh tế nhà nước là tiêu biểu, đóng vai trò nòng cốt, chủ đạo.

    Công nhân tri thức, nắm vững khoa học – công nghệ tiên tiến, và công nhân trẻ được đào tạo nghề theo chuẩn nghề nghiệp, học vấn, văn hóa, được rèn luyện trong thực tiễn sản xuất và thực tiễn xã hội, là lực lượng chủ đạo trong cơ cấu giai cấp công nhân, trong lao động và phong trào công đoàn.

    Trong môi trường kinh tế – xã hội đổi mới, trong đà phát triển mạnh mẽ của cách mạng công nghiệp lần thứ 4, giai cấp công nhân Việt Nam đứng trước thời cơ phát triển và những thách thức nguy cơ trong phát triển.

    Để thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam trong bối cảnh hiện nay, cùng với việc xây dựng, phát triển giai cấp công nhân lớn mạnh, hiện đại, phải đặc biệt coi trọng công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, làm cho Đảng lãnh đạo, cầm quyền thực sự trong sạch vững mạnh. Đó là điểm then chốt để thực hiện thành công sứ mệnh lịch sử giai cấp công nhân Việt Nam.

    Trong thời kỳ đổi mới, Đảng ta đã xác định vai trò giai cấp công nhân và sứ mệnh lịch sử to lớn của giai cấp công nhân ở nước ta. “ Là giai cấp lãnh đạo cách mạng thông qua đội tiên phong là Đảng Cộng sản Việt Nam; giai cấp lãnh đạo cách mạng đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến, giai cấp tiên phong trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, lực lượng đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước vì mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, lực lượng nòng cốt trong liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng”.

    Thực hiện sứ mệnh lịch sử to lớn đó, giai cấp công nhân Việt Nam phát huy vai trò của một giai cấp tiên phong, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc dưới sự lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt của Đảng để giải quyết các nhiệm vụ cụ thể thuộc nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân.

    Về kinh tế:

    Giai cấp công nhân Việt Nam với số lượng đông đảo công nhân có cơ cấu ngành nghề đa dạng, hoạt động trong lĩnh vực sản xuất và dịch vụ công nghiệp ở mọi thành phần kinh tế, với chất lượng ngày một nâng cao về kỹ thuật và công nghệ sẽ là nguồn nhân lực lao động chủ yếu tham gia phát triển nền kinh tế thị trường hiện đại, định hướng xã hội chủ nghĩa, lấy khoa học – công nghệ làm động lực quan trọng, quyết định tăng năng suất lao động, chất lượng và hiệu quả. Đảm bảo tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, thực hiện hài hòa lợi ích cá nhân – tập thể và xã hội.

    Về chính trị – xã hội:

    Giai cấp công nhân phát huy vai trò và trách nhiệm của lực lượng đi đầu trong sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đây là vấn đề nổi bật nhất đối với việc thực hiện sứ mệnh lịch sử giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay. Thực hiện thắng lợi mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa, làm cho nước ta trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại, có nền công nghiệp hiện đại, định hướng xã hội chủ nghĩa trong một, hai thập kỷ tới, với tầm nhìn tới giữa thế kỷ XXI (2050) đó là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân mà giai cấp công nhân là nòng cốt. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam phải gắn liền với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên và môi trường. Tham gia vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, giai cấp công nhân có điều kiện khách quan thuận lợi để phát triển cả số lượng và chất lượng, làm cho những phẩm chất của giai cấp công nhân hiện đại được hình thành và phát triển đầy đủ trong môi trường xã hội hiện đại, với phương thức lao động công nghiệp hiện đại. Đó còn là điều kiện làm cho giai cấp công nhân Việt Nam khắc phục những nhược điểm, hạn chế vốn có do hoàn cảnh lịch sử và nguồn gốc xã hội sinh ra (tâm lý tiểu nông, lối sống nông dân, thói quen, tập quán lạc hậu từ truyền thống xã hội nông nghiệp cổ truyền thâm nhập vào công nhân).

    Thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân trên lĩnh vực kinh tế gắn liền với việc phát huy vai trò của giai cấp công nhân, của công nghiệp, thực hiện khối liên minh công -nông -trí thức để tạo ra những động lực phát triển nông nghiệp -nông thôn và nông dân ở nước ta theo hướng phát triển bền vững, hiện đại hóa, chủ động hội nhập quốc tế, nhất là hội nhập kinh tế quốc tế, bảo vệ tài nguyên và môi trường sinh thái. Như vậy, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa là một quá trình tạo ra sự phát triển và trưởng thành không chỉ đối với giai cấp công nhân mà còn đối với giai cấp nông dân, tạo ra nội dung mới, hình thức mới để nâng cao chất lượng, hiệu quả khối liên minh công -nông -trí thức ở nước ta.

    Về chính trị – xã hội:

    Cùng với nhiệm vụ giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng thì nhiệm vụ “Giữ vững bản chất giai cấp công nhân của Đảng, vai trò tiên phong, gương mẫu của cán bộ đảng viên” và “tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ” là những nội dung chính yếu, nổi bật, thể hiện sứ mệnh lịch sử giai cấp công nhân về phương diện chính trị -xã hội. Thực hiện trọng trách đó, đội ngũ cán bộ đảng viên trong giai cấp công nhân phải nêu cao trách nhiệm tiên phong, đi đầu, góp phần củng cố và phát triển cơ sở chính trị -xã hội quan trọng của Đảng đồng thời giai cấp công nhân (thông qua hệ thống tổ chức công đoàn) chủ động, tích cực tham gia xây dựng, chỉnh đốn Đảng, làm cho Đảng thực sự trong sạch vững mạnh, bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa để bảo vệ nhân dân -đó là trọng trách lịch sử thuộc về sứ mệnh của giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay.

    Về văn hóa tư tưởng:

    Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc có nội dung cốt lõi là xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa, giáo dục đạo đức cách mạng, rèn luyện lối sống, tác phong công nghiệp, văn minh, hiện đại, xây dựng hệ giá trị văn hóa và con người Việt Nam, hoàn thiện nhân cách. Đây là nội dung trực tiếp về văn hóa tư tưởng thể hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, trước hết là trọng trách lãnh đạo của Đảng. Giai cấp công nhân còn tham gia vào cuộc đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng lý luận để bảo vệ sự trong sáng của chủ nghĩa Mác -Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, đó là nền tảng tư tưởng của Đảng, chống lại những quan điểm sai trái, những sự xuyên tạc của các thế lực thù địch, kiên định lý tưởng, mục tiêu và con đường cách mạng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Muốn thực hiện được sứ mệnh lịch sử này, giai cấp công nhân Việt Nam phải thường xuyên giáo dục cho các thế hệ công nhân và lao động trẻ ở nước ta về ý thức giai cấp, bản lĩnh chính trị, chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế, củng cố mối liên hệ mật thiết giữa giai cấp công nhân với dân tộc, đoàn kết giai cấp gắn liền với đoàn kết dân tộc và đoàn kết quốc tế. Đó là sự kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong thời đại Hồ Chí Minh.

    3. Phướng hướng và giải pháp để xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam ngày nay

    3.1. Phương hướng

    Đại hội lần thứ X của Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định phương hướng xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa là: “Đối với giai cấp công nhân, phát triển về số lượng, chất lượng và tổ chức; nâng cao giác ngộ và bản lĩnh chính trị, trình độ học vấn nghề nghiệp, xứng đáng là là lực lượng đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Giải quyết việc làm, giảm tối đa số công nhân thiếu việc làm và thất nghiệp. Thực hiện tốt chính sách và pháp luật đối với công nhân và lao động, như Luật Lao động, Luật Công đoàn, chính sách tiền lương, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hộ lao động, chăm sóc, phục hồi sức khỏe đối với công nhân; có chính sách ưu đãi nhà ở đối với công nhân bậc cao. Xây dựng tổ chức, phát triển đoàn viên công đoàn, nghiệp đoàn đều khắp ở các cơ sở sản xuất kinh doanh thuộc các thành phần kinh tế…Chăm lo đào tạo cán bộ và kết nạp đảng viên từ những công nhân ưu tú”.

    Tại Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương khóa X, Đảng ta đề ra nghị quyết về “Tiếp tục xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”, trong đó nhấn mạnh: “Xây dựng giai cấp công nhân lớn mạnh, có giác ngộ giai cấp và bản lĩnh chính trị vững vàng; có ý thức công dân, yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, tiêu biểu cho tinh hoa văn hóa dân tộc; nhạy bén và vững vàng trước những diễn biến phức tạp của tình hình thế giới và những biến đổi của tình hình trong nước; có tinh thần đoàn kết dân tộc, đoàn kết, hợp tác quốc tế; thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp lãnh đạo cách mạng thông qua đội tiền phong là Đảng Cộng sản Việt Nam… Xây dựng giai cấp công nhân lớn mạnh, phát triển nhanh về số lượng, nâng cao chất lượng, có cơ cấu đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước; ngày càng được tri thửc hóa: có trình độ học vấn, chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp cao, có khả năng tiếp cận và làm chủ khoa học -công nghệ tiên tiến, hiện đại trong điều kiện phát triển kinh tế tri thức; thích ứng nhanh với cơ chế thị trường và hội nhập quốc tế;… có tác phong công nghiệp và kỷ luật cao”.

    Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng khẳng định: “Coi trọng giữ vững bản chất giai cấp công nhân và các nguyên tắc sinh hoạt của Đảng”. Đồng thời, “Chú trọng xây dựng, phát huy vai trò của giai cấp công nhân, giai cấp nông dân, đội ngũ trí thức, đội ngũ doanh nhân đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong thời kỳ mới”. Vì vậy, Đảng và Nhà nước phải “quan tâm giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng, phát triển giai cấp công nhân cả về số lượng và chất lượng; nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ học vấn, chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp, tác phong công nghiệp, kỷ luật lao động của công nhân; đảm bảo việc làm, nhà ở, các công trình phúc lợi phục vụ cho công nhân; sửa đổi, bổ sung các chính sách, pháp luật về tiền lương, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp,… để bảo vệ quyền lợi, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của công nhân”.

  • 3. 2. Một số giải pháp
  • Từ thực trạng trên, để thực hiện thắng lợi mục tiêu đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại, xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam trong thời kỳ mới cần thực hiện một số giải pháp chủ yếu sau:

    Một là, nâng cao nhận thức, kiên định quan điểm giai cấp công nhân là giai cấp lãnh đạo cách mạng thông qua đội tiền phong là Đảng Cộng sản Việt Nam. Sự lớn mạnh của giai cấp công nhân là một điều kiện tiên quyết bảo đảm thành công của công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

    Hai là, xây dựng giai cấp công nhân lớn mạnh gắn với xây dựng và phát huy sức mạnh của liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và độ ngũ trí thức và doanh nhân, dưới sự lãnh đạo của Đảng. Phát huy vai trò giai cấp công nhân trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc – động lực chủ yếu của sự phát triển đất nước; đồng thời tăng cường quan hệ đoàn kết, hợp tác quốc tế với giai cấp công nhân trên toàn thế giới.

    Ba là, thực hiện chiến lược xây dựng giai cấp công nhân lớn mạnh, gắn kết chặt chẽ với chiến lược phát triển kinh tế -xã hội, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hội nhập quốc tế. Xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội về chăm lo xây dựng giai cấp công nhân; đảm bảo hài hòa lợi ích giữa công nhân, người sử dụng lao động, Nhà nước và toàn xã hội; không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của công nhân, quan tâm giải quyết kịp thời những vấn đề bức xúc, cấp bách của giai cấp công nhân.

    Bốn là, đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ mọi mặt cho công nhân, không ngừng tri thức hóa giai cấp công nhân. Đặc biệt, quan tâm xây dựng thế hệ công nhân trẻ, có học vấn, chuyên môn và kỹ năng nghề nghiệp cao, ngang tầm khu vực và quốc tế, có lập trường giai cấp và bản lĩnh chính trị vững vàng, trở thành bộ phận nòng cốt của giai cấp công nhân.

    Năm là, xây dựng giai cấp công nhân lớn mạnh là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, của toàn xã hội và sự nỗ lực vươn lên của bản thân mỗi người công nhân, sự tham gia đóng góp tích cực của người sử dụng lao động. Sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước có vai trò quyết định, công đoàn có vai trò quan trọng trực tiếp trong chăm lo xây dựng giai cấp công nhân. Xây dựng giai cấp công nhân lớn mạnh gắn liền với xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức về đạo đức, xây dựng tổ chức Công đoàn, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh và các tổ chức chính trị -xã hội khác trong giai cấp công nhân.

    Thực tế trong thời kì dịch bệnh Covid – 19 vừa qua, Đảng và Nhà nước đã áp dụng tốt các giải pháp nhằm ổn định đời sống cho người dân lao động, đảm bảo được hài hòa giữa người lao động và người sử dụng lao động. Sự phối kết hợp giữa sự lãnh đạo của Đảng và các tổ chức công đoàn, các tổ chức xã hội đã phát huy hiệu quả, dù dịch Covid-19 diễn biến phức tạp nhưng không vì thế mà sản xuất bị đình trệ, đời sống và việc làm của người lao động được tạo điều kiện để phát triển hết sức có thể. Đúng với phương châm hành động “Không để ai bị bỏ lại phía sau”, Nhà nước đã có chính sách quan tâm, chăm lo cho đời sống của mọi người dân, giải quyết kịp thời những vấn đề của giai cấp công nhân. Không những thế, người lao động và người sử dụng lao động cũng tham gia đóng góp vào việc xây dựng giai cấp công nhân bằng nhiều hình thức như: thực hiện sản xuất tại chỗ “ Ba tại chỗ”, “Một cung đường hai điểm đến”…, không dừng dây chuyền sản xuất để đảm bảo sản xuất kịp thời, đáp ứng nhu cầu của thị trường,…

    KẾT LUẬN

    Trong điều kiện hiện nay, việc làm rõ điểm tương đồng của giai cấp công nhân hiện nay với giai cấp công nhân ở thế kỉ XIX có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Từ việc phát hiện những điểm tương đồng để đối chiếu, phân tích, soi xét vào thực tế Việt Nam hiện nay nhằm thực hiện tốt sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Qua đó hiểu thêm về giai cấp công nhân và sứ mệnh lịch sử của họ, giúp hoàn thiện nhận thức về các giai cấp khác nói chung cũng như giai cấp công nhân nói riêng. Bên cạnh những điểm tương đồng so với thế kỉ XIX thì giai cấp công nhân hiện nay vẫn có nhiều nét mới, phù hợp với tình hình xã hội, quốc gia và thế giới, nhất là trong bối cảnh công nghiệp hóa – hiện đại hóa. Từ đó, mỗi cá nhân nhất là thế hệ trẻ phả không ngừng rèn luyện, nâng cao nhận thức, giúp cho giai cấp công nhân trở thành giai cấp nòng cốt cho sự phát triển của xã hội. Không những thế, đề cao sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân trong bối cảnh hiện nay là một nội dung cần thiết đối với giai cấp công nhân, điều này cần được sự quan tâm của toàn xã hội, nhất là Đảng Cộng sản chú trọng để hoàn thành một cách tốt nhất.

    TÀI LIỆU THAM KHẢO

  • 1. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Giáo trình chủ nghĩa xã hội khoa học( Dành cho bậc đại học hệ không chuyên lý luận chính trị), Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội. 2021.
  • 2. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Giáo trình chủ nghĩa xã hội khoa học( Dành cho bậc đại học-chuyên lý luận chính trị), Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật , Hà Nội. 2019.
  • 3. Học viện Chính Trị quốc gia Hồ Chí Minh. Những vấn đề cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb. Lý luận Chính trị, Hà Nội, 2017.
  • 4.

    https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/dau-tranh-phan-bac-cac-luan-dieu-

    sai-trai-thu-dich/chi-tiet/-/asset_publisher/YqSB2JpnYto9/content/hoc-thuyet-

    gia-tri-thang-du-van-con-nguyen-gia-tri-trong-boi-canh-moi

    Hoàng Ngọc Hải and Hồ Thanh Thủy, Học thuyết giá trị thặng dư vẫn còn nguyên giá trị trong bối cảnh mới, . 2020.

  • 5.

    http://tapchiqptd.vn/vi/ky-

    niem-150-nam-ngay-sinh-vi-lenin/mai-vung-tin-vao-con-duong-di-len-chu-

    nghia-xa-hoi-cua-dat-nuoc/15368.html

    Thượng tá Nguyễn Công Khương and Thiếu tá Thái Đình Dân, Mãi vững tin vào con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của đất nước, . 2020.

  • 6.

    https://hcma2.hcma.vn/tintuc/Pages/tin-tuc-su-kien.aspx?

    ItemID=11413

    Minh Trí, . 2021.

  • 7.

    https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/ho-

    so-su-kien-nhan-chung/su-kien-va-nhan-chung/phong-trao-cong-san-va-cong-

    nhan-quoc-te-1917-1995-3336

    Theo “Lịch sử thế giới hiện đại”, Phong trào cộng sản và công nhân quốc tế (1917 – 1995), Nxb. Giáo dục, 2009, , 2018.