Văn hóa tranh luận

Theo tôi, một trong những vấn đề cấp thiết nhất hiện nay, ở đầu thế kỷ 21 này, cả ở trong lẫn ở ngoài nước, là phải xây dựng cho được một thứ văn hoá tranh luận, tức những nguyên tắc trí thức và đạo đức căn bản để dựa vào đó người ta tiến hành tranh luận cũng như đánh giá các cuộc tranh luận. Chưa có văn hoá tranh luận, tất cả những nỗ lực tranh luận đều chỉ có tác dụng duy nhất là tạo ra những tiếng ồn, chứ không mang lại một lợi ích cụ thể gì cả: sau các cuộc tranh luận, không có gì được sáng tỏ thêm. Những cái sai và những cái nhảm vẫn tiếp tục tồn tại một cách hiên ngang, hơn nữa, còn lặp đi lặp lại ở những nơi khác, những cuộc tranh luận khác cũng một cách rất ư hiên ngang.

Những nguyên tắc căn bản của văn hoá tranh luận, về phương diện lý thuyết, không có gì quá phức tạp, hầu như người có học thức nào cũng biết, tuy nhiên, có lẽ do chưa bao giờ được bàn luận một cách công khai, thẳng thắn và rõ ràng, những cái biết ấy phần lớn chỉ dừng lại ở mức tự phát và do đó, về phương diện thực hành, hiếm khi nhất quán, lúc nhớ, lúc quên. Cho nên, dù không mới, theo tôi, chúng ta cũng nên nhắc lại, một lần, những nguyên tắc căn bản ấy:

Thứ nhất, ai cũng biết, tranh luận là “tranh” thắng bằng lý luận. Lý luận là bản chất của tranh luận: chính thứ vũ khí lý luận này phân biệt một cuộc tranh luận và một cuộc chửi lộn. Trong các cuộc chửi lộn, người ta không cần lý luận, người ta chỉ cần ném ra ào ạt các lời buộc tội, bất chấp có bằng chứng hay không, nhằm triệt hạ tư cách nhà văn hay nhà phê bình hay nhà lý luận hay bất cứ một thứ “nhà” nào đó của đối thủ. Tranh luận thì khác. Trong các cuộc tranh luận, người ta chỉ được quyền sử dụng một thứ vũ khí duy nhất: lý luận. Như trong bóng đá, người ta chỉ được quyền dùng chân để bắt bóng và phát bóng. Đụng tay vào là phạm luật. Như trong quyền Anh, người ta chỉ được quyền dùng tay để đánh. Co chân đạp đối thủ là phạm luật. Cũng vậy, trong tranh luận, người ta có thể công kích người khác một cách vô cùng mạnh bạo, thậm chí, tàn bạo; không sao cả, nhưng với một điều kiện: bằng lý luận. Ngược lại, bất cứ khi nào người ta không còn lý luận nữa, bất cứ khi nào người ta phải sử dụng đến các thứ phương tiện khác, từ việc nhân danh lòng nhân đạo hay tình cảm yêu nước đến việc cầu cứu uy tín của người này của kẻ nọ, người ta trở thành một kẻ ăn gian. Nên lưu ý là hình thức “ăn gian” bằng cách sử dụng đến quyền lực tinh thần của người khác là một cách “ăn gian” rất phổ biến ở Việt Nam. Thay vì lý luận bằng cái đầu của chính mình thì người ta có thói quen chứng minh tính “chân lý” của một nhận định nào đó bằng cách trích dẫn ra một câu nói của một lãnh tụ, một danh nhân, hoặc đơn giản hơn, một câu tục ngữ nào đó. Ở những nơi khác, trong loại văn học thuật, người ta cũng khuyến khích trích dẫn, nhưng với mục đích hoàn toàn khác: để thêm một bằng chứng hay để phân tích lịch sử vấn đề cũng như tính chất đa dạng trong cách lý giải vấn đề; để người đọc hình dung được bối cảnh nghiên cứu vấn đề, từ đó, biết được những sự tiếp thu cũng như những sự sáng tạo, nếu có, của tác giả bài viết. Ở Việt Nam, ngược lại, việc trích dẫn thường được xem như cách thức sử dụng một quyền lực: Khổng Tử đã nói như thế… Lenin đã nói như thế… Hồ Chí Minh đã nói như thế… Từ điển bách khoa toàn thư Encarta đã nói như thế… vậy thì “chân lý” là như thế, không còn hoài nghi gì nữa. Nếu bí quá, không tìm ra được một câu nói nào tương hợp thì người ta… bịa ra câu nói ấy và gán đại cho một nhân vật lịch sử nào đó. Như một thứ bùa.

Thứ hai, đối tượng của tranh luận là các luận điểm. Nói đến luận điểm là nói đến cả hệ thống quan điểm, trong đó các ý tưởng đan kết với nhau trên một nền tảng lý thuyết và phương pháp luận nhất định. Một sự phê bình toàn diện và triệt để nhất là sự phê bình nhắm vào chính nền tảng lý thuyết và phương pháp luận ấy; nếu không, nó phải phê bình các nhận định của tác giả trên chính cái nền tảng lý thuyết và phương pháp luận mà người ấy đã lựa chọn, nói cách khác, phải xét xem, từ một góc nhìn như thế, với một phương hướng tiếp cận như thế, tác giả có nhất quán và có đi đến tận cùng mạch lý luận của họ hay không, và kết luận mà tác giả ấy rút ra được có gì mới lạ so với những gì người khác đã biết hay không. Việc tuân thủ nguyên tắc này giúp ngăn chận cảnh ông nói gà bà nói vịt trong tranh luận; hơn nữa, nó cũng ngăn chận được tình trạng, thay vì tập trung vào các luận điểm chính, chỉ cãi cọ lằng nhằng ở cấp độ tiểu tiết, với những câu, chữ không có ý nghĩa gì đáng kể trong cấu trúc chung của bài viết. Cuối cùng, nguyên tắc này cũng góp phần ngăn chận một thói quen đáng tiếc là cố tình đơn giản hoá các luận điểm của người khác, biến chúng thành ngô nghê để vừa tầm cho mình phản bác. Thói quen ấy hẳn xuất phát từ loại văn chương tuyên truyền kéo dài dai dẳng cả hơn nửa thế kỷ vừa qua: theo đó, ở bên này hay bên kia “chiến tuyến”, người ta không được phép đọc nhau nhưng lại được lệnh là phải đả kích nhau, và với một mục đích đầy “chính nghĩa” như thế, người ta có thể an tâm đả kích địch thủ theo cái hình ảnh mà mình xuyên tạc hoặc tưởng tượng. Như thế, người ta tha hồ rút tư tưởng của Michel Foucault hay của Roland Barthes, chẳng hạn, vào một vài câu rồi ngúng nguẩy chê là… thô thiển; và người ta cũng có thể hùng hồn cho chủ nghĩa hậu cấu trúc hoặc giải cơ cấu là… dở hơi dù chưa hề đọc bất cứ một tác phẩm nào của Jacques Derrida hay của Paul de Man; có thể lớn tiếng cho văn chương hậu hiện đại là nhảm nhí dù chưa hề đọc bất cứ một luận văn nào của Jean-François Lyotard, của Fredric Jameson hay bất cứ sáng tác nào của John Barth, của Thomas Pynchon hay của Kurt Vonnegut, v.v…

Thứ ba, bởi vì nhắm vào đối tượng là các luận điểm, tranh luận là một cuộc chiến đấu khá trừu tượng. Đó là cuộc chiến đấu với những ý tưởng. Chính vì thế, đó cũng là một cuộc chiến đấu đầy tính chất duy lý, ở đó chỉ có lý chứ không có tình. Người Việt Nam vốn trọng tình: trong các lãnh vực khác tôi không biết thế nào nhưng trong tranh luận, đó là một khuyết điểm. Một mặt, nó khiến chúng ta ít khi đi đến cùng mạch lý luận của mình, dễ dàng thoả hiệp trước những sự dị biệt trong tư tưởng, trở thành những kẻ ba phải, mặt khác, phổ biến hơn, nó lại làm chúng ta dễ trở thành lu loa, sướt mướt hoặc phẫn nộ không đúng chỗ.

Cuối cùng, thứ tư, nếu tranh luận là chiến đấu với các luận điểm thì điều kiện đầu tiên và không chừng quan trọng nhất của người tranh luận là phải đọc kỹ và hiểu đúng các luận điểm mình định phê phán. Không đọc kỹ và không hiểu đúng mà đã phê phán, người ta dễ trở thành những kẻ xuyên tạc và vu khống dù động cơ chính là sự bất cẩn hay kém cỏi chứ không phải vì ác ý. Hơn nữa, tham gia tranh luận, người ta không những cần phải đọc kỹ và hiểu đúng bài viết mình định phê phán mà còn cần phải có một số hiểu biết nào đó liên quan đến vấn đề mà bài viết ấy đề cập. Hai khía cạnh này có quan hệ mật thiết với nhau: không ai có thể hiểu trọn vẹn một bài viết nếu đó là bài viết duy nhất mà người ta được đọc về một đề tài nào đó. Văn bản, thật ra, bao giờ cũng là một liên văn bản: một chữ ở bài viết này có khi chỉ được sáng lên nhờ một chữ ở bài viết kia. Bởi vậy, tôi cho là một hành động thiếu nghiêm túc nếu người ta lao vào một cuộc tranh luận khi chưa kịp chuẩn bị cho mình những kiến thức tối thiểu và cần thiết về vấn đề mình sẽ tranh luận (1).

Những nguyên tắc vừa trình bày, được đúc kết với dụng ý để được mọi người – hoặc ít nhất là giới cầm bút – đồng tình, chắc chắn không phải là những gì mới lạ. Nhưng đó là những điều chúng ta thường hay quên. Có khi cả một đất nước quên. Và có khi cả hai hay ba thế hệ cùng quên.

Thực vậy, nếu đọc lại các bài tranh luận giữa Phan Khôi và Phạm Quỳnh, giữa Phan Khôi và Trần Trọng Kim về các vấn đề liên quan đến quốc học và Nho giáo vào đầu thập niên 30 (3), chúng ta có thể thấy, mặc dù thỉnh thoảng họ vấp phải những khuyết điểm hết sức sơ đẳng về kiến thức cũng như về lập luận, nhưng tinh thần tranh luận chung thì bao giờ cũng nghiêm túc và chững chạc, rất người lớn. Rõ ràng là thời ấy, thuở bình minh của nền tân học, người ta đã có một thứ văn hoá tranh luận khá hoàn chỉnh. Thế nhưng điều lạ là cái văn hoá ấy cứ dần dần bị mai một đi. Phần lớn các cuộc tranh luận văn học từ giữa thập niên 30, đặc biệt từ sau năm 1945 đến nay, ở miền Nam cũng như ở miền Bắc, ở trong nước cũng như ở ngoài nước, đều có cái vẻ gì như bần tiện, nhếch nhác và thảm hại hơn hẳn. Tại sao?

Tôi nghĩ lý do chính là vì… chính trị.

Trong nửa đầu thập niên 1930, hầu hết các cuộc tranh luận đều mang tính chất cá nhân, chỗ dựa duy nhất của mỗi người là kiến thức và khả năng lý luận. Từ giữa thập niên 1930 về sau, bắt đầu từ cuộc tranh luận giữa hai phái gọi là nghệ thuật vị nghệ thuật và nghệ thuật vị nhân sinh, các đảng phái chính trị nhảy vào các sinh hoạt văn học nghệ thuật. Tranh luận văn học, với họ, trở thành một cuộc tranh đấu chính trị, qua đó, họ nhắm đến việc tuyên truyền cho chủ thuyết của họ và tập hợp lực lượng hơn là chỉ dừng lại ở phạm vi văn học (4). Tình trạng ấy càng phát triển mạnh mẽ sau năm 1945, khi, trong các cuộc chiến tranh kéo dài và vô cùng kịch liệt, giới cầm quyền Việt Nam, thuộc những chế độ và với những ý thức hệ khác nhau, đã phải huy động tất cả mọi lực lượng và mọi phương tiện để dành chiến thắng. Hậu quả là hầu như toàn bộ đời sống xã hội đều bị chính trị hoá. Chính trị xen vào các hoạt động tín ngưỡng, lấn vào giáo dục, chi phối cả các hoạt động nghiên cứu khoa học. Hoạt động văn học, dĩ nhiên, càng chịu ảnh hưởng của chính trị một cách sâu sắc. Ở phương diện này, chính trị không những chỉ làm thay đổi cách viết mà còn làm thay đổi cả cách nhìn và cách nghĩ của chúng ta. Biểu hiện quan trọng hơn cả không chừng là thói quen phân tuyến theo lối “địch” và “ta” và tư tưởng “ai thắng ai”. Ngày xưa, tranh luận với nhau, Trần Trọng Kim và Phan Khôi chỉ nhìn thấy nhau, hoặc có khi, cụ thể hơn, chỉ nhìn thấy bài viết của nhau. Sau này, tranh luận với nhau, người ta không chỉ thấy nhau mà còn thấy, phần lớn chỉ thuần là tưởng tượng, cả lực lượng chính trị trùng trùng điệp điệp sau lưng đối thủ của mình. Tranh luận, do đó, không còn nhằm làm sáng tỏ một vấn đề gì mà chủ yếu là nhằm tiêu diệt cả cái lực lượng chính trị thù nghịch mà người đối thoại với mình chỉ là một đại diện. Không khí tranh luận, do đó, bao giờ cũng hừng hực, cũng sôi sục nhiệt tình, cái nhiệt tình của thời chiến. Nhưng chính cái nhiệt tình kiểu ấy đã giết chết tranh luận, biến tranh luận thành một hoạt động thuần tuý tuyên truyền: thay vì cố gắng làm sáng tỏ một điều chưa biết, chúng ta thường chỉ hài lòng với việc khẳng định đi khẳng định lại những “chân lý” đã cũ mèm; thay vì chỉ sử dụng lý trí, chúng ta huy động cả các yếu tố tình cảm để dễ dàng kích động tinh thần của người đọc với hy vọng thành lập được một trận tuyến càng đông càng tốt. Hơn nữa, xuất phát từ quan niệm “địch/ta” và “ai thắng ai”, người ta dễ biến cuộc tranh luận thành một trò ẩu đả, theo đó, đối tượng chính mà họ nhắm tới không phải là một quan điểm mà là một con người; mục tiêu chính không phải là tìm kiếm một chân lý mà là bôi bẩn một cá nhân; tinh thần chính không phải là xây dựng mà là triệt hạ. Cuối cùng, cũng xuất phát từ quan niệm “địch/ta” và “ai thắng ai” ấy, người ta có thể tự cho phép mình làm những hành động đê hèn nhất như vu khống và chụp mũ với lý do là mọi thủ đoạn đều được xem như những chiến thuật cần thiết trong một cuộc đấu tranh.

Theo tôi, ngoài những nguyên nhân khác có thể có, chính cách nhìn phân tuyến “địch/ta” và tâm lý đấu tranh “ai thắng ai” như là kết quả của xu hướng chính trị hoá toàn bộ đời sống tinh thần của Việt Nam trong hơn nửa thế kỷ vừa qua đã dần dần phá nát văn hoá tranh luận.

Chú thích:

Tiếc thay, đây lại là một hiện tượng khá phổ biến trong sinh hoạt văn học Việt Nam. Nếu bị phê bình, người ta thường dùng luận điệu giống nhau để trả lời: “thì phóng bút viết chơi thôi mà!” Đẩy luận điệu này đến cùng, theo tôi, người ta sẽ, thứ nhất, biến thế giới văn chương thành nơi ai cũng có thể chõ miệng vào tán nhảm; thứ hai, hạ tiêu chuẩn của một nhà văn xuống thấp hơn cả tiêu chuẩn của một sinh viên năm thứ nhất, kẻ bị đòi hỏi phải luôn luôn tham khảo kỹ càng trước khi đặt bút viết, ngay cả một bài luận văn bình thường nộp trong lớp.

Trường Chinh (1974), Chủ nghĩa Mác và văn hoá Việt Nam (bản in lần thứ hai), nxb Sự Thật, Hà Nội, tr. 19-20.

  1. Xem thêm bài “Tính chất thuộc địa và hậu thuộc địa trong văn học Việt Nam” in trong cuốn sách này. Cũng có thể xem thêm bài “Tiến tới một nền văn chương Việt Nam hoàn cầu hoá” của Hoàng Ngọc-Tuấn đăng trên tạp chí Việt số 6, giữa năm 2000, đặc biệt các trang 82-85.
  2. Về cuộc tranh luận giữa hai “phái” nghệ thuật vị nghệ thuật và nghệ thuật vị nhân sinh, có thể xem cuốn Nhìn lại cuộc tranh luận nghệ thuật 1935-1939 do Nguyễn Ngọc Thiện, Nguyễn Phúc và Nguyễn Đăng Điệp biên soạn, Hà Minh Đức giới thiệu, nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1996.