THUYẾT TRÌNH KHOA HỌC – Phương pháp luận nghiên cứu khoa học – 123docz.net

Người nghiên cứu nào cũng phải thuyết trình các công trình nghiên cứu của
mình. Nhiều người cho rằng, có những diễn giả có “khoa nói” luôn gây được hấp dẫn
trong nội dung trình bày, còn những người khác thì không. Tuy nhiên, thực tế cho
thấy, kỹ năng thuyết trình có thể luyện tập. Sau đây là một số kỹ năng thuyết trình.

Thật vậy, ngôn ngữ nói có cấu trúc logic gồm 4 bộ phận hợp thành như chỉ trong
Bảng 5

Bảng 5. Cấu trúc của một thuyết trình khoa học

TT CẤU TRÚC THUYẾT TRÌNH TRẢ LỜI CÂU HỎI

1 VẤN ĐỀ thuyết trình Đưa luận điểm gì đây?

2 LUẬN ĐIỂM của bản thuyết trình Chứng minh luận điểm nào?

4 PHƯƠNG PHÁP thuyết trình Chứng minh bằng cách nào?

1. Vấn đề thuyết trình

Đó là câu hỏi đặt ra cho mỗi bản thuyết trình. Mỗi khi chuẩn bị thuyết trình,
người nghiên cứu phải tự trả lời cho mình câu hỏi: “Tác giả định đưa luận điểm nào ra
trước đồng nghiệp (hoặc hội đồng)?”, chẳng hạn, “Trẻ hư tại ai?”.

Trước khi thuyết trình, người nghiên cứu luôn phải biết nêu câu hỏi cho mình.
Nêu câu hỏi, chứ không chỉ dừng lại ở việc nêu chủ đề.

Nhiều bạn đồng nghiệp thường bị lẫn 2 khái niệm “Chủ đề” (Subject) với “Vấn
đề” (Problem). Chủ đề được trình bày dưới hình thức một mệnh đề khuyết, còn vấn
đề phải được trình bày dưới dạng một câu nghi vấn. Ví dụ, trong trường hợp này, chủ
đề là “Nguyên nhân trẻ hư”, Còn vấn đề là “Trẻ hư tại ai?”

Nêu được vấn đề, tức câu hỏi sẽ giúp cho bản thuyết trình có nội dung phong
phú và làm xuất hiện rất nhiều ý tưởng hay cho bản thuyết trình.

2. Luận điểm thuyết trình

Mỗi bản thuyết trình phải có ít nhất 1 luận điểm khoa học của tác giả. Người
thuyết trình luôn phải lưu ý rằng, mỗi bản thuyết trình phải trả lời được câu hỏi: “Tác
giả định chứng minh điều gì đây?”, chẳng hạn, để trả lời câu hỏi đã nêu, tác giả đưa
luận điểm: “Trẻ hư tại cha, chứ không phải tại mẹ”

Đã là “Luận điểm” thì phải rõ ràng, không chung chung. Các bạn đồng nghiệp
lưu ý rằng, mỗi luận điểm chỉ nêu được một góc cạnh của tư duy khoa học. Luận
điểm nêu lên mối liên hệ chủ yếu. Chẳng hạn, “Trẻ hiện nay hư tại bố là chính, chứ
không phải trẻ hư chỉ là tại mẹ”, hoặc, “Trẻ nghiện rượu là tại bố, trẻ lười lao động là
tại mẹ”. Khi trình bày luận điểm, không nên nói: “Trẻ hư một mặt thì tại cha, một mặt
thì tại mẹ”. Nói như vậy, trong nghiên cứu rốt cuộc chẳng thấy được nguyên nhân cụ
thể nào.

3. Luận cứ của thuyết trình

Nói luận cứ của thuyết trình là nói luận cứ để chứng minh luận điểm của bản
thuyết trình. Luận cứ trả lời câu hỏi: “Chứng minh bằng cái gì?”

Bản thuyết trình phong phú nhờ luận cứ. Người nghiên cứu càng đưa được nhiều
luận cứ, thì luận điểm càng có sức thuyết phục. Với mỗi đối tượng nghe thuyết trình,
người thuyết trình phải đưa ra những luận cứ khác nhau.

Bài giảng thiếu luận cứ là một bài giảng nghèo nàn. Bài giảng chỉ lặp đi lặp lại
một vài luận cứ là một bài giảng buồn tẻ. Khi đưa một luận điểm để bảo vệ trước một
hội đồng hoặc một đối tác, người thuyết trình phải chuẩn bị rất nhiều luận cứ từ các
góc cạnh khác nhau. Những luận cứ mạnh phải “để dành” đến cuối bản thuyết trình,
đề phòng lúc những người đối thoại “tấn công”.

4. Phương pháp thuyết trình

Có 3 phương pháp thuyết trình: diễn dịch, quy nạp, loại suy.

Diễn dịch là phép suy luận đi từ cái chung đến cái riêng. Trong phương pháp
diễn dịch, người thuyết trình đi từ lý thuyết đến thực tiễn. Người đối thoại là trí thức
rất thích nghe lập luận diễn dịch.

Quy nạp là phép suy luận đi từ cái riêng đến cái chung. Trong phương pháp quy
nạp, người thuyết trình đi từ các sự kiện thực tế để khái quát hóa thành lý thuyết. Đối
với nhóm có trình độ học vấn thấp, phương pháp lập luận quy nạp tỏ ra hiệu quả hơn.

Loại suy là phép suy luận đi từ cái riêng đến cái riêng. Trong phương pháp loại
suy, người thuyết trình đi từ những câu chuyện đơn giản tưởng như chẳng có liên
quan gì đến chủ đề thuyết trình để giải thích những luận điểm rất trừu tượng về mặt
lý thuyết. Đối với những chủ đề khó, người thuyết trình cần ưu tiên sử dụng phương
pháp loại suy.