Nâng cao chất lượng luận văn khoa học – kết quả của quá trình đào tạo sau đại học – Tạp chí Kiến Trúc

Luận văn (LV), Luận án (LA), gọi chung là Luận văn khoa học (LVKH), dù thuộc bậc đào tạo nào, cao học hay nghiên cứu sinh, cũng cần được xem là một công trình khoa học.

LVKH vừa mang tính chất một công trình nghiên cứu khoa học (NCKH), nhưng lại vừa nhằm mục đích học tập phương pháp NCKH. Nó vừa phải thể hiện những ý tưởng khoa học của tác giả, vừa phải thể hiện kết quả của quá trình tập sự nghiên cứu trước khi bước vào sự nghiệp làm khoa học thực thụ.

Với ý nghĩa như vậy, người viết LVKH cần chuẩn bị không những chỉ nội dung KH, mà qua đó còn phải thể hiện biết vận dụng những kiến thức về phương pháp luận NCKH.

LVKH là chuyên khảo trình bày có hệ thống về một vấn đề khoa học hoặc công nghệ nhằm các mục đích:

– Rèn luyện về phương pháp và kỹ năng NCKH;
– Thể nghiệm kết quả nâng cao kiến thức của một giai đoạn học tập;
– Bảo vệ kết quả nghiên cứu của mình trước hội đồng chấm LV.

Như vậy, có thể nói LVKH là một công trình tập sự NCKH, và qua đó tác giả LV được ghi nhận đạt tới một trình độ học vấn và phương pháp làm việc khoa học cao hơn.

Bản chất NCKH và phương pháp luận NCKH của một LVKH

Trước khi viết một LVKH, nghiên cứu sinh hoặc học viên cao học cần phải có những kiến thức cần thiết về bản chất của NCKH và phương pháp luận NCKH.

Bản chất của NCKH là hoạt động sáng tạo của các nhà khoa học nhằm nhận thức thế giới, khám phá thế giới, tạo ra hệ thống tri thức có giá trị để sử dụng vào cải tạo thế giới.

Mục đích của NCKH là tìm tòi, khám phá bản chất và các quy luật vận động của thế giới, tạo ra thông tin mới, nhằm ứng dụng chúng vào sản xuất vật chất hay tạo ra những giá trị tinh thần, để thỏa mãn nhu cầu cuộc sống của con người. NCKH không chỉ là nhận thức thế giới mà còn cải tạo thế giới. Khoa học đích thực luôn vì cuộc sống của con người.

Sản phẩm của NCKH là hệ thống thông tin mới về thế giới và về những giải pháp cải tạo thế giới. Cho nên, có thể nói, khoa học luôn hướng tới cái mới. Nhiều ý tưởng khoa học độc đáo đi trước thời đại và có giá trị dẫn dắt sự phát triển.

Sản phẩm khoa học luôn được kế thừa, bổ sung, hoàn thiện theo đà tiến bộ của xã hội loài người và ngày một tiệm cận tới chân lý khách quan. Mỗi lý thuyết khoa học được hình thành, phát triển hưng thịnh, rồi lạc hậu, nhường chỗ cho cái mới, cái tiến bộ, cái có triển vọng hơn.

Giá trị của khoa học được quyết định bởi tính thông tin, tính ứng dụng và sự đáp ứng nhu cầu của cuộc sống. Thông tin khoa học phải có tính khách quan, có độ tin cậy, có thể kiểm tra được bằng các phương pháp khác nhau.

Quá trình NCKH diễn ra phức tạp, luôn chứa đựng những mâu thuẫn, liên tục xuất hiện những xu hướng, các trường phái lý thuyết, các giả thuyết, các dự báo khác nhau, thậm chí trái ngược nhau và kết cục cái nào phù hợp với quy luật, với hiện thực, đem lại lợi ích cho con người là cái chiến thắng.

Phương pháp luận NCKH là lý thuyết về phương pháp nghiên cứu khoa học, lý thuyết về con đường nhận thức, khám phá, cải tạo thế giới.

Phương pháp luận NCKH đặt ra những nhiệm vụ quan trọng:

– Nghiên cứu làm sáng tỏ bản chất của khoa học và hoạt động NCKH, tổng kết các quy luật phát triển của khoa học hiện đại;
– Nghiên cứu làm sáng tỏ cơ chế tư duy sáng tạo trong nhận thức của nhà khoa học và các kỹ năng thực hành sáng tạo của họ;
– Nghiên cứu những quan điểm, những cách tiếp cận đối tượng nhận thức, đồng thời xây dựng hệ thống lý thuyết về phương pháp NCKH với nội dung là các quy trình, cách thức và kỹ thuật nghiên cứu cụ thể.

Phương pháp NCKH là phạm trù trung tâm của phương pháp luận NCKH. Phương pháp không chỉ là vấn đề lý luận mà còn là vấn đề có ý nghĩa thực tiễn, bởi vì chính phương pháp góp phần quyết định thành công của mọi quá trình NCKH.

Bản chất của phương pháp NCKH chính là việc con người sử dụng một cách có ý thức các quy luật vận động của đối tượng như một phương tiện để khám phá chính đối tượng đó. Phương pháp nghiên cứu là con đường dẫn nhà khoa học đạt tới mục đích sáng tạo. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của phương pháp thể hiện ở chỗ:

– Phương pháp luôn gắn với chủ thể nghiên cứu (yếu tố chủ quan) và đối tượng nghiên cứu (yếu tố khách quan);
– Phương pháp có tính mục đích vì mọi hoạt động của con người đều có mục đích. Mục đích nghiên cứu chỉ đạo việc tìm tòi và lựa chọn phương pháp nghiên cứu;
– Phương pháp nghiên cứu gắn chặt với nội dung nghiên cứu. Phương pháp là hình thức vận động của nội dung. Nội dung nghiên cứu quy định phương pháp nghiên cứu. Trong mỗi đề tài khoa học có một phương pháp cụ thể, trong mỗi ngành khoa học có một hệ phương pháp đặc trưng;
– Phương pháp nghiên cứu có cấu trúc đặc biệt, đó là một hệ thống các thao tác được sắp xếp theo một chương trình tối ưu. Sự thành công nhanh hay không của một hoạt động nghiên cứu chính là phát hiện được hay không logic tối ưu của các thao tác hoạt động và biết sử dụng nó một cách có ý thức;
– Phương pháp NCKH luôn cần có các công cụ hỗ trợ, cần có các phương tiện kỹ thuật hiện đại với độ chính xác cao. Căn cứ vào đối tượng NC mà ta chọn phương pháp NC, theo yêu cầu của phương pháp NC mà ta chọn các phương tiện phù hợp.

Phương pháp luận NCKH khẳng định phương pháp NCKH không những nằm trong logic nhận thức mà còn thể hiện trong cấu trúc nội dung một công trình khoa học.

Cho nên, phương pháp NCKH một mặt xác định các bước đi trong tiến trình nghiên cứu một đề tài KH, mặt khác còn phải xác định được cấu trúc logic nội dung của công trình khoa học đó.

Ngoài ra, phương pháp luận NCKH cũng chú ý đến phương pháp tổ chức, quản lý hoạt động NCKH và công nghệ, coi đó là một khâu ứng dụng các thành tựu khoa học nhằm nâng cao tiềm lực khoa học và tổ chức quá trình NCKH đạt hiệu quả cao.

Tóm lại, phương pháp luận NCKH là hệ thống lý thuyết về phương pháp nhận thức khoa học, bao gồm các lý thuyết về cơ chế sáng tạo, những quan điểm tiếp cận đối tượng khoa học, cùng với hệ thống lý thuyết về phương pháp, kỹ thuật và logic tiến hành nghiên cứu một công trình khoa học, cũng như phương pháp tổ chức, quản lý quá trình ấy.

Cấu trúc logic của một công trình NCKH (LVKH)

Bất kỳ một công trình khoa học nào, từ bài báo ngắn vài trang đến tác phẩm khoa học hàng trăm trang, xét về cấu trúc logic, cũng đều có 3 bộ phận hợp thành: Luận đề, Luận cứ, Luận chứng.

Toàn bộ nội dung về phương pháp luận khoa học xoay quanh việc tìm kiếm phương pháp, tức luận chứng, liên quan đến việc thu thập và xử lý thông tin để xây dựng luận cứ, thu thập luận cứ để chứng minh luận đề.

– Luận đề: Là điều cần chứng minh trong một công trình khoa học. Luận đề trả lời câu hỏi: “Cần chứng minh điều gì?”. Về mặt logic học, luận đề là một phán đoán mà tính chân xác của nó cần được chứng minh.
– Luận cứ: Là bằng chứng được đưa ra để chứng minh luận đề. Luận cứ được xây dựng từ những thông tin thu thập được nhờ phân tích và xử lý các tài liệu, quan sát hoặc thực nghiệm. Luận cứ trả lời câu hỏi: “Chứng minh bằng cái gì?” Về mặt logic, luận cứ là phán đoán mà tính chính xác đã được công nhận và được sử dụng làm tiền đề để chứng minh luận đề. Trong NCKH có 2 loại luận cứ:
• Luận cứ lý thuyết: Đó là các cơ sở lý thuyết khoa học, luận điểm khoa học, các tiền đề, định lý, định luật, quy luật đã được khoa học xác nhận là đúng. Có người gọi luận cứ lý thuyết là luận cứ logic hoặc cơ sở khoa học. Trả lời câu hỏi: “Dựa trên những cơ sở khoa học nào?”
• Luận cứ thực tiễn: Đó là các đòi hỏi xuất phát từ thực tiễn cuộc sống, với những phán đoán đã được xác nhận, được hình thành từ sự phân tích, đánh giá các tư liệu, số liệu, sự kiện, hiện tượng thu thập được do quan sát thực tế hoặc thực nghiệm khoa học. Trả lời câu hỏi: “Thực tiễn có đòi hỏi cần nghiên cứu không?”
– Luận chứng: Là cách thức, quy tắc, phương pháp tổ chức thực hiện một phép chứng minh, nhằm vạch rõ mối liên hệ logic giữa các luận cứ và giữa toàn bộ luận cứ với luận đề. Luận chứng trả lời câu hỏi: “Chứng minh bằng cách nào?” Trong NCKH có thể tồn tại 2 luận chứng:
• Luận chứng logic, bao gồm một chuỗi liên tiếp các phép suy luận được liên kết theo một trật tự xác định (diễn dịch, quy nạp, loại suy).
• Luận chứng ngoài logic, bao gồm phương pháp tiếp cận và phương pháp thu thập thông tin.
Phương pháp tiếp cận là cách thức xem xét sự kiện. Tùy thuộc phương pháp tiếp cận được chọn mà sự kiện có thể được xem xét một cách toàn diện hoặc phiến diện. Chẳng hạn, tiếp cận lịch sử, tiếp cận logic, tiếp cận hệ thống,…

Phương pháp thu thập thông tin là cách thức thiết lập luận cứ khoa học, phương pháp thu thập thông tin có vai trò quyết định đến độ tin cậy của luận cứ. Chẳng hạn, số liệu thống kê của cơ quan thống kê có độ tin cậy cao hơn số liệu báo cáo thành tích của các ngành; dư luận ngẫu nhiên trên đường phố có độ tin cậy thấp hơn kết quả thăm dò dư luận thông qua một cuộc điều tra.

Lựa chọn đề tài LVKH

Người nghiên cứu có thể chọn đề tài nghiên cứu cho luận văn theo 2 cách:

– Đề tài LV được chỉ định:

Người hướng dẫn hoặc bộ môn có thể chỉ định cho người nghiên cứu thực hiện một đề tài LV xuất phát từ những căn cứ rất khác nhau:
• Một phần nhiệm vụ của đề tài NCKH mà thầy cô giáo hoặc bộ môn đang thực hiện. Đây là trường hợp có nhiều thuận lợi nhưng không nhiều.
• Một phần nhiệm vụ của đề tài NC của các viện hoặc cơ quan ngoài. Đây cũng là trường hợp có nhiều thuận lợi nhưng không nhiều.
• Người nghiên cứu được cơ quan cử đi học chỉ định thực hiện một nhiệm vụ nghiên cứu của cơ quan.
• Thầy cô giáo đưa ra một đề tài NC mang tính giả định, không liên quan đến nhiệm vụ NC của các thầy cô.

– Đề tài LV tự chọn:

Trong trường hợp được tự chọn đề tài LV, người nghiên cứu cần tìm hiểu tình hình và yêu cầu phát triển của lĩnh vực chuyên môn trong thực tế để xác định một hướng nghiên cứu thích hợp, trên cơ sở trả lời các câu hỏi:
• Đề tài có ý nghĩa khoa học hay không?
• Đề tài có ý nghĩa thực tiễn hay không?
• Đề tài có cấp thiết phải nghiên cứu hay không?
• Có đủ điều kiện đảm bảo cho việc hoàn thành LV không?
Đề tài LV dù có nhiều ý nghĩa khoa học, thực tiễn, cấp thiết nhưng nếu không có đủ điều kiện cần thiết (nguồn cung cấp thông tin, tư liệu, tài liệu, quỹ thời gian,thiên hướng khoa học của người hướng dẫn,…) thì cũng khó thực hiện.

– Đặt tên đề tài NC:

Tên đề tài NC phải phản ánh một cách chính xác đối tượng nghiên cứu, khách thể nghiên cứu,có hàm chứa nội dung và phạm vi nghiên cứu.
Tên một đề tài NCKH khác với tên một bài báo KH, một chuyên đề KH, một tiểu luận hay một báo cáo tổng quan. Tên một đề tài KH chỉ được mang một ý nghĩa hết sức rõ ràng, không được phép hiểu hai hoặc nhiều nghĩa.
Để đạt được yêu cầu này, người nghiên cứu cần lưu ý những hiện tượng cần tránh khi đặt tên đề tài:
• Tên đề tài không ghi rõ hoặc làm rõ đối tượng NC, khách thể NC.
• Tên đề tài dùng những cụm từ có độ bất định cao về thông tin. Ví dụ: “Tìm hiểu về”…, “Suy nghĩ về”…, “Thử bàn về”…, “Nhận dạng về”…, “Một số biện pháp”…, “Một số vấn đề”…
• Tên đề tài lạm dụng những cụm từ chỉ mục đích. Ví dụ: để…, nhằm góp phần…,
Việc sử dụng tùy tiện các cụm từ này thường xảy ra trong những trường hợp tác giả chưa hiểu và chưa nắm chắc đối tượng NC cũng như nội dung NC cần giải quyết.

Đề cương nghiên cứu của LVKH

Khi bắt tay vào nghiên cứu một đề tài KH thì một thao tác rất quan trọng là phải xây dựng một đề cương ngiên cứu. Đề cương NC là văn bản dự kiến các bước đi và nội dung của công trình NC.

Đối với LV Thạc sĩ hay LA Tiến sĩ thì đề cương NC thường bao gồm những nội dung chủ yếu sau:

Tên đề tài: Thường được diễn đạt bằng một câu ngữ pháp ngắn gọn, cô đọng, bao quát được đối tượng NC, khách thể NC có hàm chứa nội dụng và phạm vi nghiên cứu.

1) Lý do chọn đề tài (hay tính cấp thiết của đề tài)

Phần này yêu cầu người nghiên cứu phải trình bày rõ ràng, tường minh những lý do nào khiến tác giả chọn đề tài để nghiên cứu. Trả lời câu hỏi: Tại sao cần nghiên cứu? và “Nghiên cứu để làm gì?”. Phải làm rõ sự nghiên cứu này là cần thiết về mặt lý luận và là một đòi hỏi của thực tiễn cuộc sống. Nói chung, lý do chọn đề tài các LV, LA thường xuất phát từ những yêu cầu của thực tế công tác mà người nghiên cứu đảm nhiệm, từ việc phát hiện các thiếu sót trong nghiên cứu lý thuyết chuyên ngành cần bổ xung hoặc những vấn đề tồn tại cần giải quyết trong thực tế cuộc sống.

Việc nghiên cứu này sẽ đem lại lợi ích cho hiện tại và tương lai của khoa học và thực tiễn cuộc sống.

2) Mục tiêu NC và mục đích NC

Mục tiêu và mục đích NC là những khái niệm then chốt trong NCKH.

Mục tiêu NC là cái đích về nội dung mà người nghiên cứu vạch ra để định hướng nỗ lực tìm kiếm. Mục tiêu là những điều cần làm trong quá trình NC. Mục tiêu của một LV, LA thường là tìm tòi làm rõ bản chất của một sự kiện hay hiện tượng mới hoặc tìm những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng một hoạt động thực tế nào đó. Mục tiêu NC trả lời câu hỏi: Làm cái gì?”

Mỗi đề tài, tùy theo phạm vi NC, phải xác định rõ mục tiêu NC. Mục tiêu sẽ hướng dẫn các bước đi chiến lược của công trình để đạt tới mục đích cuối cùng.

Mục đích NC là ý nghĩa thực tiễn của NC, là đối tượng phục vụ của sản phẩm NC. Mục đích NC trả lời câu hỏi: Nhằm vào việc gì?”, hoặc “Để phục vụ cho cái gì?”.

3) Đối tượng NC, khách thể NC, đối tượng khảo sát

Đối tượng NC, khách thể NC, đối tượng khảo sát là những khái niệm công cụ luôn được sử dụng trong quá trình thực hiện một đề tài NCKH.

Đối tượng NC là bản chất sự vật hoặc hiện tượng cần được xem xét và làm rõ trong nhiệm vụ NC. Trả lời câu hỏi: “Nghiên cứu cái gì?”.

Khách thể NC là vật mang đối tượng NC, là hệ thống sự vật tồn tại khách quan trong các mối liên hệ mà người nghiên cứu cần khám phá. Khách thể NC chính là nơi chứa đựng những câu hỏi mà người nghiên cứu cần tìm hiểu, trả lời câu hỏi: “…ở đâu?…của cái gì?…gắn với cái gì?…

Đối tượng khảo sát là một bộ phận đủ đại diện của khách thể NC được người nghiên cứu lựa chọn để xem xét. Không bao giờ người nghiên cứu có đủ thời gian và kinh phí để khảo sát toàn bộ khách thể.

Thế giới khách quan là đối tượng duy nhất của NCKH. Tuy nhiên thế giới vô cùng rộng lớn, mỗi lĩnh vực KH phải chọn cho mình một bộ phận, một phần nào đó để tập trung khám phá, tìm tòi. Đó chính là thao tác xác định khách thể NC.

Trong cái khách thể rộng lớn đó, mỗi đề tài cụ thể lại phải chọn cho mình một bộ phận, một vấn đề, một thuộc tính, một mối quan hệ của khách thể để nghiên cứu. Bộ phận đó chính là đối tượng NC của đề tài.

Mỗi đề tài NC một vấn đề, cũng có nghĩa là mỗi đề tài có một đối tượng NC. Như vậy, xác định đối tượng NC là xác định cái trung tâm cần khám phá của một đề tài NCKH.

Khách thể đồng nghĩa với môi trường của đối tượng mà ta đang xem xét. Xác định đối tượng là xác định cái trung tâm, còn xác định khách thể là xác định cái giới hạn chứa đựng cái trung tâm, cái giới hạn mà đề tài không được phép vượt qua. Do đó xác định khách thể và đối tượng NC là thao tác bản chất của quá trình NCKH.

4) Giả thuyết KH

Giả thuyết KH là mô hình giả định, một dự đoán về bản chất của đối tượng NC. Một công trình KH về thực chất là chứng minh một giả thuyết KH. Do đó xây dựng giả thuyết là thao tác quan trọng của mỗi công trình KH. Giả thuyết có chức năng tiên đoán bản chất sự kiện hay hiện tượng, đồng thời là chức năng chỉ đường để khám phá đối tượng NC.

Giả thuyết được xây dựng phải báo đảm các yêu cầu sau:
• Giả thuyết phải có tính thông tin về sự kiện, nghĩa là có khả năng giải thích được sự kiện cần NC;
• Giả thuyết có thể kiểm chứng được bằng thực nghiệm.

5) Nhiệm vụ NC

Xuất phát từ mục tiêu và giả thuyết KH, mỗi đề tài phải xác định các nhiệm vụ NC cụ thể. Nhiệm vụ NC chính là mục tiêu cụ thể mà đề tài phải thực hiện . Một LV thạc sĩ hay LA tiến sĩ thường có 3 nhiệm vụ:
• Xây dựng cơ sở lý thuyết khoa học;
• Phân tích làm rõ bản chất và quy luật vận động của đối tượng NC;
• Đề xuất những giải pháp ứng dụng để cải tạo thực tiễn.

6) Phạm vi NC

Không phải đối tượng NC và khách thể NC nào cũng cần xem xét, nghiên cứu một cách toàn diện trong mọi thời gian và không gian, mà nó có thể được giới hạn nghiên cứu trong một phạm vi nhất định: Về quy mô của đối tượng, không gian của sự vật, thời gian của tiến trình của sự vật.
Xác định phạm vi NC của đề tài là thao tác logic xác định giới hạn về thời gian, không gian, những vấn đề, những số liệu cần điều tra, quan sát, nghiên cứu phát hiện,…Hay nói cách khác, phạm vi NC của đề tài là giới hạn mà đề tài phải thực hiện.

Xác định phạm vi NC của đề tài là thao tác quan trọng giúp cho việc nghiên cứu đi đúng trọng tâm, không lệch hướng.

7) Những luận điểm bảo vệ (luận đề)

Luận điểm bảo vệ là những luận đề quan trọng, những tư tưởng cốt lõi của đề tài. Nhờ có nó mà công trình KH có thể đứng vững và bảo vệ được.

Luận điểm bảo vệ được trình bầy khái quát, cô đọng, chứa đựng những thông tin quan trọng nhất của đề tài.

8) Cái mới của đề tài

Cái mới của một công trình NCKH là những thông tin KH mà tác giả của công trình là người đầu tiên tìm ra hoặc kiến tạo. Chúng có giá trị đối với lý luận và thực tiễn. Cái mới của đề tài có thể là phát hiện mới, góp phần bổ xung, phát triển, hoàn thiện, hệ thống hóa lý thuyết hiện có, hoặc có thể là đề xuất những giải pháp ứng dụng lý thuyết vào thực tiễn.

Mỗi đề tài phải có cái mới, đó chính là giá trị thực sự của công trình NCKH, là điều kiện để đề tài NC được bảo vệ thành công.

9) Cơ sở phương pháp luận và phương pháp NC

Đề tài KH được tiến hành NC phải dựa trên những quan điểm tư tưởng nhất quán. Nhờ có quan điểm nhất quán mà công trình có thể đi tới chân lý khách quan. Do đó người nghiên cứu phải trình bầy đầy đủ và rõ ràng phương pháp tiếp cận đối tượng NC và cơ sở phương pháp luận mà tác giả dựa vào để NC.

Để tiến hành NC một công trình KH, người nghiên cứu phải sử dụng phối hợp các phương pháp NC cụ thể. Các phương pháp được vận dụng hợp lý, phù hợp với đề tài NC sẽ bảo đảm cho công trình NC đạt tới kết quả.

Cho nên trong đề cương NC, người nghiên cứu phải trình bày các phương pháp dự kiến sử dụng, ý đồ và kỹ thuật sử dụng chúng.

Đọc cơ sở phương pháp luận và các phương pháp NC dự kiến sử dụng trong quá trình NC đề tài, người ta có thể đánh giá năng lực làm việc KH của người nghiên cứu và khả năng thành công của công trình NC.

10) Cơ cấu nội dung NC

Trong đề cương NC, yêu cầu phải trình bày một cấu trúc logich nội dung dự kiến phù hợp với phương pháp NC của LV/LA. Để làm việc này, người nghiên cứu phải nghiên cứu công phu nhiều tài liệu tham khảo và đồng thời phải có khả năng tưởng tượng, sáng tạo, dự kiến một mô hình cho báo cáo kết quả nghiên cứu sau này.

Một báo cáo kết quả NCKH thường có, ngoài phần mở đầu và kết luận, ít nhất 3 chương với cơ cấu nội dung được trình bầy cụ thể tới từng tiểu mục.

Đánh giá kết quả NC (Chất lượng KH của LV/LA)

Về nguyên tắc, bất kỳ công trình NCKH nào cũng được đánh giá theo các chỉ tiêu sau:

– Tính mới trong khoa học (Luận đề);
– Tính xác thực của các kết quả quan sát thực tiễn hoặc thực nghiệm;
– Tính chuẩn xác và tính hệ thống của các cơ sở lý thuyết KH (Luận cứ);
– Tính đúng đắn về phương pháp luận khoa học (Luận chứng);
– Khả năng ứng dụng vào thực tiễn.

Riêng chỉ tiêu thứ tư, trong đánh giá chất lượng các LV/LA có thể châm chước, không yêu cầu như đối với các đề tài NCKH thực tế, vì các LV/LA chỉ là các công trình tập sự NCKH với những đặc thù của yêu cầu đào tạo trong nhà trường.

Ngoài ra, việc đánh giá chất lượng khoa học của LV/LA theo 3 tiêu chí trên cũng có những điểm khác biệt so với việc đánh giá kết quả NC của một đề tài NCKH thực tế.
– Đối với Luận chứng: Tức là phương pháp nghiên cứu, chất lượng cần được đòi hỏi yêu cầu cao nhất trong 3 bộ phận hợp thành cấu trúc logic: Luận đề, luận cứ, luận chứng. Vì lẽ, trong quá trình tập sự NCKH, học tập phương pháp NC phải đạt được yêu cầu như một người nghiên cứu thực thụ. Nếu chấm điểm thì phần luận chứng có thể được nhân hệ số 3, hệ số cao nhất.
– Đối với Luận đề: Chất lượng cũng được đòi hỏi yêu cầu cao, nhưng nên ở mức thấp hơn luận chứng. Vì lẽ, phát hiện vấn đề, từ đó xây dựng luận đề có giá trị KH, là công việc đòi hỏi có một quá trình tích lũy lâu dài. Không thể yêu cầu người tập sự NC có ngay những luận đề KH (tức giả thuyết) có giá trị KH cao như những người NC thực thụ. Nếu chấm điểm thì phần luận đề có thể được nhân hệ số 2.
– Đối với Luận cứ: Cần xem xét tách riêng 2 loại luận cứ:
• Luận cứ lý thuyết: Cần đặt yêu cầu về chất lượng ngang với chất lượng luận đề, nghĩa là phải có giá trị khoa học, hoặc là kế thừa, hệ thống hóa những luận cứ lý thuyết mà các đồng nghiệp đi trước đã xây dựng, hoặc là tự mình xây dựng. Tuy nhiên, cũng như luận đề và vấn đề, không thể yêu cầu người tập sự NC đưa ra những luận cứ lý thuyết có giá trị khoa học cao như các nhà nghiên cứu thực thụ. Nếu chấm điểm có thể cho hệ số 2.
• Luận cứ thực tiễn: Đây là nội dung có thể châm chước về chất lượng, thậm chí có thể cho phép một số tư liệu, tài liệu không thực sự mới, tiêu biểu; số liệu có nhiều tính ước lệ, chưa được thẩm tra, xác minh tính chân xác. Nếu chấm điểm có thể cho hệ số 1.

Kết luận

Hàng năm, các trường Đại học có hệ đào tạo sau đại học chuyên ngành kiến trúc, quy hoạch cho tốt nghiệp hàng trăm học viên Cao học và Nghiên cứu sinh, với hàng trăm luận văn Thạc sĩ và Luận án Tiến sĩ.

Việc đào tạo sau đại học đến nay không còn là vấn đề mới, chất lượng các Thạc sĩ và Tiến sĩ tốt nghiệp nói chung đa số đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế-xã hội.

Tuy nhiên, trong xã hội, thậm chí ngay cả những người làm công tác đào tạo sau đại học, đôi khi cũng còn những băn khoăn, lo lắng về chất lượng đào tạo sau đại học, từ khâu tuyển sinh, học tập, giảng dạy, quản lý, đến khâu làm LV/LA tốt nghiệp và đánh giá tốt nghiệp.

Riêng khâu làm LV/LA và đánh giá LV/LA còn tồn tại một số quan niệm và cách làm không thống nhất, thậm chí trái ngược nhau, về cơ cấu nội dung, phương pháp nghiên cứu và hình thức trình bày. Nhưng tâm lý phổ biến của đa số những người tham gia hướng dẫn và đánh giá LV/LA là buông xuôi, tránh va chạm, không muốn tranh luận, làm rõ phải/trái trước những quan điểm và cách làm khác nhau, có thể do sự khác biệt về hiểu biết, trình độ kiến thức, kinh nghiệm, nguồn gốc đào tạo,… Nếu tình trạng này kéo dài, chỉ có hại cho người học và có hại cho xã hội.

Nên chăng, cần có những diễn đàn (trên các tạp chí khoa học) để trao đổi, một cách cởi mở, thẳng thắn, những suy nghĩ, những quan điểm về những vấn đề tồn tại, không thống nhất trong khâu hướng dẫn và đánh giá LV/LA để dần đi đến một sự thống nhất, một chuẩn mực tương đối, để góp phần nâng cao chất lượng đào tạo đội ngũ những người làm NCKH, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của xã hội.

Tài liệu tham khảo

– Ngô Thế Thi: Phương pháp luận NCKH – CN kiến trúc, Bài giảng cho Cao học Kiến trúc – ĐHXD.
– Vũ Cao Đàm: Phương pháp luận NCKH, Nhà XB Khoa học-Kỹ thuật, Hà Nội-1998.

GS.TSKH Ngô Thế Thi
(Bài đăng trên Tạp chí Kiến trúc số 7/2017)