Khoa học viễn tưởng là gì? Định nghĩa, đặc điểm, và ví dụ

Ngày: 28/03/2018 lúc 12:25PM

Khoa học viễn tưởng (science fiction/sci fi) là một đề tài rất nhiều người ưa thích. Hẳn bạn đã từng đọc một cuốn tiểu thuyết, xem một bộ phim với mác “khoa học viễn tưởng” hoặc “giả tưởng” rồi đúng không? Thế khoa học viễn tưởng là gì vậy? Cùng tìm hiểu nhé.

1) Định nghĩa khoa học viễn tưởng

Khoa học viễn tưởng là một chi của dòng “speculative fiction” (giả tưởng tự biện), bao gồm những tác phẩm văn học, phim, tranh ảnh,… chứa các mô típ giả tưởng dựa trên khoa học như công nghệ tương lai, du hành vũ trụ, du hành thời gian, các vũ trụ song song, người ngoài hành tinh,… Khoa học viễn tưởng thường đi vào khám phá những hệ luỵ, ảnh hưởng tiềm tàng của các phát kiến khoa học. Bởi vậy nó được gọi là “dòng văn của các ý tưởng.” Khoa học viễn tưởng rất ít khi chứa các yếu tố siêu nhiên, luôn phải phát triển dựa trên những kiến thức hoặc học thuyết khoa học đã được chấp nhận tại thời điểm tác phẩm ra đời.

2) Định nghĩa từ giới chuyên môn

Khoa học viễn tưởng khét tiếng là một đề tài khó định nghĩa bởi vì nó bao quát quá nhiều chủ đề và chi thể loại. Damon Knight, nhà văn viết truyện ngắn khoa học viễn tưởng nổi tiếng, đã hài hước đùa rằng, “Chỉ vào cái gì xong bảo nó là khoa học viễn tưởng thì nó trở thành khoa học viễn tưởng.” Nhà văn Mark C. Glassy cũng đồng tình với Knight, và ông đưa quan điểm rằng công việc định nghĩa khoa học viễn tưởng cũng như định nghĩa phim khiêu dâm: không ai nói được cụ thể nó là cái gì, nhưng cứ xem là nhận ra ngay.

Hugo Gernsback, một trong những người đầu tiên sử dụng thuật ngữ “khoa học viễn tưởng,” đã phát biểu rằng:

“Khi nói ‘khoa học viễn tưởng,’ tôi muốn nhắc đến các truyện mang phong cách Jules Verne, H. G. Wells và Edgar Allan Poe — một tác phẩm giả tưởng quyến rũ pha trộn với các kiến thức khoa học thực tế và tầm nhìn mang tính đoán định.”

Năm 1970 William Atheling Jr. đã viết một bài định nghĩa về thuật ngữ “khoa học viễn tưởng” là:

“Ban đầu Wells dùng từ này để tả những tác phẩm ngày nay ta gọi là khoa học viễn tưởng ‘cứng’ (‘hard’ science fiction), trong đó cố gắng bám sát những kiến thức đã biết (tại thời điểm sáng tác) trở thành nền tảng xây dựng câu chuyện, và nếu trong câu chuyện xuất hiện yếu tố phép màu, chí ít phép màu không xuất hiện quá nhiều.”

Theo lời cây bút khoa học viễn tưởng gạo cội Robert A. Heinlein, “Định nghĩa ngắn cho hầu hết các tác phẩm khoa học viễn tưởng chắc sẽ như sau: những phỏng đoán thực tiễn về các sự kiện có thể sẽ xảy ra trong tương lai, dựa trên cơ sở kiến thức thực tế trong quá khứ và cả hiện tại, và căn cứ vào sự nắm bắt kĩ lưỡng bản chất cũng như tầm quan trọng của phương pháp nghiên cứu khoa học.” Trong khi đó, định nghĩa của Rod Serling là, “Kỳ ảo (fantasy) là hợp lý hoá những điều không bao giờ khả thi. Khoa học viễn tưởng là khả thi hoá những điều khó xảy ra.” Lester del Rey cũng đã viết rằng, “Đến ngay cả những người tôn sùng nó nhất — nói cách khác là các fan — cũng ngắc ngứ khi phải giải thích về khoa học viễn tưởng,” và chính vì vậy mà tới nay không có một định nghĩa chính thức nào về khoa học viễn tưởng, đơn giản vì “khoa học viễn tưởng không có một ranh giới nhất định nào hết.”

Để tìm hiểu thêm về sự khác biệt giữa khoa học viễn tưởng và kỳ ảo, các bạn có thể đọc thêm bài viết phân tích đâu là khoa học viễn tưởng, đâu là kỳ ảo của bọn mình.

3) Đặc điểm của dòng khoa học viễn tưởng

Các tác phẩm khoa học viễn tưởng chủ yếu vận dụng lối viết lô-gic để mô tả các viễn cảnh tương lai hoặc các bối cảnh thế giới có thể xảy ra. Nghe thì có vẻ giống văn kỳ ảo (fantasy), nhưng khác biệt nằm ở chỗ các yếu tố giả tưởng ở trong truyện khoa học viễn tưởng hầu hết đều có thể trở thành hiện thực dựa trên căn cứ những định luật khoa học đã được chứng minh hoặc chân lý được công nhận (tất nhiên truyện vẫn có thể sử dụng các chi tiết thuần tuý tưởng tượng, không có cơ sở).

Bối cảnh của khoa học viễn tưởng thường khác biệt so với thế giới thực, nhưng lại được người đọc chấp nhận là khả dĩ xảy ra nhờ các phương thức lý giải các yếu tố hư cấu bằng khoa học. Các yếu tố thường gặp trong khoa học viễn tưởng bao gồm:

  • Khung thời gian tương lai, dòng thời gian đã bị biến đổi, hoặc một thời gian quá khứ khác hẳn những gì viết trong sách sử và các tư liệu khảo cổ.
  • Không gian ngoài vũ trụ, các hành tinh khác, hoặc không gian ngầm dưới bề mặt Trái Đất.
  • Các nhân vật như người ngoài hành tinh, người đột biến, máy móc, rô-bốt mang nhân dạng, các dạng nhân vật đại diện cho hướng tiến hoá tương lai của con người.
  • Các công nghệ tương lai sẽ có hoặc có khả năng sẽ có như súng laze, máy dịch chuyển tức thời, trí tuệ nhân tạo.
  • Các nguyên lý khoa học mới hoặc trái ngược với các định luật đã được chấp nhận hiện thời, chẳng hạn như du hành thời gian, hố giun, di chuyển nhanh hơn ánh sáng.
  • Hệ thống xã hội và chính trị mới và khác biệt hẳn hiện tại, VD: địa đàng (utopia), phản địa đàng (dystopia), hậu khan hiếm, hoặc hậu tận thế.
  • Các khả năng phu thường như điều khiển trí não, thần giao cách cảm, dịch chuyển đồ vật bằng trí óc (VD: “Thần lực” trong Star Wars).
  • Các vũ trụ hoặc chiều không gian khác và việc du hành giữa các vũ trụ, chiều không gian đó.

4) Các thể loại khoa học viễn tưởng

Trước khi đi vào các thể loại nhỏ, đầu tiên hãy đến với hai nhóm khoa học viễn tưởng chính là khoa học viễn tưởng “cứng” (hard science fiction/hard SF) và khoa học viễn tưởng “mềm” (soft science fiction/soft SF).

Khoa học viễn tưởng “cứng”

Khoa học viễn tưởng “cứng” (hard SF) bao gồm những tác phẩm có tính chính xác khoa học rất cao, đặc biệt trong các lĩnh vực khoa học tự nhiên như vật lý, vật lý thiên văn, và hoá học, hoặc miêu tả hết sức chi tiết và hợp lý một thế giới có thể sẽ được hình thành khi khoa học công nghệ đủ tân tiến. Tác phẩm thuộc nhóm này có lượng tiên đoán trở thành hiện thực trong tương lai hoặc gần sát với hiện thực nhiều nhất. Một số tác giả khoa học viễn tưởng “cứng” vốn là người làm nghề khoa học, chẳng hạn Gregory Benford, Geoffrey A. Landis, David Brin, Robert L. Forward, Rudy Rucker và Vernor Vinge. Một số nhà văn đáng chú ý khác chuyên viết về dòng này bao gồm Isaac Asimov, Arthur C. Clarke, Hal Clement, Greg Bear, Larry Niven, Robert J. Sawyer, Stephen Baxter, Alastair Reynolds, Charles Sheffield, Ben Bova, Kim Stanley Robinson, Anne McCaffrey, Andy Weir và Greg Egan.

Khoa học viễn tưởng “mềm”

Nhóm khoa học viễn tưởng “mềm” (soft SF) này bao gồm những tác phẩm sử dụng nền tảng là các môn khoa học xã hội như tâm lý học, kinh tế, chính trị, xã hội học, và nhân chủng học. Đôi lúc nó còn được gán cho các tác phẩm với cốt truyện khó tin, chứa “khoa học” vô lý, và các nhân vật thiếu chiều sâu. Thuật ngữ khoa học viễn tưởng “mềm” còn được áp dụng cho các tác phẩm tập trung chủ yếu vào xây dựng nhân vật và thế giới nội tâm, tâm lý nhân vật (điển hình là 451 độ F của Ray Bradbury). Thường xuất hiện trong nhóm này là các tác phẩm utopia và dystopia, chẳng hạn như 1984 của George Orwell, Brave New World của Aldous Huxley, và Chuyện người tuỳ nữ của Margaret Atwood. Các nhà văn tiêu biểu cho nhóm này bao gồm Ursula K. Le Guin, Philip K. Dick, Stanislaw Lem, Janusz Zajdel, anh em Strugatsky, Kir Bulychov, Yevgeny Zamyatin và Ivan Yefremov.

Bên cạnh hai nhóm “cứng” và “mềm,” các tác phẩm khoa học viễn tưởng còn được chia thành nhiều thể loại con tuỳ theo các chủ đề sử dụng chủ đạo trong truyện. Bên dưới là một số thể loại con của khoa học viễn tưởng (Lưu ý: khoa học viễn tưởng có rất nhiều thể loại khác nhau, các thể loại bên dưới chỉ là những thể loại dễ gặp nhất, không phải tất cả):

  • Cyberpunk
    • Cyberpunk xuất hiện từ những năm 1980, ghép từ 2 từ

       

      cybernetics (điều khiển học) và

       

      punk

       

      (giang hồ). Thuật ngữ này do nhà văn Bruce Bethke sáng chế ra năm 1980 khi xuất bản cuốn truyện ngắn

       

      Cyberpunk. Khung thời gian của thể loại này thường là tương lai gần, bối cảnh là xã hội dystopia vơi đặc trưng là sự cực khổ, khốn đốn. Các chủ đề thường gặp bao gồm công nghệ thông tin phát triển vượt bậc, đặc biệt công nghệ internet, không gian mạng được hiển thị thành hình ảnh, trí thông minh nhân tạo, điều khiển học, xã hội hậu dân chủ nơi các tập đoàn có sức ảnh hưởng hơn chính phủ. Nhân vật chính thường mang vẻ bất mãn.

       

      Blade Runner

      và Altered Carbon

  • Du hành thời gian
    • Du hành thời gian tồn tại từ thế kỷ XVIII và thế kỷ XIX. Tiểu thuyết du hành thời gian đầu tiên là

       

      A Connecticut Yankee in King Arthur’s Court

       

      của Mark Twain. Nổi tiếng nhất phải kể đến

       

      Cỗ máy thời gian

       

      của H. G. Wells năm 1895. Trong truyện Wells, nhân vật chính dùng một thiết bị để lựa chọn điểm đến, còn trong truyện Twain nhân vật chính bị đánh vào đầu. Thuật ngữ cỗ máy thời gian do Wells nghĩ ra giờ đã trở thành từ thông dụng. Những câu chuyện thuộc thể loại này thường bàn về các nghịch lý lô-gic, chẳng hạn nếu quay về quá khứ giết chết ông nội mình, vậy thì làm sao mình được sinh ra để quay về quá khứ được?

  • Lịch sử thay đổi (Alternate history)
    • Lịch sử thay đổi là những câu chuyện dựa trên các sự kiện lịch sử có thật, nhưng thay đổi diễn tiến của chúng. Chuyện có thể về nhân vật dùng máy thời gian thay đổi quá khứ, hoặc đơn giản là lấy bối cảnh trong một thế giới với lịch sử khác thế giới chúng ta. Một số tác phẩm thuộc dòng này là

       

      Bring the Jubilee

       

      của Ward Moore, kể về thế giới nơi phe miền Nam thắng nội chiến Mỹ; và

       

      The Man in the High Castle

       

      của Philip K. Dick, kể về thế giới nơi Đức và Nhật thắng Thế Chiến Thứ II.

  • Quân sự
    • Khoa học viễn tưởng quân sự là những tác phẩm với chủ đề xung đột giữa các lực lượng quân đội của các quốc gia, các hành tinh hoặc các hệ mặt trời với nhau; nhân vật chính trong truyện thường là những quân nhân. Tác phẩm sẽ tả nhiều về công nghệ quân sự, các nghi thức, thủ tục, lịch sử quân đội; một số câu chuyện có thể sẽ tương đồng với các cuộc xung đột trong lịch sử.

       

      Starship Troopers

       

      của Heinlein là một trong những ví dụ kinh điển nhất.

  • Siêu nhân
    • Siêu nhân là những câu chuyện kể về sự xuất hiện của các cá nhân hoặc các tộc người mới với năng lực phi thường. Năng lực ấy có thể bắt nguồn từ nguyên nhân tự nhiên như tiến hoá, hoặc là kết quả của những thí nghiệm khoa học. Các tác phẩm thuộc thể loại này thường tập trung vào cảm giác cô đơn của những người mang năng lực và phản ứng của xã hội với họ. Nhiều tác phẩm thuộc dòng này đã có sức ảnh hưởng đến công cuộc nghiên cứu cải thiện khả năng con người ngoài đời thật.
  • Tận thế và hậu tận thế
    • Các tác phẩm thuộc thể loại tận thế có nội dung về sự chấm dứt của nền văn minh do chiến tranh, đại dịch, thiên thạch rơi, thảm hoạ sinh thái, hoặc một thảm hoạ diện rộng nào đó. Hậu tận thế thì tận trung vào những gì xảy ra cho nền văn minh sau khi thảm hoạ đã diễn ra. Các tác phẩm tận thế thường xoay quanh bản thân thảm hoạ đang diễn ra hoặc hậu quả liền sau đó, còn hậu tận thế thường sẽ lấy bối cảnh là một thời gian dài sau khi thảm hoạ đã diễn ra.
  • Phiêu lưu vũ trụ (Space opera)
    • Phiêu lưu vũ trụ bao gồm các tác phẩm với bối cảnh chủ yếu hoặc hoàn toàn ở ngoài không gian, hoặc ở trên các hành tinh khác. Xung đột trong truyện thường mang sắc thái anh hùng ca, và thường mang quy mô rất lớn. Các tác phẩm phiêu lưu vũ trụ hiện đại đôi khi tìm cách khơi dậy tâm lý đam mê khám phá trong thời hoàng kim của khoa học viễn tưởng cách đây vài thập kỷ. Một trong những series nổi tiếng nhất thuộc dòng này là

       

      Star Wars

       

      của George Lucas.

  • Khoa học viễn tưởng xã hội
    • Khoa học viễn tưởng xã hội tập trung vào các vấn đề xã hội và bản chất của con người trong bối cảnh khoa học viễn tưởng. Vì các tác phẩm trong thể loại này tập trung vào bản chất con người hơn là các chi tiết khoa học, chúng thường thuộc vào hạng mục khoa học viễn tưởng “mềm.“
  • Khí hậu viễn tưởng (climate fiction)
    • Khí hậu viễn tưởng lấy chủ đề là các biến đổi khí hậu nghiêm trọng. Thỉnh thoảng các tác phẩm thuộc dòng này được gọi tắt là “cli fi,” tưởng tự như “science fiction” được gọi tắt là “sci fi”. Khí hậu viễn tưởng thường được lấy bối cảnh là trong tương lai, nhưng cũng có một số tác phẩm lấy bối cảnh quá khứ. Phần lớn các tác phẩm trong thể loại này muốn truyền tải thông điệp nhắc nhở về ảnh hưởng của biến đổi khí hậu đối với sự sống trên Trái Đất.
  • Biopunk
    • Biopunk xoay quanh lĩnh vực công nghệ sinh học. Mô típ chính trong các tác phẩm biopunk là các nỗ lực thay đổi hoặc tái cấu tạo cơ thể con người nhằm phục vụ mục đích gì đó thông qua kỹ thuật sửa đổi gen và các cấu trúc phân tử cấu thành cơ thể. Các tác phẩm thuộc thể loại này thường viết về thí nghiệm trên cơ thể người, hậu quả lạm dụng công nghệ sinh học và công nghệ sinh học tổng hợp. Nó còn bao gồm cả đề tài nhân bản vô tính và sự tồn tại của người nhân bản trong xã hội tương lai.
  • Steampunk
    • Trong các tác phẩm Steampunk, các thiết bị công nghệ được vận hành bằng hơi nước, bối cảnh thường ở London thời Victoria, giai đoạn thế kỷ XIX. Mặc dù chỉ sử dụng công nghệ hơi nước nhưng các máy móc thiết bị sử dụng trong tác phẩm hoàn toàn có thể tân tiến ngang với thời hiện đại, thậm chí còn tân tiến hơn, chẳng hạn như súng laze chạy hơi nước, hoặc máy du hành thời gian dùng động cơ hơi nước…
  • Dieselpunk
    • Gần như y hệt Steampunk, chỉ khác là lấy bối cảnh ở thời kỳ muộn hơn, trong giai đoạn từ Thế Chiến I cho đến Thế Chiến II, và máy móc thiết bị chạy bằng xăng dầu thay vì hơi nước.
  • Kaiju
    • Kaiju là từ gốc Nhật, dịch thô sẽ là “quái vật.” Các tác phẩm thuộc thể loại Kaiju sẽ có sự xuất hiện của những sinh vật to lớn khổng lồ, tấn công các khu thành phố hoặc chiến đấu với các sinh vật khổng lồ khác.

5) Một số ví dụ về khoa học viễn tưởng trên thế giới

Khoa học viễn tưởng phát triển mạnh mẽ nhất tại các nước phương Tây như Mỹ, Canada và Anh, nhưng điều đó không có khoa học viễn tưởng không lan rộng trên khắp thế giới.

Châu Phi

Khoa học viễn tưởng có một mô típ là thể hiện sự thay đổi về xã hội khi cơ cấu quyền lực bị thay đổi (chẳng hạn như con người bị mất quyền kiểm soát và người ngoài hành tinh lên ngôi). Các nhà văn Châu Phi thường mượn mô típ đó để nói về nạn nô lệ và buôn bán nô lệ. Ngoài ra, còn một mô típ nữa hay xuất hiện trong khoa học viễn tưởng đó và cuộc gặp gỡ giữa con người và các giống loài lạ, và mô típ này có rất nhiều nét tương đồng với xung đột giữa văn hoá, ngôn ngữ, tập quán của Châu Phi với các nước phương Tây trong lịch sử nên thường hay được các nhà văn sử dụng. Các tác giả Châu Phi còn hay dùng thể loại du hành vượt thời gian để bàn về hệ quả của chế độ nô lệ và di cư cưỡng ép đối với mỗi cá nhân và gia đình.

Mohammed Dib, một nhà văn Algeria, đã viết một tác phẩm khoa học viễn tưởng có tên Qui se souvient de la mer (Ai sẽ nhớ về biển?) năm 1962 để bàn về vấn đề chính trị của nước mình. Masimba Musodza, một tác giả Zimbabwe, đã xuất bản cuốn MunaHacha Maive Nei?, cuốn khoa học viễn tưởng đầu tiên viết bằng ngôn ngữ Shona.

Châu Á

  • Ấn Độ
    • Khoa học viễn tưởng Ấn Độ bắt đầu xuất hiện khi Kylas Chundar Dutt đăng tải tác phẩm

       

      A Journal of Forty-Eight Hours of the Year 1945

       

      trên tờ

       

      Calcutta Literary Gazette

       

      (06/06/1835). Vì truyện chủ yếu nhằm để tranh luận chính trị, sau này người ta thường coi các tác giả khác như Jagadananda Roy, Hemlal Dutta và Jagadish Chandra Bose mới là người đi tiên phong trong khoa học viễn tưởng. Khoa học viễn tưởng thời hiện đại của Ấn Độ bắt đầu với các tác phẩm của những nhà văn như Samit Basu, Payal Dhar, Vandana Singh và Anil Menon. Các tác phẩm như

       

      The Calcutta Chromosome

       

      của Amitav Ghosh,

       

      Grimus

       

      của Salman Rushdie, và

       

      The Memory of Elephants

       

      của Boman Desai thường được liệt vào dòng kỳ ảo, nhưng có sử dụng rất nhiều mô típ hay gặp trong khoa học viễn tưởng.

  • Bangladesh
    • Bangladesh là một trong những nước thuộc Nam Á có dòng khoa học viễn tưởng phát triển mạnh. Sau khi Qazi Abdul Halim cho xuất bản cuốn

       

      Mohasunner Kanna (Nước mắt dải ngân hà)

       

      (1970), Humayun Ahmed đã viết cuốn tiểu thuyết khoa học viễn tưởng đầu tiên của người Bangladesh,

       

      Tomader Jonno Valobasa (Tình thương cho tất cả).

    • Nhưng khoa học viễn tưởng Bangladesh chỉ thật sự khởi sắc khi Muhammed Zafar Iqbal xuất hiện. Iqbal viết

       

      Copotronic Sukh Dukho (Xúc cảm con chíp)

       

      khi còn theo học Đại học Dhaka. Sau này truyện được xuất hiện trong bộ tuyển tập cùng tên của Iqbal. Tuyển tập khoa học viễn tưởng ấy được chào đón nồng nhiệt và ngay lập tức tạo thành làn sóng mới trong giới độc giả và nhà văn Bangladesh. Theo bước những người tiên phong, ngày một nhiều cây bút trẻ bắt đầu viết về thể loại khoa học viễn tưởng.

  • Trung Quốc
    • Khoa học viễn tưởng hiện đại ở Trung Quốc chủ yếu phát triển nhờ tạp chí

       

      Science Fiction World. Rất nhiều tác phẩm khoa học viễn tưởng của Trung Quốc đều có tiền thân là truyện đăng trên tạp chí, bao gồm cuốn bestseller

       

      The Three-Body Problem

       

      (Tam thể) của Lưu Từ Hân.

  • Hàn Quốc
    • Mãi đến những năm gần đây, Hàn Quốc mới xuất hiện nhiều nhà văn viết khoa học viễn tưởng. Nhà văn với bút danh Djuna thường được coi là người đóng vai trò lớn trong việc thúc đẩy dòng văn này. Kim Boyoung, Bae Myunghoon và Kwak Jaesik là những cái tên thường được nhắc đến khi nói về thế hệ nhà văn khoa học viễn tưởng Hàn Quốc những năm 2010.
    • Phong trào khoa học viễn tưởng tại Hàn bắt đầu nở rộ năm 2009. Các báo liên tục đưa ra các giải thưởng văn học, và tổ chức các cuộc thi với mức tiền thưởng khá lớn. Thên vào đó, các trang mạng xã hội phát triển mạnh giúp các nhà văn trẻ có cơ hội tiếp xúc nhiều hơn với các tác phẩm khoa học viễn tưởng phương Tây và các bản dịch của chúng. Mặc dù vậy, tính đến hiện tại số lượng tác giả về khoa học viễn tưởng mới chỉ dừng ở tầm 60 người.

Châu Âu

  • Pháp
    • Hồi thế kỷ XIX, nước Pháp xuất hiện một nhà văn lừng lẫy tên là Jules Verne, với rất nhiều tác phẩm mang tính đột phá trong làng khoa học viễn tưởng

       

      (Hai vạn dặm dưới đáy biển, Hành trình tới tâm Trái Đất, Từ Trái Đất đến Mặt trăng)

       

      cả ở Pháp lẫn trên thế giới. Sang thế kỷ XX, khoa học viễn tưởng Pháp xuất hiện nhiều tên tuổi như Pierre Boulle (nổi tiếng nhờ cuốn

       

      Planet of the Apes), Serge Brussolo, Bernard Werber, René Barjavel, Robert Merle,…

    • Tại Pháp, sci-fi trở thành từ mượn để gọi tên dòng văn khoa học viễn tưởng. Lý do là bởi khoa học viễn tưởng ở Pháp không phát triển ngang mức các quốc gia nói tiếng Anh, đặc biệt là Mỹ. Dù vậy, Pháp đã có những đóng góp rất đáng kể trong giai đoạn dòng văn vừa mới khởi sắc.
  • Ý
    • Khoa học viễn tưởng tại Ý phát triển rất mạnh, mặc dù bạn bè quốc tế ít khi biết đến. Khoa học viễn tưởng tại Ý trở nên nổi tiếng sau Thế Chiến II, đặc biệt là nửa cuối thập niên 1950, khi văn học Anh Mỹ xuất hiện nhiều.
    • Những tác phẩm xuất hiện sớm nhất có thể được tìm thấy trong các tạp chí văn học giả tưởng. Đến nửa sau thế kỷ XIX, những truyện ngắn và tiểu thuyết ngắn thuộc dòng “khoa học tưởng tượng” (còn được gọi là “truyện phi thường” hoặc “dị thường” hoặc “phiêu lưu”, “tiểu thuyết tương lai” hoặc “không tưởng”, “truyện mai sau”) xuất hiện trong các phụ mục báo Chủ Nhật, trong tạp chí văn học, và các tập truyện nhỏ xuất bản định kỳ. Sang đầu thế kỷ XX, Emilio Salgari xuất hiện với rất nhiều tác phẩm khoa học viễn tưởng, và ông được coi là cha đẻ của khoa học viễn tưởng Ý.
    • Khoa học viễn tưởng Ý thực sự vươn mình vào năm 1952, khi các tạp chí chuyên về khoa học viễn tưởng đầu tiên xuất hiện, tờ Scienza Fantastica (Khoa học kỳ khôi) và Urania, và thuật ngữ “fantascienza,” phiên bản tiếng Ý của “science fiction” được đưa vào sử dụng. Sau những năm 1950, khoa học viễn tưởng trở thành một trong những dòng văn thịnh hành nhất ở Ý. Các nhà văn viết khoa học viễn tưởng hiện đại nổi tiếng ở Ý bao gồm Gianluigi Zuddas, Giampietro Stocco, Lino Aldani, và hoạ sĩ Milo Manara.
  • Đức
    • Theo lời nhà phê bình văn học Franz Rottensteiner, mặc dù nửa đầu thế kỷ XX rất nhiều tác phẩm mang tính khoa học viễn tưởng được xuất bản tại Đức, phải đến sau Thế Chiến II và sau khi rất nhiều tác phẩm của Mỹ được dịch sang tiếng Đức khoa học viễn tưởng mới chính thức trở thành một dòng văn được công nhận. Trong thời kỳ nước Đức bị chia cắt, cả Đông Đức và Tây Đức đều xuất hiện rất nhiều nhà văn giỏi. Các nhà văn Đông Đức nổi tiếng nhất bao gồm Angela và Karlheinz Steinmüller, Günther Krupkat. Phía Tây Đức có Carl Amery, Gudrun Pausewang, Wolfgang Jeschke và Frank Schätzing. Một trong những series khoa học viễn tưởng viết bằng tiếng Đức nổi tiếng nhất là

       

      Perry Rhodan,

       

      bắt đầu xuất bản từ năm 1961 và bán được tổng cộng một tỷ bản (in giấy pulp). Một số nhà văn khoa học viễn tưởng Đức nổi tiếng thời nay bao gồm Andreas Eschbach, năm lần đoạt giải Kurd Laßwitz; và Frank Schätzing với tác phẩm nổi tiếng nhất là

       

      The Swarm.

  • Nga và các nước Liên-xô cũ
    • Nga lần đầu bước vào lĩnh vực khoa học viễn tưởng trong giai đoạn giữa thể kỷ XIX với các nhà văn nổi tiếng như Faddei Bulgarin và Vladimir Odoevsky. Tuy nhiên phải đến giai đoạn Xô-viết khoa học viễn tưởng mới bước vào thời hoàng kim. Bất chấp bị nhà nước cấm cản và kiểm duyệt, các nhà văn khoa học viễn tưởng thời đó viết rất hăng hái. Các nhà văn thời đầu như Alexander Belayev, Alexey N. Tolstoy và Vladimir Obruchev học theo văn phong của Jules Verne và H.G. Wells để viết các tác phẩm khoa học viễn tưởng “cứng” mang tính đoán định tương lai. Các tác phẩm đáng chú ý nhất thời đại này là

       

      Người cá, The Air Seller

       

       

      Đầu giáo sư Dowell

       

      của Belayev; Aelita và Engineer Garin’s Death của Ray Tolstoy. Khoa học viễn tưởng thời đầu thường bị ảnh hưởng bởi tư tưởng cộng sản nên hay có giọng văn bài trừ tư bản. Những cuốn sách chỉ trích Xô-viết như cuốn

       

      We

       

      của Yevgeny Zamyatin hoặc

       

      Heart of a Dog

       

       

      Fatal Eggs

       

      của Mikhail Bulgakov bị cấm xuất bản cho đến tận những năm 1980, mặc dù fan vẫn lén lút cho in các truyện này.

    • Đến nửa sau thế kỷ XX, thế hệ các nhà văn mới bắt đầu sử dụng những mô típ khoa học viễn tưởng phức tạp. Khoa học viễn tưởng xã hội, chuyên nói về triết lý, đạo đức, các tư tưởng utopia và dystopia, xuất hiện nhiều hơn. Xu hướng mới bắt đầu với tác phẩm utopia của Ivan Yefremov là

       

      Andromeda Nebula

       

      (1957). Theo chân ông là hai người em Arkady và Boris Strugatsky, viết về các đề tài tăm tối cùng chỉ trích xã hội trong các cuốn tiểu thuyết như

       

      Hard to be a God

       

      (1964) và

       

      Prisoners of Power

       

      (1969). Phần lớn khoa học viễn tưởng Xô-viết được nhắm vào trẻ em. Nổi tiếng nhất phải kể đến là Kir Bulychov, người đã viết series

       

      Alisa Selezneva

       

      (1965-2003) về một cô gái đến từ tương lai.

    • Sau khi Liên bang Xô-viết sụp đổ, khoa học viễn tưởng trong khối các nước cộng hoà Xô-viết cũ vẫn chủ yếu đến từ Nga. Ngoài Nga ra thì phải kể đến các nhà văn Ukraina, những người đã đóng góp rất nhiều cho khoa học viễn tưởng viết bằng tiếng Nga. Thời kỳ hậu Xô-viết xuất hiện những nhà văn nổi tiếng như H. L. Oldie, Sergey Lukyanenko, Alexander Zorich và Vadim Panov.
  • Các quốc gia thuộc Châu Âu khác
    • Ba Lan là nước viết khoa học viễn tưởng khá nổi tiếng. Một trong những nhà văn nổi tiếng nhất Ba Lan, đồng thời trên khắp thế giới là Stanisław Lem với các tác phẩm khoa học viễn tưởng “cứng” như

       

      Hành tinh Solaris. Nhiều sách Lem viết đã được chuyển thể thành phim, cả tại Ba Lan lẫn ở nước ngoài. Một số nhà văn khoa học viễn tưởng Ba Lan nổi tiếng khác bao gồm Jerzy Żuławski, Janusz A. Zajdel, Konrad Fiałkowski, Jacek Dukaj và Rafał A. Ziemkiewicz.

    • Trong vở kịch

       

      R.U.R.

       

      (1920), nhà viết kịch người Séc Karel Čapek đã đưa thuật ngữ “rô-bốt” vào trong dòng văn khoa học viễn tưởng. Čapek cũng viết nhiều tác phẩm và vở kịch khoa học viễn tưởng châm biếm, chẳng hạn như

       

      War with the Newts

       

       

      The Absolute at Large. Các nhà văn khoa học viễn tưởng nổi tiếng thời nay bao gồm Ludvík Souček, Josef Nesvadba và Ondřej Neff.

Châu Úc

David G. Hartwell, nhà phê bình văn học và biên tập viên kỳ cựu người Mỹ, đã nói rằng “khoa học viễn tưởng Úc không có chất Úc nào cả.” Nhiều nhà văn khoa học viễn tưởng Úc thực chất là nhà văn quốc tế, sáng tác bằng tiếng Anh và xuất bản cho độc giả thế giới. Thêm nữa là thị trường nội địa Úc rất nhỏ (dân số 21 triệu người), nên doanh số truyện bán được ra nước ngoài là yếu tố tiên quyết

Châu Mỹ

  • Canada
    • Như rất nhiều khía cạnh văn hoá khác tại đây, khoa học viễn tưởng của Canada đi lên từ những nguồn riêng lẻ, trong đó có nhà văn A. E. van Vogt, các tác phẩm giả tưởng của John Buchan, thơ ca của Phyllis Gotlieb, và một số nhà văn khác. Đến cuối thế kỷ XX, tình hình chính trị rối ren tại Mỹ đã giúp đưa những cây bút tài năng như Spider Robinson và Judith Merril đến Canada.
    • Trong những năm đầu thập niên 1980,

       

      Câu lạc bộ Khoa học viễn tưởng Ontario

       

      được Robert J. Sawyer thành lập, còn

       

      Bunch of Seven

       

      trở thành hiệp hội nhà văn khoa học viễn tưởng đầu tiên ở Canada, giúp các tác giả như S. M. Stirling và Tanya Huff ra được những tác phẩm thành công, và đây cũng là tiền đề để

       

      Cecil Street Irregulars

       

      ra đời sau này và giúp Cory Doctorow phát triển. De Lint, Huff và Guy Gavriel Kay thường xuyên sử dụng bối cảnh Canada trong các tác phẩm khoa học viễn tưởng và kỳ ảo của mình.

    • Đến giai đoạn những năm 1990, khoa học viễn tưởng Canada đã phát triển rất hưng thịnh, và được độc giả quốc tế nồng nhiệt đón nhận; các tác giả như Margaret Atwood bắt đầu viết nhiều về khoa học viễn tưởng.
  • Mỹ
    • Khoa học viễn tưởng ở Mỹ thường được cho là bắt đầu khi các phương tiện truyền thông trở nên phổ biến. Một nhóm nhà hoạt động xã hội thời thế kỷ XIX chuyên viết các tác phảm giả tưởng về xã hội tương lai thường nói rằng phương tiện truyền thông sẽ đóng vai trò chủ đạo trong việc thay đổi xã hội. Chẳng hạn trong tác phẩm

       

      Looking Backward

       

      (1887) của Edward Bellamy, có nói về thẻ tín dụng và việc phát thanh.

    • Hình tượng công nghệ, khoa học, và các phương tiện truyền thông trong khoa học viễn tưởng Mỹ giai đoạn Thế Chiến II mang màu sắc u tối. Khoa học viễn tưởng những năm 1950, bao gồm các tác phẩm của Henry Kuttner, Cordwaner Smith, Frederik Pohl và C.M. Kornbluth, được viết với giọng châm biếm về sự phát triển của TV và quảng cáo. Các nhà văn thời đại này cảm thấy bất an trước cách các phương tiện truyền thông không ngừng khuyến khích tâm lý đám đông và tiêu thụ mù quáng. Nhưng đồng thời, các tác phẩm thời đại này cũng thường có các nhân vật dùng phương tiện truyền thông để phản kháng các tổ chức xã hội quyền lực và thách thức các tập đoàn khổng lồ cũng như bộ máy chính phủ. Một số nhà văn khoa học viễn tưởng khác đi vào phân tích công nghệ theo dõi và quản lý thông tin trong bối cảnh chính trị và kinh tế hiện đại.
    • Đến thập niên 1960, khoa học viễn tưởng trở thành công cụ hiện thực hoá các ý tưởng về xã hội và chính trị. Trong giai đoạn này, số lượng nữ giới đọc và viết khoa học viễn tưởng cũng tăng lên, từ đó xuất hiện nhiều tác phẩm về thế giới utopia tương lai, với nền tảng chủ yếu dựa trên thay đổi quan hệ xã hội chứ không phải công nghệ.
    • Cuốn

       

      Neuromancer

       

      của William Gibson (1989) và các tác phẩm cyberpunk sau này không ngừng nói về cuộc “cách mạng số,” vai trò của các tập đoàn đa quốc gia, sự bùng nổ của các “tiểu văn hoá” khác thường, và tầm quan trọng của quản lý thông tin trong thế giới hiện tại. Gibson đã phát minh thuật ngữ “cyberspace,” tức “không gian mạng,” và hình dung của ông về thực tế ảo đã gây ảnh hưởng đến quá tình phát triển của các phương tiện truyền thông kỹ thuật số.

  • Mỹ La-tinh
    • Mặc dù còn nhiều tranh cãi về thời gian khoa học viễn tưởng Mỹ La-tinh ra đời, tác phẩm khoa học viễn tưởng lâu đời nhất tính đến nay ra đời vào thế kỷ XIX. Ba tác phẩm khoa học viễn tưởng đầu tiên của Mỹ La-tinh là

       

      O Doutor Benignus

       

      của Augusto Emílio Zaluar,

       

      El Maravilloso Viaje del Sr. Nic-Nac

       

      của Eduardo Holmberg, và

       

      Historia de un Muerto

       

      của Cuban Francisco Calcagno.

    • Mãi đến trước thập niên 1960, các tác phẩm khoa học viễn tưởng chủ yếu ra đời lẻ tẻ, không hình thành hẳn một dòng văn riêng. Và các tác phẩm đó hầu hết đều mượn các mô típ khoa học viễn tưởng để đả kích xã hội, truyền bá tư tưởng của mình. Dòng văn này được trọng vọng hơn sau khi các tác giả nổi tiếng như Horacio Quiroga và Jorge Luis Borges bắt đầu đưa các mô típ của nó vào tác phẩm của mình. Từ tiền đề đó, giai đoạn 1960 và giữa những năm 1970, khoa học viễn tưởng trở thành một dòng văn độc lập, đặc biệt phát triển ở Argentina, Brazil, Chile, Mexico, và Cuba.
    • Tới thập niên sau, bất ổn kinh tế và chính sách kiểm duyệt khắt khe của chính quyền khiến khoa học viễn tưởng không còn sôi động như trước. Đến giữa những năm 1980, dòng văn này lại vươn lên mạnh mẽ. Mặc dù Argentina, Brazil và Mexico là những đầu tàu về khoa học viễn tưởng, các cộng đồng fan cũng như nhà văn Mỹ La-tinh đã xuất hiện ở nhiều khu vực khác và đưa đặc trưng quê hương của mình vào tác phẩm để làm nên sự khác biệt với các tác phẩm ở những nước nói tiếng Anh.

Nếu yêu thích thể loại Sci Fi, chắc chắn bạn sẽ rất ưng bộ combo truyện viễn tưởng siêu hot của Bookism bọn mình.

Tìm hiểu thêm tại đây nhé  ↓