vhal051

Về Văn
Học:


Những sinh hoạt thi văn đàn
đã phát sinh rất thịnh hành tại Tây Ninh mang vào lịch sử
của tỉnh này bao nhân tài văn thơ. Dù hoạt động của họ
về thi văn khá nổi bật trong địa bàn miền nam. Đầu thế
kỷ 19, khi nền văn học chữ quốc ngữ được phát triển
thì nhóm nhà thơ tiền bối Tây Ninh ra đời năm 1915, họ họp
nhau lại làm thơ, họa thơ và ngâm thơ. Những nhân vật tiêu
biểu là cụ Đốc phủ Tô Ngọc Đường, cụ Hương cả Huỳnh
Văn Tâm, cụ Hương lễ Võ Văn Sâm gọi tắt là Võ Sâm là
nhưng gương mặt lãnh đạo thi đàn. Cụ Võ Sâm trở thành
nhân sĩ đại biểu cho Tây Ninh, cụ cũng là soạn giả biên
khảo quyển “Thi Phú Văn Từ” được giới văn học thời bấy
giờ trọng nể. Nối tiếp nhóm Thi Đàn của cụ Võ Sâm là
Văn Đàn Quốc Biểu của cụ Nguyễn Văn Hiến. Nhóm Quốc
Biểu sinh hoạt văn học họp nhau định kỳ mỗi tuần trao
đổi văn thơ. Họ họp nhau tại Gò Chẹt tại Tây Ninh. Nhóm
này quy tụ khá nhiều thi văn hữu như quý ông: Thanh Vân, Nguyễn
Toại Chí, Thanh Phong, Nguyễn Văn Trí, Lâm Tuyền, Võ Trung Nghiã,
Võ Văn Tấn, Sầm Sơn, Nguyễn Văn Vàng, Du Tử, Mai Huê, Lê
Văn Thành, Nhà Quê, Dương Văn Kim, Nhất Thiện,…

Một
trong những sinh hoạt nổi bật là nhóm của quý cụ tiền
bối Võ Sâm và Tô Ngọc Đường xướng họa cùng nữ sĩ Sương
Nguyệt Anh của tỉnh Bến Tre. Bà là con gái của cụ Đồ
Nguyễn Đình Chiểu. Nhân dịp xuân tân niên Tân Sửu 1901,
làng thơ Tây Ninh tổ chức hội thơ tại Điện Núi Bà hay
Linh Sơn Thánh Mẫu, nơi thắng cảnh thiên nhiên rất hùng vỹ,
uy nghi, trước những hàng mai trắng đang trổ hoa mừng xuân,
nữ sĩ Thụy Khuê Sương Nguyệt Anh cảm tác ba bài thơ mà
tôi xin trích hai bài tiêu biểu là “Thưởng Bạch Mai Cảm Đề”
và “Linh Sơn Nhất Thụ Mai” đề tặng làng thơ Tây Ninh để
tạ lòng lời mời của các thi nhân nặng tình thi phú Tây
Ninh và Bến Tre như sau:

“Non Linh đất phuớc trổ hoa
nhân

Riêng chiếm vườn hồng một
cảnh xuân

Tuyết đượm nhành tiên in
sắc trắng

Sương pha bóng nguyệt ánh
màu ngân

Mây lành gió lạnh nương hơi
chánh

Vóc ngọc mình băng hắt khói
trần

Sắc nước hương trời nên
cảm mến

Non linh đất phước trổ hoa
thần.

(“Thưởng Bạch Mai Cảm Đề”)

Và bài thơ Đường bằng hán
tự khi xuân về tại Linh Sơn mà nữ sĩ Thụy Khuê cảm tác:

“Quỳnh tư ngọc cốt bản thiên
chân

Tịnh độ cô liêu viên tục
trần

Noãn nhập ám hương xuân dật
từ

Hàn xung sơ ảnh nguyệt tà
thần

Tuyết trung tự khước lưu
phong vận

Phong ngoại ưng liên đạp
tuyết nhân

Thừa hứng mạc hiếm sơn
thủy viễn

Đồng lai dữ tử phú dương
xuân”.

(“Linh Sơn Nhất Thụ Mai”)

Bài thơ trên được thi sĩ
Hi Đạm của Tây Ninh chuyển ngữ sang nghiã Việt:

“Ngọc quỳnh cốt cách trời
ban

Đất tịnh trơ vơ lánh thế
gian

Ấm áp hương đầm xuân buổi
sớm

Lạnh lùng bóng nhạt nguyệt
đêm tàn

Nghĩ thân ánh tuyết hơi sương
đượm

Thương kẻ hài sương gót
tuyết chan

Mến cảnh nước non xa chớ
ngại

Cùng lên ngâm vịnh tứ xuân
tràn.”

Tóm lại Tây Ninh cũng như bao
tỉnh khác có những cái chung và riêng trong lịch sự cấu
tạo thành lãnh thổ Việt Nam. Bao thế hệ đi trước đổ
mồ hôi, đổ xương máu khai phá đất đai thành vùng đất
trù phú từ một vùng đất chỉ có rừng rậm. Viết những
lời này ra đây tôi muốn tri ân tình quê hương đậm đà
đã cho tôi chào đời và đầy ắp kỷ niệm quê hương khi
tắm nước sông Vàm Cỏ Đông, những kỷ niệm chèo ghe chòng
chành trên sông với các bạn địa phương, những kỷ niệm
khó quên của miệt đồng quê tại nơi mà tôi gọi là quê
hương, nó xao xuyến, ngọt ngào như những dòng nước mưa
rào đổ xối xả của những ngày tắm mưa vô tư lự trên
những con đường đất đỏ lầy lội, để kỷ niệm hiện
về quyện lấy tâm thức tôi cả một cuộc đời này, nó
sẽ mãi như lời của bài hát mà nhạc sĩ Quách Nam Dung từ
bên vùng nam cực của xứ Úc Đại Lợi đã viết tặng cho
quê tôi với bao ân tình non sông gấm vóc trong lời nhạc sau
đây:

“… Linh Sơn cheo leo, núi thiêng
chốn xưa, tiếng kinh vắng xa

Tây Ninh thân yêu, giấc mơ
thiết tha, sống trong thái hòa

Ai qua nơi đây, nhớ Thánh
Mẫu xưa, hiển linh…”

(“Tây Ninh Quê Tôi”, Quách Nam
Dung)

Sau cùng, tôi muốn mượn những
câu thơ tiêu biểu của thi sĩ Bửu Đà diển tả qua bài “Tây
Ninh Cảm Tác” là:

“Tây Ninh là tỉnh hiền lương

Bên đời, bên đạo tình thương
đậm đà

Trời thương đất lợi người
hòa

Tinh thần hướng thiện trên
đà nghiã nhơn.”

Với bao nỗi nhớ về quê xưa,
hôm nay tôi ngồi đây bằng dòng viết này cách quê tôi 22
ngàn dặm hay nửa quả địa cầu, tôi chạnh lòng cảm tác
lại quê tôi qua bài thơ “Nhớ về quê tôi”:

“Vàm Cỏ Đông nước chảy
hiền hòa

Đồng lúa vàng gợi nhớ tình
ta

Con diều căng gió khung trời
xưa

Quê hương bao phủ ánh chiều


Chim trời soải cánh về chốn


Núi Bà hùng vĩ áng mây xa

Hỏi ai vương vấn mộng bồi
hồi?

Đếm nhớ thương ôi sao đậm
đà!”

Việt Hải

Tây Ninh, quê tôi đó, nơi mà
người dân làm lụng cần cù lại mang đặc tính hiền hòa
để tôi mãi mãi nhung nhớ về Gò Dầu, về Tây Ninh và vui
sướng được nhìn nhận như một người con của vùng đất
quê tôi. Mỗi con người được sinh ra ở một miền nào đó,
dù phì nhiêu hay nghèo khổ, dù được thiên nhiên đãi ngộ
hay không thì nó vẫn là quê hương. Nếu Việt Nam của tôi
là một đất nước thiêng liêng luân lưu trong dòng huyết
quản, đẹp đẽ về địa lý và văn hóa, thì Tây Ninh của
tôi cũng trong sáng trong hai yếu tố đặc trưng đó: Chỉ vì
Việt Nam và Tây Ninh đều là quê hương tôi, và tôi đã gắn
bó bằng từng thớt thịt, bằng khối óc, bằng con tim hay
bằng với cả hai yếu tố đặc trưng đã nêu từ tiềm thức
xa xưa của thuở thiếu thời và của hoài niệm đã qua sẽ
mãi mãi ngự trị trong tâm hồn tôi, cho nỗi niềm ấp ủ
mang theo trong lòng người con lưu lạc của quê hương đã thật
sự xa xôi cách trở vì địa lý, để Tây Ninh quê tôi vĩnh
viễn trong nhớ nhung và trong nhớ thương.

Trần
Việt Hải

Mùa
Hè 2004 tại Nam California