Doanh nghiệp nhà nước đầu tư ra nước ngoài lỗ, lãi ra sao?

Đã đầu tư ra nước ngoài hơn 6,6 tỷ USD

Trước thềm Kỳ họp thứ Tư dự kiến khai mạc ngày 20.10 tới, Chính phủ đã gửi Quốc hội báo cáo về hoạt động đầu tư, quản lý, sử dụng vốn nhà nước tại doanh nghiệp trong phạm vi toàn quốc năm 2021.

Liên quan đến hoạt động đầu tư ra nước ngoài, báo cáo cho biết, tính đến ngày 31.12.2021, có 30 doanh nghiệp nhà nước (DNNN), doanh nghiệp có vốn nhà nước đầu tư 137 dự án tại 26 quốc gia và vùng lãnh thổ, tăng 6 dự án so với năm 2020.

Năm 2021, số vốn thực hiện là 43,63 triệu USD, chủ yếu tại các dự án của Tổng công ty Thăm dò Khai thác Dầu khí (PVEP) 18,88 triệu USD, Viettel 15 triệu USD, Tổng công ty Hợp tác kinh tế QK4 3,38 triệu USD; Tập đoàn Cao su Việt Nam – (VRG) 2,92 triệu USD.

Lũy kế đến 31.12.2021, tổng vốn đầu tư của các dự án là hơn 6,6 tỷ USD (bằng 55% số vốn đăng ký), chủ yếu trong lĩnh vực dầu khí, viễn thông, trồng, chế biến mủ cao su… Trong đó, Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN) có số vốn đầu tư ra nước ngoài thực hiện lớn nhất (3,99 tỷ USD, chiếm 60% tổng số vốn đầu tư ra nước ngoài); tiếp theo là Viettel (1,469 tỷ USD, chiếm 22%); VRG đứng thứ 3 (770,8 triệu USD, chiếm 12%).

Năm 2021, số vốn thu hồi từ các dự án là 509,75 triệu USD (trong đó lợi nhuận chuyển về nước là 278,56 triệu USD). Số tiền này chủ yếu từ các dự án của PVN (288,34 triệu USD), Viettel (147,12 triệu USD), Tổng công ty Hàng không Việt Nam (35 triệu USD), Tổng công ty Hợp tác kinh tế QK4 (15,52 triệu USD), VRG (13,89 triệu USD), Tập đoàn Điện lực VN (8,3 triệu USD). 

Lũy kế đến ngày 31.12.2021, có 62 dự án của 14 doanh nghiệp đã phát sinh thu hồi vốn đầu tư, với tổng số vốn đã thu hồi lũy kế là 3,66 tỷ USD (bao gồm lợi nhuận chuyển về nước là 1,74 tỷ USD), bằng 55% tổng số vốn đã đầu tư ra nước ngoài. PVN có số vốn đầu tư thu hồi lớn nhất với 2,63 tỷ USD; tiếp theo là Viettel với 853,41 triệu USD. Số vốn đã thu hồi của 2 doanh nghiệp này chiếm 95% tổng số vốn thu hồi từ các dự án đầu tư ra nước ngoài.

Lũy kế đến hết năm 2021, Viettel đã đầu tư ra nước ngoài gần 1,5 tỷ USD
Lũy kế đến hết năm 2021, Viettel đã đầu tư ra nước ngoài gần 1,5 tỷ USD

62 dự án có lãi, 30 dự án thua lỗ

Cũng theo báo cáo, năm 2021, có 88 dự án phát sinh doanh thu với tổng doanh thu là 7,78 tỷ USD, tăng 40% so với năm 2020. Trong đó, 62 dự án có lợi nhuận, với tổng lợi nhuận sau thuế là 810,2 triệu USD (tăng 90% so với năm 2020). Số lợi nhuận được chia trong năm của các nhà đầu tư Việt Nam là 284,82 triệu USD (tăng 166,3 triệu USD, gấp 2,4 lần năm 2020).

Bên cạnh đó, có 30 dự án bị lỗ 335,53 triệu USD (tăng 42% so với số lỗ của các dự án báo lỗ năm 2020). Số lỗ chủ yếu rơi vào các dự án viễn thông: 8 dự án lỗ 293,32 triệu USD chiếm 87%. Chủ yếu là lỗ chênh lệch tỷ giá chưa thực hiện của các dự án tại thị trường Myanmar của Viettel (246,98 triệu USD) do thị trường này có chính biến; tỷ giá biến động mạnh và lỗ kinh doanh tại thị trường Tanzania là 43,93 triệu USD do chính sách thắt chặt quản lý thông tin thuê bao và các loại thuế, phí cao.

Đến 31.12.2021, vẫn còn 44 dự án có lỗ lũy kế với tổng số lỗ lũy kế là 1,33 tỷ USD (giảm 2 dự án nhưng tăng 164 triệu USD so với năm 2020).

Theo đánh giá của Chính phủ, nhiều dự án đầu tư ra nước ngoài có chuyển biến tích cực với doanh thu và lợi nhuận tăng so với năm 2020 (tương ứng tăng 40% và 90%). Số lợi nhuận được chia trong năm của các nhà đầu tư Việt Nam và kết quả thu hồi vốn cũng tăng. Bên cạnh hiệu quả kinh tế, các doanh nghiệp thực hiện dự án đầu tư ra nước ngoài của Bộ Quốc phòng còn gắn với mục tiêu bảo đảm quốc phòng – an ninh thông qua việc thực hiện tốt trách nhiệm xã hội với chính quyền và nhân dân tại địa bàn dự án…, góp phần giữ vững, nâng cao uy tín, thúc đẩy quan hệ về kinh tế, chính trị, xã hội, ngoại giao và đối ngoại quốc phòng giữa Việt Nam với các quốc gia tiếp nhận đầu tư.

Tăng cường quản lý, giám sát

Tuy nhiên, Chính phủ cũng cho biết sự biến động về kinh tế, chính trị, xã hội và an ninh, an toàn… tại các địa bàn đầu tư; một số lĩnh vực đầu tư có độ rủi ro cao (tìm kiếm thăm dò dầu khí, khai thác khoáng sản…); các cơ chế, chính sách, pháp luật tại quốc gia đầu tư thay đổi; khả năng dự báo và xây dựng dự án đầu tư còn hạn chế… đã ảnh hưởng đến hoạt động và hiệu quả của dự án.

Cụ thể, các dự án đầu tư ra nước ngoài có lỗ phát sinh, lỗ lũy kế tiếp tục tăng. Những dự án gặp khó khăn, vướng mắc và tồn tại, tiềm ẩn rủi ro, tiếp tục chưa phát sinh thu hồi vốn đầu tư hoặc có phương án tái cấu trúc trong năm 2021. 

Để nâng cao hiệu quả đầu tư ra nước ngoài, Chính phủ kiến nghị Quốc hội thúc đẩy quan hệ ngoại giao cấp Nhà nước giữa Việt Nam với các quốc gia tiếp nhận vốn đầu tư của các DNNN, doanh nghiệp có vốn nhà nước (như tại Lào, Campuchia, Myanmar) để kiến nghị nước sở tại có chính sách ưu đãi, đầu tư nhất quán, minh bạch, tạo môi trường đầu tư ổn định, an toàn cho các doanh nghiệp Việt Nam. Chú trọng hơn về tái cấu trúc hoạt động đầu tư ra nước ngoài của các doanh nghiệp trong tổng thể thực hiện Đề án Tái cơ cấu doanh nghiệp giai đoạn 2021 – 2025. Tăng cường quản lý, giám sát hoạt động đầu tư ra nước ngoài, thu lợi nhuận về nước của doanh nghiệp…