Hoài niệm về Tây Hồ “bát cảnh”

Khoảng giữa thế kỷ 17 (tức là từ thời Lê Trung Hưng trở về sau này), trong các câu ca cổ và cả những tài liệu lưu giữ trong dân gian đã ghi lại cảnh đẹp của Thăng Long như những bức tranh sơn thủy hữu tình.

Bên Hồ Hoàn Kiếm và Hồ Tây có rất nhiều cảnh đẹp. Mỗi thi sĩ danh nhân khi đến nơi này đều có những cảm xúc riêng về cảnh đẹp nơi đây. Khá nhiều câu thơ cổ nói về những cảnh đẹp này như “Phật đá Cầu Đông, tượng đồng Trấn Võ” trong “Thăng Long thập vịnh” ra đời vào thế kỷ 18, “Chiều tà núi Khán, ánh sáng Hồ Gươm” trong “Long thành kỷ thắng” của cụ Nguyễn Chương, một thi sĩ thời vua Minh Mệnh thế kỷ 19 và đặc biệt là “Bến trúc Nghi Tàm, rừng bàng Yên Thái…” trong tập thơ “Tây Hồ bát cảnh” xướng họa bằng tiếng Hán của tác giả Lê Vĩnh Hựu thế kỷ 18.

Trong “Tây Hồ bát cảnh” của Lê Vĩnh Hựu, ta có thể cảm nhận thấy xung quanh Hồ Tây là những vùng danh thắng làm say đắm lòng người. Đó là bến trúc Nghi Tàm, rừng bàng Yên Thái, đàn thề Đồng Cổ, Phật say làng Thụy, sâm cầm rợp bóng, đồng bông Nghi Tàm, chợ đêm Khán xuân và tiếng đàn hành cung. Những cảnh đẹp đó là nguồn sáng tạo vô tận của thi nhân.

Bến trúc Nghi Tàm chính là chỉ làng Nghi Tàm xưa có trồng một thứ trúc vàng có tên là trúc ngà ở vùng xung quanh làng. Từ xa trông hàng ngàn, hàng vạn cây đứng trước gió, ánh sáng vàng trông rất đẹp. Chính nơi này chúa Trịnh Giang đã cho mở một bến tắm, hàng năm mùa hè cùng các cung nữ lên đó tắm mát và nghỉ ngơi.

Cũng trên bờ Hồ Tây thuộc về làng Yên Thái có một núi đất cao 400-500 trăm thước, rộng chừng một mẫu. Chúa Trịnh Giang cho trồng nhiều cây bàng để lấy bóng râm nghỉ mát. Từ trên đỉnh nhìn xuống, hàng ngàn, hàng vạn cây, cây nào cũng tỏa ra cành lá xum xuê, sắc lá theo từng mùa thay đổi. Nhìn từ xa như những chiếc lọng đỏ, lọng xanh rất đẹp mắt, người dân quanh đó quen gọi là rừng bàng. Sau này bị Lê Chiêu Thống phá hết và san bằng cả quả núi này.

Đàn thề Đồng Cổ được lập trước cửa đền Đồng Cổ trên bờ hồ thuộc làng Thụy Chương dưới thời Lý Thái Tông. Đàn được xây hai tầng, tầng trên thờ thần, tầng dưới vua ngự, mỗi năm hai kỳ xuân thu, nhà vua ra đó làm lễ tế rồi hạ lệnh trăm quan văn võ đứng trước đàn thề rằng: “Làm con phải hiếu, làm tôi phải trung, bất hiếu bất trung, thần minh giết chết”. Về sau đàn đấy đổi làm nơi công cộng của nhân dân, hàng ngày có nhiều người đặc biệt là thanh niên nam nữ đến trước đàn thề nguyền, xin thần linh minh chứng cho lòng chung thủy của mình. Chính vì vậy, đền này trở nên một nơi hương khói rất thịnh cho tới cuối đời Lê đàn thề mới bị quân Tam phủ phá hủy mới thôi.

Đường Thanh Niên bên Hồ Tây

Phía trước làng Thụy Chương, đời Lê Trung Hưng có một ngôi chùa nhỏ ở bên hồ bị đổ, còn trơ lại một pho tượng Phật, hình tay chống gậy, chân khệnh khạng bước đi như muốn ngã. Nhân làng Thụy có tiếng là nấu rượu ngon, một hôm Trạng Quỳnh đến làng mua rượu, vào thăm tượng Phật, có làm đùa mấy câu thơ:

Ông đứng chi mà đứng mãi đây?/ Dập dềnh như tỉnh lại như say?/Vãi nào đã chuốc cho ông rượu?/Còn có cho vay một nậm đầy.

Vì thế từ đấy người ta gọi là Phật say làng Thụy, mỗi tháng hai kỳ khách thập phương thi nhau mang rượu đến lễ. Tuy nhiên vì những biến cố cuối thời nhà Lê, tượng Phật cũng bị mất.

Ở Hồ Tây, cứ vào khoảng tháng Một, tháng Chạp và tháng Giêng lại có từng đàn hàng trăm, hàng nghìn con chim sâm cầm từ đâu bay đến, bơi lội khắp mặt hồ, người ta cho rằng đó là loài chim ở phương Bắc hàng năm tránh rét sang nước ta tạo thành cảnh “sâm cầm rợp bóng”. Chim ấy chỉ ăn sâm nên thịt rất bổ, vì vậy nghề đánh chim đã trở thành một nghề của mấy làng xung quanh hồ. Đến thời Nguyễn vẫn có lệ cống sâm cầm nhưng lo sợ sự phản ứng dữ dội của dân Thăng Long trước lệ cống gây sách nhiễu cho cuộc sống nhân dân nên sau này vua Nguyễn phải bãi bỏ lệ này.

Đồng bông Nghi Tàm là những ruộng trồng hoa. Từ xa xưa, những làng ở dọc bên hồ đều trồng hoa để bán nhưng chỉ có đồng bông ở trước chùa Kim Liên, làng Nghi Tàm là nhiều hoa đẹp và thơm nhất đã được chọn làm hoa tiến vào phủ chúa và cung vua.

Khán Xuân là một làng ở bên bờ phía Nam hồ. Đời chúa Trịnh Giang lập một ly cung và những dãy nhà như quán hàng ở xung quanh, hàng năm mùa hè ra đó nghỉ mát. Đêm đến, bọn nội thần và cung nữ mở chợ bày hàng mua bán, hát xướng làm vui. Những đêm mở chợ, làng Khán Xuân lại sáng rực một góc thành vì đèn nến thắp sáng trưng. Chính vì vậy mà chợ đêm Khán Xuân trở thành một hoạt cảnh đẹp trong kinh thành Thăng Long.

Tiếng đàn hành cung chính là chỉ hành cung của chúa Trịnh được đặt ngay tại chùa Trấn Quốc. Về sau do thời cuộc rối ren nên chúa Trịnh không còn ra nghỉ ngơi tại đó nữa. Tuy nhiên, nơi đây vẫn có một số cung nữ già giữ việc quét tước, trông nom chùa trong đó có một cung nữ họ Hà có rất nhiều tài nghệ nhất là đánh đàn. Mỗi khi đêm khuya thanh vắng, nàng lại đem đàn ra gảy, những tiếng đàn mang nặng tâm tư, tình cảm của nàng đã xúc động lòng người. Trong tiếng đàn, nàng cảm thương cho thân thế quạnh hiu cô đơn nhưng không biết rằng bên ngoài cũng từng có bao người khách tri âm, tỏ tình đồng điệu. Tiếng đàn của nàng đã trở thành một nguồn thi ca cho khách đến vãn cảnh Tây Hồ.

Tám cảnh đẹp vùng Tây Hồ cho ta cảm nhận phần nào về những vùng danh thắng của Thăng Long xưa. Hồ Tây không chỉ có lịch sử với những câu chuyện truyền thuyết, sự tích hình thành hồ mà gắn với nó là những danh thắng nổi tiếng đi vào thi ca. Chính điều này làm cho Hồ Tây thêm gắn bó, có ý nghĩa sâu sắc đối với mảnh đất Thăng Long – Hà Nội./.