BỨC TRANH TRIỆU USD(Đô La Mỹ) ĐẦU TIÊN CỦA VIỆT NAM LÀ TÁC PHẨM VỀ GIA ĐÌNH của hoạ sĩ Lê Phổ- Lý Đợi

Tài liệu hội hoạ

BỨC TRANH TRIỆU USD ĐẦU TIÊN CỦA VIỆT NAM LÀ TÁC PHẨM VỀ GIA ĐÌNH

Lý Đợi

Đó là bức tranh “Đời sống gia đình” của Lê PhổTác phẩm Family Life (Đời sống gia đình, mực và gouache trên lụa, 82cm x 66cm, khoảng 1937-1939) của Lê Phổ (1907-2001) đã trở thành bức tranh Việt đạt triệu USD đầu tiên trên thị trường công khai. Với giá ước đoán từ 1.800.000 đến 2.400.000 HKD, kết quả bức này bán 9.100.000 HKD (gần 1,2 triệu USD) tại Sotheby’s Hồng Kông ngày 2/4/2017. Về bố cục và kỹ thuật tranh lụa, đây có lẽ là đỉnh cao không chỉ của Lê Phổ, mà còn của cả nền tranh lụa hiện đại Việt Nam thời kỳ đầu. Phối cảnh nhiều lớp hình, viễn cận đa đạng, chi tiết tinh tế, đây là kỹ thuật và quan niệm thường thấy ở tranh sơn dầu của Tây phương, ít thấy trong tranh lụa của Đông phương. Vì vậy, từ rất sớm, bức này đã được một người Pháp sành sưu tập, lưu giữ tại tư gia hơn nửa thế kỷ mới trở lại sàn đấu giá.<!>

Nhưng có lẽ điều quan trọng bậc nhất của bức tranh là thần thái thanh thoát và bầu không khí sống động, diễn tả được đời sống an nhàn, dịu dàng. Dù mô tả cuộc sống của một gia đình thượng lưu người Việt, nhưng bức tranh không tự khu biệt vùng miền, mà mở ra một cửa sổ vào thập niên hoàng kim trước chiến tranh Việt Nam, trước thế chiến II. Nó mang đến cho người xem cái nhìn hoài cổ về một sự hiện hữu bình dị, một hạnh phúc phi biên giới.

Cái nhìn này cũng vượt lên trên thị hiếu có tính hương xa (exotic) thường tình, nơi nhiều người Tây phương cứ mặc định Việt Nam phải là nón lá áo dài, là buôn gánh bán bưng, là con trâu mái đình, là đánh giặc ngoại xâm… Lê Phổ vượt qua cái nhìn tầm thường đó để mang đến một bố cục mới mẻ và hiện đại cho tranh lụa, nơi tình mẫu tử được vẽ với biểu tượng của vẻ đẹp toàn cầu, là nền tảng của đời sống con người.

Không chỉ tiếp nhận nhuần nhuyễn chủ nghĩa lãng mạn (romantisme) và trường phái ấn tượng (impressionnisme) từ văn hóa Pháp, Lê Phổ còn học hỏi quan niệm tạo hình từ tranh khắc gỗ Nhật Bản để vẽ nên Đời sống gia đình. Kế sau chậu hoa trà mi là một thân cây to, thông thường họa sĩ Tây phương sẽ né bố cục này để dễ thông thoáng tầm nhìn, nhưng tranh khắc gỗ Nhật Bản hoặc nhiếp ảnh sau này thì không, thấy sao thì nắm bắt vậy. Sau thân cây to này là quang cảnh rộng lớn, mút tầm mắt là một tường thành trắng, với cổng tam quan, cho thấy bối cảnh thượng lưu. Hiếm có bức tranh nào của Việt Nam ở thời kỳ đầu mà phóng được tầm thấu thị xa như bức này.Bức tranh còn là một dấu chỉ của thời trang, nơi áo dài tân thời được diễn tả với nhiều tư thế tự nhiên, thoải mái, thông qua hoạt động của gần 10 nhân vật. Khái niệm áo dài Lê Phổ hình thành từ khoảng năm 1934, một kết hợp mới từ áo tứ thân với áo dài Lemur – Nguyễn Cát Tường.

hoạ sĩ Cát Tường

Đặc trưng của áo dài Lê Phổ là vạt áo khá dài và rộng, vai áo không phồng, cổ kín, nút áo cài bên phải, thân áo may ôm sát cơ thể. Kiểu áo dài này thường mặc với quần ống loe màu trắng, được nhiều phụ nữ Việt ưa thích, đến tận bây giờ vẫn còn khá phổ biến. Áo dài đơn sắc, phong phú về màu, thoát khỏi tứ thân và nâu sồng thường thấy thời bấy giờ. Xin lưu ý, bức tranh này ra đời khi áo dài tân thời còn non trẻ, còn chịu nhiều búa rìu dư luận, đã cho thấy tầm nhìn và sự tự tin của thế hệ nghệ sĩ trẻ như Lê Phổ bấy giờ.

Nhưng với một đất nước mê thời trang như Pháp, những bức tranh mới mẻ ngay lập tức được chú ý, mua, sưu tập. Chính tinh thần chuộng thời trang của người Pháp và một bộ phận người Việt lúc ấy đã góp phần làm nên nhiều tác phẩm vẽ áo dài thành công khác, ra đời trước năm 1945.

Nhanh chóng chia sẻ hành động canh tân xã hội và một phần quan niệm từ tiểu thuyết luận đề do Nhất Linh và Tự Lực Văn Đoàn khởi xướng, sau khi nghĩ ra cách may áo dài mới, Lê Phổ lập tức đưa chúng vào các minh họa báo, vào các sáng tác.

Họa sĩ Lê Phổ

Hình ảnh áo dài của Lemur – Nguyễn Cát Tường, của Lê Phổ… đã được xiển dương mạnh mẽ trên các ấn phẩm báo chí của Phong hóa (từ 1932-1936), Ngày nay (1936-1946), của Nhà xuất bản Đời nay (1933-1945)… Sự hào hứng này mang lại nhiều cảm hứng sáng tạo và thành tựu cho mỹ thuật Việt Nam thời kỳ này, với hàng chục bức tranh vẽ áo dài tiêu biểu. Đơn cử như bức Hai thiếu nữ và em bé (sơn dầu, 101cm x 78,4cm, 1944) của Tô Ngọc Vân (1906-1954) được xếp hạng bảo vật quốc gia số 65. Cũng như danh tác Thiếu nữ bên hoa huệ (1943), bức này vẽ áo dài tân thời, theo quan niệm của Lê Phổ. Một chi tiết khác cũng đáng lưu ý, đó là các người mẫu mà Lê Phổ đưa vào tranh thường ẩn danh, vì ông quan niệm họ phải thành những hình mẫu chung của vẻ đẹp Việt Nam. Nhân vật chính trong Đời sống gia đình có tỷ lệ cơ thể lý tưởng, thần thái thanh tao và vẻ mặt gợi cảm, với chân tay mảnh khảnh, dường như không xương. Cô thong dong ngồi dõi theo hành động tuy nũng nịu nhưng biết vâng lời của đứa bé trai, với chiếc áo dài tân thời được thiết kế riêng, tất cả như khoe lộ ước mơ về một nước Việt yên bình, thịnh vượng, văn hóa và thẩm mỹ cao.

Lý Đợi

Phụ đính Tranh Lê Phổ

Những kiệt tác của Danh họa Lê PhổThứ 3, 30/05/201

Họa sĩ Lê Phổ được coi là họa sĩ bậc thầy Việt Nam và trên thế giới theo trường phái hậu ấn tượng với nhiều tác phẩm đắt giá. Ông còn được nhiều người gọi là “Danh họa Việt Nam trên đất Pháp”. Nhiều người khác còn coi ông là “cây đại thụ” trong làng nghệ thuật vẽ tranh Việt Nam. Những tác phẩm của ông thường có giá cao nhất trên thị trường nghệ thuật thế giới đối với một họa sĩ Người Việt. Phần lớn các bức tranh của ông được bán đấu giá tại nhà đấu giá nghệ thuật Christie’s International Hồng Kông

Tên khai sinh:  Lê Phổ

Ngày sinh: 2 tháng 8, 1907 tại Thanh Xuân, Hà Nội

Ngày mất: 12 tháng 12, 2001 tại Pháp

Phong cách nghệ thuât:  Chất liệu chính là sơn dầu và lụa. Chủ đề chính là hoa, phụ nữ mơ màng, quý phái

Tác phẩm chính: Hoài cố hương, Kim Vân Kiều, Bức rèm tím, Thiếu phụ, Thiếu nữ bên hoa lan, Tĩnh vật, Paysage du Tonkin, Bình hoa mẫu đơn, Lòng mẹ, Giai nhân màu áo nắng.

Họa_sĩ_Lê_Phổ

Họa sĩ Lê Phổ

Ông sinh ra tại thôn Cự Lộc, xã Nhân Chính, huyện Từ Liêm phủ Hoài Đức, tỉnh Hà Đông, về sau là huyện Hoàn Long, (nay thuộc quận Thanh Xuân, Hà Nội). Cha họa sĩ Lê Phổ là quan đại thần Lê Hoan, người được sử sách xem là có công lao giúp chính quyền thực dân Pháp đàn áp nghĩa quân Đề Thám. Tuổi thơ họa sĩ Lê Phổ không hạnh phúc, mồ côi mẹ lúc 3 tuổi và mô côi cha lúc 8 tuổi. Năm 1937, ông sang Pháp và định cư tại đó. Họa sĩ Lê Phổ cưới vợ người Pháp là bà Paulette Vaux, phóng viên báo Life & Time ở Paris vào năm 1947. Bà Vaux, vợ họa sĩ cho biết: “Ông không kể với con cái về tuổi thơ của mình, ông trầm lặng và sống nội tâm. Ông không nhớ gì về cha mình ngoại trừ việc biết cha mình hút thuốc phiện”. Với thân thế được sinh ra trong gia đình thế tục, họa sĩ Lê Phổ có lối sống thiên về nội tâm với tính cách nhạy cảm, tinh tế. Họa sĩ có dáng người cao, gầy, mắt luôn nhìn xa vắng, ít nói, giọng nói thanh tao và luôn mặc những bộ quần áo là phẳng phiu.

Năm 1925, họa sĩ Lê Phổ trúng tuyển khoá 1 Trường Đại học Mỹ thuật Đông Dương. Ông là một trong 10 sinh viên Việt Nam được giáo sư Victor Tardieu (một họa sĩ am hiểu sâu sắc các trường phái nghệ thuật châu Âu) xếp vào nhóm sinh viên “tinh hoa” của khóa học và đồng thời hướng đi theo trường phái nghệ thuật Á Đông trong suốt 5 năm học. Họa sĩ Lê Phổ đã chịu ảnh hưởng rất sâu sắc trường phái nghệ thuật này khi còn là chàng thanh niên Hà Nội 18 tuổi. Trong mộc cuộc phỏng vấn, vợ ông, bà Vaux cho biết: “Họa sĩ xem giáo sư Tardieu giống như cha tinh thần. Ông ngưỡng mộ và rất gần gũi với Tardieu. Tardieu đã đặt nền móng cho những thành công trong hội hoạ của ông”.

Bức “Nhìn từ đỉnh đồi” vẽ năm 1937 đạt mức giá 840.000 đô la Mỹ (~18,3 tỉ đồng) hôm 22/11/2014 trong cuộc bán đấu giá tại nhà đấu giá nghệ thuật Christie’s International Hồng Kông. Đây là kỷ lục mới về tranh đắt nhất của một họa sĩ người Việt

Năm 1928, ông cùng với các họa sĩ Vũ Cao Đàm, Mai Trung Thứ tổ chức triển lãm tranh đầu tiên tại Hà Nội. Năm 1931, họa sĩ Lê Phổ sang Pháp để trang trí một số triển lãm ở Paris. Sau đó 1 năm, ông được cấp học bổng sang học tại Trường Mỹ thuật Paris. Do đó, ông có điều kiện tìm hiểu nhiều nước châu Âu, tiếp xúc và làm quen với nhiều trường phái nghệ thuật, trong đó trường phái Ấn tượng đã ảnh hưởng đến các tác phẩm nghệ thuật sau này của họa sĩ. Năm 1933, họa sĩ trở về Hà Nội tham gia giảng dạy ở Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương.

Năm 1937, họa sĩ lại sang Paris, trung tâm nghệ thuật của châu Âu để phụ trách gian hàng Đông Dương tại triển lãm quốc tế. Tại Pháp, ông thực sự bị cuốn hút với vẻ đẹp hoa lệ và các trường phái nghệ thuật đa dạng, do đó họa sĩ đã xin định cư tại đất nước hình lục lăng. Năm 1938, lần đầu tiên họa sĩ Lê Phổ tổ chức triển lãm phòng tranh của riêng cá nhân mình với các tác phẩm như tranh vẽ các người đẹp Việt Nam hoặc đang say sưa bên rực rỡ các sắc hoa, hoặc đang mơ màng bên trang sách; hoặc tranh thiếu nữ đọc thư tình trong vườn, những cô gái đang phơi áo… được công chúng phương Tây đón nhận nồng nhiệt.

Bức tranh ”Những chú chim” được mua với giá 625.000 đô la Hồng Kông (hơn 1,7 tỷ đồng)

Năm 1963, ông hợp tác cùng phòng tranh Wally Finday, Mỹ tổ chức vài buổi triển lãm tranh. Phòng tranh cũng chính là nơi ông giới thiệu và công bố các tác phẩm của mình ra khắp thế giới.

Họa sĩ Lê Phổ cho rằng các chất liệu tranh lụa có một số nhược điểm không chỉ về khuôn khổ mà về chất liệu màu sắc chưa bộc lộ những lời tác giả muốn thể hiện. Đó là lý do ông đã chuyển sang vẽ tranh sơn dầu. Ngoài việc thay đổi chất liệu vẽ, nội dung được ông nhắc tới cũng mở rộng, phóng khoáng và thoải mái hơn. Ví dụ rõ nét đó là người phụ nữ trong tranh của họa sĩ dần vượt ra ngoài lễ giáo ngàn năm để mang một sắc màu “thế tục”.

Tranh Lê Phổ giàu tính biểu cảm, đề tài và lối thể hiện vừa gần gũi, chân thực, nhưng cũng rất đài các, cao sang. Màu tươi sáng, hấp dẫn thị giác nên được phần đông giới thưởng ngoạn yêu thích. Tranh của Lê Phổ có “khí chất” Á Đông rất rõ, và riêng biệt, không bị trộn lẫn, nên được nhiều khách phương Tây sưu tầm. Ông đã vận dụng rất khéo các chủ đề phổ quát của văn hóa phương Tây – nhất là chủ đề từ kinh thánh, rồi lồng ghép vào khung cảnh Á Đông, hoặc Việt Nam.

Bức “Bức màn tím” của

Bức “Bức màn tím” vẽ từ 1942-1945 đã được bán đấu giá với mức giá 2,9 triệu đô la Hồng Kông

(hơn 8 tỉ đồng) vào tháng 4/2012, tại Hồng Kông

Về tính lịch sử, tranh của ông ra đời trong thời kỳ nền mỹ thuật hiện đại Việt Nam mới chân ướt chân ráo bước ra thế giới, nhất là mảng tranh trước 1945. Ông học khóa đầu tiên của Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương, tiên phong tiếp thu nền hội họa phương Tây để rồi cũng là một trong những người đầu tiên đưa nền nghệ thuật Việt Nam hiện đại ra thế giới. Tác phẩm của Lê Phổ đã được đấu giá thường xuyên trên các nhà đấu giá lớn, nên tranh ông đã có thị trường ổn định, rộng khắp châu Âu, châu Mỹ, châu Á, có một lượng các nhà sưu tập nhất định. Khi ông qua đời, tranh ngày càng hiếm (trừ khi bị nạn nhái tranh, chép tranh phá hỏng), nên giá phải cao lên.

Tranh của ông có thể nói là đại diện cho mỹ thuật Đông Dương nói chung và nhất là của “bộ tứ” tại Pháp, gồm Lê Phổ, Mai Trung Thứ, Vũ Cao Đàm, Lê Thị Lựu. Trong suốt cuộc đời của mình, dù định cư tại Pháp từ năm 1937 và từ đó không còn về thăm lại quê hương, họa sĩ Lê Phổ luôn nhắc về những tình cảm sâu đậm của mình với quê hương, đất nước. Trong tranh của ông, những đặc trưng về Việt Nam, Á Đông được thể hiện qua nét vẽ những người phụ nữ hoà mình với tự nhiên và trẻ thơ. Một hình ảnh khác thường xuất hiện là những bông hoa. Nhà phê bình Waldemar nhận xét Lê Phổ thể hiện nỗi nhớ quê hương bằng hàng ngàn bông hoa. Bà Vaux, vợ ông tâm sự: “Ông yêu hoa, và hoa luôn xuất hiện trong tranh của ông ở cả hai giai đoạn trong tranh lụa và sơn dầu”.

Vào tháng 9 năm 1993, khi tuổi đã cao, họa sĩ Lê Phổ bày tỏ lòng biết ơn sâu nặng bằng một “món quà”. Họa sĩ nói: “Tôi ở Pháp 60 năm nay, tôi mang quốc tịch Pháp nhưng không lúc nào tôi không nhớ đến quê hương. Vì thế tôi đã để riêng ra 20 bức tranh lựa chọn rất cẩn thận để biếu Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam”.

 Một số tác phẩm tiêu biểu khác của Họa sĩ Lê Phổ

Bức “Hái cây thuốc” củahọa sĩ Lê Phổ, vẽ năm 1932.

Bức “Chân dung thiếu phụ và hoa sen” vẽ năm 1939, đạt mức giá 1.240.000 đô la Hồng Kông (gần 3,5 tỉ đồng)

Bức “Hái cây thuốc” củahọa sĩ Lê Phổ, vẽ năm 1932.

 
Bức “Gia đình nhỏ” vẽ năm 1940. Tác phẩm từng đạt mức giá 740.000 đô la Hồng Kông (2 tỉ đồng) 

Bức “Mẹ và con” từng đạtmức giá 1.160.000 đô la Hồng Kông (hơn 3,2 tỉ đồng).

Bức “Mẹ và con” từng đạt mức giá 1.160.000 đô la Hồng Kông (hơn 3,2 tỉ đồng)

Bức “Đi tắm” được thựchiện năm 1937-1938, có giá 562.500 đô la Hồng Kông (gần 1,6 tỉ đồng).

Bức “Đi tắm” được thực hiện năm 1937-1938, có giá 562.500 đô la Hồng Kông (gần 1,6 tỉ đồng)

Bức “Hái cây thuốc” củahọa sĩ Lê Phổ, vẽ năm 1932.

Bức “Hai chị em gái” được thực hiện năm 1940 đạt mức giá 250.000 đô la Hồng Kông (hơn 700 triệu đồng) 

”Tĩnh vật với hoa quả”  vẽ năm 1963, đã được bán thành công với giá 350.000 HKD (khoảng 955 triệu đồng) 

”Nắng trong nhà”  – 225.000 HKD (614 triệu đồng)

”Nho và rượu vang” vẽ những năm 1950, được mua với giá 200.000 HKD (gần 546 triệu đồng)

Bức “Chân dung một cậubé Việt Nam” từng đạt mức giá 225.000 đô la Hồng Kông (631 triệu đồng).

Bức “Chân dung một cậu bé Việt Nam” từng đạt mức giá 225.000 đô la Hồng Kông (631 triệu đồng)

Bức “Hái cây thuốc” củahọa sĩ Lê Phổ, vẽ năm 1932.

Bức “Hái cây thuốc”  vẽ năm 1932 

Bức “Hoa loa kèn” của họasĩ Lê Phổ có giá 187.500 đô la Hồng Kông (526 triệu đồng).

Bức “Hoa loa kèn” có giá 187.500 đô la Hồng Kông (526 triệu đồng)

Tác phẩm ”Hoài cố hương” có giá bán khoảng 360.000 Đô La Singapore (tương đương 4,7 tỷ đồng)

Tác phẩm “Cô gái với khăn quàng cổ xanh”

Loạt tranh về hoa của họasĩ Lê Phổ.

Tranh tĩnh vật

Chân dung Họa sĩ Lê Phổ những năm 1970

Share this:

Thích bài này:

Thích

Đang tải…