Trang phục truyền thống của dân tộc Ê Đê

TRANG PHỤC NỮ DÂN TỘC Ê ĐÊ

Phụ nữ Êđê mặc loại áo cánh ngắn, may kiểu chui đầu. Không giống như áo chui đầu của phái mạnh, áo chui đầu của phụ nữ khoét cổ cao hơn, lan rộng ra cổ để chui đầu ở phía vai, có đơm thêm vài hàng khuy để cài .

Thiếu nữ Ê Đê

Bàn tay khéo léo của phụ nữ Êđê được thể hiện qua những đường may sợi chỉ, họ đã kết hợp những đường viền và các dải hoa văn nhỏ bằng sợi chỉ màu đỏ, trắng hoặc vàng. Loại áo sang và đẹp gọi là áo đếch theo tên của dải hoa văn nơi gấu áo. Trang trí trên áo thường ở đường bờ vai, nách bả vai, cửa tay, thânáo dài đến mông để khi mặc cho ra ngoài váy, trong khi đó, tay áo thường ngắn và hẹp, gấu áo chỉ chấm thắt lưng nên khi mặc làm nổi những đường nét trẻ khỏe của khung hình phụ nữ .

Trang phục truyền thống lịch sử của người phụ nữ Êđê độc lạ và khá lạ so với nhiều vùng miền khác ở chỗ phong thái trang trí là không có đường ở giữa thân áo. Đếch là tên gọi mảng hoa văn chính ở gấu áo. Ngoài ra phụ nữ còn có áo lót cộc tay ( áo yếm ) .

Thiếu nữ dân tộc Ê Đê

Hàng ngày, đồng bào dân tộc Êđê thường mặc loại áo băl. Loại áo này không trang trí hoa văn. Những người già lão ở đây còn ưa mặc một loại áo lót trong gọi là ao yên, chỉ có phần vải che ngực .

Phụ nữ Êđê diện nhiều loại váy khác nhau. Váy loại tốt là myêng đếch, rồi đến myêng đrai, myêng piêck. Loại váy này mặc trong những dịp hội hè trang trọng, trong cưới xin, nhất là của những mái ấm gia đình khá giả. Váy kdruêch piêck cũng là loại váy sang, nhưng không đẹp bằng hai loại váy kể trên. Còn váy bơng thì may bằng vải thô, không trang trí gì, thường mặc khi đi làm. Những bà già nghèo khó vẫn mặc loại váy này vì họ không có điều kiện kèm theo shopping vải đắt tiền .

Nguyên liệu làm váy hầu hết bằng vải bông màu chàm hoặc đen, tùy từng loại váy mà trang trí nhiều hay ít đường nét hoa văn. Ngày nay, váy được may bằng vải công nghiệp, chất lượng tốt hơn và cũng đẹp hơn, thậm chí còn trên nền vải còn trang trí những đường nét thêu thùa đẹp mắt .

Cách mặc váy cũng khá độc lạ, họ đặt mép váy ở sườn bên trái, quấn một vòng quanh người từ eo bụng trở xuống, dắt mép váy ngoài về phía sườn bên phải. Để cho chặt hoàn toàn có thể dùng thêm thắt lưng bằng vải hay bằng sắt kẽm kim loại .

Phụ nữ Êđê còn trang sức đẹp bằng những loại vòng tay, vòng chân, nhẫn, dây chuyền sản xuất bằng đồng hay bằng hạt cườm. Cách đây chưa lâu phụ nữ còn đội thứ nón đan, có quai giữ ở cằm, gọi là duôn bai. Thời trước, vòng tay thường đeo thành bộ kép nghe tiếng va chạm của chúng vào nhau họ hoàn toàn có thể nhận ra người quen, thân .

Một loại phụ kiện không hề thiếu của người phụ nữ Êđê là chiếc khăn. Khăn được nhuộm chàm dùng để quấn tóc trên đầu. Khăn quấn quấn hình chữ “ nhân ” trước trán rồi buộc thành mối ra sau gáy và bịt khăn kín cả trán và đầu, mối vòng ra sau gáy phủ lên độn tóc .

Ngày nay, trang phục phụ nữ Êđê đã bị cách tân khá nhiều do ảnh hưởng quá trình phát triển kinh tế và giao lưu văn hóa từ các vùng miền khác, tuy nhiên, người dân Êđê vẫn luôn tự hào về nghệ thuật trang trí hoa văn trên nền vải với màu sắc, hình khối, đường nét và bố cục riêng được thế hiện rõ nhất trong quá trình hình thành áo, váy, khố, túi, địu….

CHÚNG TA CÙNG THAM KHẢO THÊM MỘT VÀI PHONG TỤC CỦA NGƯỜI E ĐÊ NHÉ

PHONG TỤC TRAO VÒNG CẦU HÔN CỦA NGƯỜI Ê ĐÊ

Lễ cưới truyền thống lịch sử của người Ê Đê thường được triển khai tuần tự theo bốn bước. Đó là lễ Hỏi chồng ( Nao huh ) ; Lễ thoả thuận ( Knăm ) ; Lễ gọi chồng ( Yâo Ung ) và lễ lại mặt ( Siê Knăm ). Trong hôn lễ, trao vòng cầu hôn là nghi lễ quan trọng, đây là nghi lễ bắt buộc của những cô gái khi làm đám cưới biểu lộ sự công nhận của thần linh, mái ấm gia đình, hội đồng cho đôi trai gái được tổ chức triển khai đám cưới để nên vợ nên chồng .

Để tỏ lòng mong muốn cầu hôn hay hứa hôn, nhiều dân tộc ở Việt Nam thường có tục lệ trao vòng. Quý nhất là vòng bằng vàng, hay bằng bạc, rồi mới đến vòng đồng… 

Dân tộc nào còn theo phong tục mẫu hệ thì bên nữ trao vòng, bên nam nhận vòng. Các dân tộc theo phong tục phụ hệ thì ngược lại, bên trai trao vòng, bên gái nhận vòng. Nhận vòng là bằng lòng, phải giữ lòng chung thủy. Ngày nay người Việt (Kinh) quý đồ trang sức bằng vàng nên trao nhẫn thay vòng. Còn nhiều dân tộc ở miền núi phía bắc hay Tây Nguyên chỉ dùng bạc làm đồ trang sức phổ biến. Đó là những chiếc vòng cầu hôn mang tính giao duyên. 

Phong tục trao vòng cầu hôn của người Ê ĐêẢnh minh họa. Nguồn: Internet

Theo phong tục mẫu hệ Ê Đê (Đác Lắc) khi người con gái tìm được người con trai ưng ý thì báo cho bố mẹ biết. Bố mẹ cô gái nhờ người mối lái đưa chiếc vòng bằng chất liệu nào là tùy gia cảnh để mở đầu cho việc giao thiệp với nhà trai. Người con trai có khi cũng ngúng nguẩy, vờ không bằng lòng như các cô gái e lệ thường thể hiện. Vài ba lần khi chàng trai đã đồng ý thì nhà gái sang nhà trai tổ chức lễ trao vòng. Nhà trai sau lễ trao vòng, cũng trao cho bên nhà gái chiếc vòng để làm tin cho việc đính ước.

Cô gái và chàng trai cùng chạm tay vào chiếc vòng đồng, ông cậu cầu cúng giàng. Và họ coi đó như lời giao ước hôn thú, có sự chứng giám của thần linh, có sự công nhận của cộng đồng, và sự thống nhất của cặp uyên ương. Từ sau lễ trao vòng, hai gia đình đã chính thức kết mối thông gia. Mỗi bên gia đình cử ra một người đỡ đầu của gia đình mình, còn gọi là Miết Ava. Từ đây Miết Ava không chỉ thay mặt gia đình, giúp đôi trẻ trong mọi nghi lễ để thành vợ thành chồng mà trong suốt cuộc đời còn lại sau này, ông luôn đóng vai trò như cha mẹ, khuyên răn chú rể, cô dâu và dàn hoà mọi bất hoà giữa hai gia đình. Nhà trai sau lễ trao vòng, cũng trao cho bên nhà gái chiếc vòng để làm tin cho việc đính ước.

Sau đó, nhà trai tổ chức bữa cơm rượu mời bên nhà gái. Đến hôm cưới, bên nhà gái lại đưa sang nhà trai vòng có kèm đồ sính lễ và các thứ như trâu, bò, lợn, gà, rượu, quần áo… Nếu nhà gái nghèo thì chỉ nộp một phần, phần còn lại hai vợ chồng cùng làm nộp dần sau. Lễ cưới tổ chức hai ngày liền. Ngày đầu, nhà gái đến “đón rể”. Khi về bên nhà vợ, nếu có voi, chú rể được cưỡi voi, không có phải đi bộ. Lễ đón rể có ca múa nhạc tưng bừng. Đến nhà vợ bên họ nhà gái lấy ba chén rượu và ba chiếc vòng trao cho chú rể, cậu ruột chú rể và anh ruột chú rể. Nhà trai lại trao ba chén rượu và ba chiếc vòng lần lượt cho cô dâu, cậu ruột cô dâu và anh ruột cô dâu. Khi lễ trao vòng ngày cưới đã xong, hai ông cậu đưa rượu cho cô dâu chú rể. Hai vợ chồng trao chén rượu cho nhau và uống cạn. Có trường hợp, cô gái phải “ở dâu” vài ba tháng hay vài ba năm như tục “ở rể” của một số dân tộc phụ hệ. Chú rể Ê Đê đi đâu hay về nhà bố mẹ đẻ cũng e ấp, bịn rịn xin phép như nàng dâu ở nhà chồng của các dân tộc anh em khác.

Tổ chức lễ cưới ở họ nhà gái. Tất nhiên phải có lợn và rượu. Con lợn được mỗ để lấy máu thoa vào chân cô dâu, chú rể, rồi cúng tổ tiên cầu cho hai trẻ được sống hạnh phúc. Tiếp đó, ông “mối” xúc cho cô, cậu mỗi người hai miếng cơm và ba chén rượu. Tất cả mọi người có mặt đều ăn một miếng thịt và một miếng ruột lợn. Ông trưởng họ cầm chiếc vòng đồng, cô dâu, chú rể sờ tay vào chiếc vòng đó, “tiết mục” này kết thúc lễ cưới. 
Trường hợp chàng trai bội ước, không làm lễ cưới, thì anh ta phải trả cho cô gái một khoản phạt bằng hiện vật, và làm cho cô gái một lễ hiến sinh (một con lợn).

Sau lễ cưới ba hoặc năm ngày, hai vợ chồng về nhà bố mẹ chồng làm lễ lại mặt (Siê Knăm). Nhà trai mời rượu và đưa một số đồ gia dụng (nông cụ, đũa bát…) đặt bên ché rượu để chú rể mang về nhà vợ.  Sau lễ lại mặt, hai vợ chồng chính thức chung sống, đôi vòng đồng – được coi như kỷ vật, như những lời cam kết thủy chung, đồng thời lời chúc tụng hạnh phúc cho cô dâu chú rể và anh em hai họ. Chúng thường được lưu giữ suốt đời, khi chết chôn theo hoặc trao lại cho con cháu làm di vật quý.

KHÁM PHÁ CÁCH UỐNG RƯỢU CẦN CỦA NGƯỜI Ê ĐÊ

Với người đồng bào Ê-đê, rượu cần có vai trò quan trọng trong hoạt động và sinh hoạt hàng ngày. Ở đâu có liên hoan, cưới hỏi, mừng thọ, tang ma, khách khứa, bầu bạn … ở đó có rượu cần .

Theo các già làng người Ê-đê, từ xa xưa trong các Trường ca, Anh hùng ca (Sử thi) như: Đam San, Xinh Nhã… rượu cần đã từng được nhắc đến khi tổ chức hội hè để mừng chiến công. Người Ê-đê hiện vẫn còn lưu truyền 2 câu thơ: “Có rượu cần mới biết được việc/ Có thuốc lá mới hỏi được câu” để nói lên tầm quan trọng của rượu cần trong cuộc sống hằng ngày. Ông Ama H’Nguôn – trưởng buôn Ako Dhong (TP. Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk) – bộc bạch: “Buôn tôi hầu như nhà nào cũng có rượu cần, rượu cần mà ngon là chôn dưới đất cả năm trời, ít nhất cũng khoảng 2 đến 3 tháng thì mới dùng được! Rượu cần đối với người đồng bào Ê-đê chúng tôi quan trọng lắm! Không thể thiếu được!”.

Khám phá cách uống rượu cần của người Ê-đêNgười đồng bào Ê-đê tại buôn Ea Anur ( xã Pơng Drang, huyện Krông Buk, tỉnh Đắk Lắk ) khi hoạt động và sinh hoạt uống rượu cần .
Trong một năm người đồng bào Ê-đê có khá nhiều liên hoan : Lễ ăn cơm mới, lễ cúng bến nước, lễ bỏ mả, lễ thổi tai em bé, lễ mừng thọ … Nhằm sẵn sàng chuẩn bị cho mùa liên hoan, từ trước đó rất lâu người Ê-đê đã làm rượu cần chưng cất trong nhà, chỉ chờ đến mùa liên hoan là mang ra sử dụng. Ở những buôn người đồng bào Ê-đê phần đông mái ấm gia đình nào cũng có rượu cần. Ít nhất cũng vài ché, vài hũ, thậm chí còn nhiều mái ấm gia đình có hàng chục ché, hàng chục hũ là chuyện thông thường .
Điều đặc biệt quan trọng ở người đồng bào Ê-đê là họ chỉ dùng duy nhất một ống trúc thông ruột, chiều dài khoảng chừng một mét để uống. Rượu cần được uống trong khoảng trống của ngôi nhà dài, cột bên một cây cọc ở trong nhà nhô lên khỏi sàn nhà khoảng chừng một mét, trên đầu cây được trang trí hoa văn. Khi uống rượu, gia chủ mở nắp bỏ lớp lá đậy trên miệng, đổ đầy nước, để chừng một giờ đồng hồ đeo tay cho rượu ngấm. Nước đổ vào ché là thứ nước suối trong vắt, ngọt sắc, cực kỳ mát lành được lấy từ dòng nước đầu nguồn của buôn làng. Sau khi đọc lời cầu khấnthần ( Yàng ) mong ước thần sẽ mang đến sức khỏe thể chất, như mong muốn, tốt đẹp. Nữ gia chủ là người uống tiên phong, sau đó đưa cần trao cho khách. Thường thường khách đỡ lấy cần rượu bằng hai tay, một tay đứng đầu cần, một tay cầm phần thân cần sát miệng ché, từ từ vuốt dọc lên rồi uống. Cần rượu cứ thế được chuyền từ tay người này đến người khác, cho đến khi tàn cuộc vui .
Trong khi uống rượu cần, một người dùng sừng trâu có đục lỗ ( hoặc dùng cái ca ) rót nước vào ché, còn phía bên kia là người uống. Có điều người đồng bào Ê-đê không khi nào uống rượu cần một mình. Nếu mái ấm gia đình nào hành khách thì gia chủ sắp xếp một người nữ rót nước, còn thông thường mọi người đã quen biết nhau từ trước thì không bắt buộc người nữ là người rót nước. Điều đặc biệt quan trọng khi uống rượu cần người uống không được phép phủ nhận và phải mời mọi người xung quanh như thể cách để biểu lộ phép lịch sự và trang nhã. Có 1 số ít buôn làng người Ê-đê, trước khi uống rượu cần, người uống phải rót ra những ống tre nhỏ ( hoặc ly ) để sẵn giữa nhà để mời mọi người xung quanh. Bao nhiêu rượu được rót vào ống tre ( hoặc ly ) nghĩa là người đó có bao nhiêu con cháu. Điều này cũng có nghĩa là thay cho lời trình làng về mái ấm gia đình, con cháu của người uống .
Theo già làng Ama Bích ( buôn Tring, thị xã Buôn Hồ, tỉnh Đắk Lắk ), khoảng trống uống rượu cần khi tiếp khách của người Ê-đê cũng tùy thuộc vào thực trạng. Nếu là khách quý, khách là quan chức, có vai vế thì chủ nhà chọn nơi uống rượu là chỗ sang trọng và quý phái nhất trong nhà, thường là chỗ rộng nhất trong ngôi nhà dài. Khi uống rượu cần không đơn thuần chỉ có chủ nhà với người khách đến chơi, mà chủ nhà thường mời thêm hàng xóm, đồng đội, bà con láng giềng đến nhà cùng chung vui, uống rượu. Những người được mời đến khi nào cũng mang theo nhiều ché rượu cần của mái ấm gia đình mình để góp vui, chứ ít ai đi tay không …
“ Rượu cần ngon là khi uống vào lưỡi có mùi cay, vị ngọt nồng nàn, nóng ấm râm ran ! Có khi rượu cần ngon là uống vào trong miệng có vị lạt, một chút ít đắng …. ”, già làng Ama Bích tấm tắc nói .
Nói về cách uống rượu cần của người Ê-đê, ông Y Kô Niê – Phó phòng nhiệm vụ văn hóa truyền thống – Sở Văn hóa – Thể Thao – Du lịch tỉnh Đắk Lắk, san sẻ : “ Sở dĩ người Ê-đê chỉ dùng một cần trúc khi uống là biểu lộ sự thân thương, thân thiện. Điều đó cho thấy không hề có nghi vấn về bùa ngải, thuốc độc có trong rượu, tạo sự tin yêu tuyệt đối cho mọi người khi uống rượu. Người Ê-đê rất kiêng cữ khi uống rượu cần mà thả cần giữa chừng, điều đó là mất lịch sự và trang nhã ” .
Ông Y Kô Niê cho biết thêm, trong buôn làng người Ê-đê, rượu cần ở mỗi mái ấm gia đình có một mùi vị đặc trưng riêng, có tính năng khác nhau. Có mái ấm gia đình rượu cần làm ra có vị chua, vị ngọt, vị đắng hoặc vị nhạt. Khi người đồng bào Ê-đê xếp từng ché rượu cần uống đại trà phổ thông thì xếp theo từng vị của rượu theo thứ tự ngọt, chua, đắng, nhạt … những vị rượu này sẽ giải vị cho nhau, nên mọi người hoàn toàn có thể đi dạo, uống rượu thâu đêm mà không say, sáng dậy không hề bị đau đầu .

LỄ KHÔN LỚN CỦA NGƯỜI Ê ĐÊ

Lễ khởi đầu bằng nghi thức rửa mặt của chàng trai ngoài bến nước của buôn làng. Từ sáng sớm, chàng trai được làm Lễ khôn lớn lặng lẽ đi ra bến nước trong bộ lễ phục truyền thống cuội nguồn. Tới bến nước, anh ta cởi áo, cởi khăn, khởi đầu gội đầu, rửa mặt. Bà con buôn làng tận mắt chứng kiến từng cử chỉ một cách trân trọng .
Tắm gội xong, chàng trai hứng đầy bầu nước trong mát về cúng Giàng ( Trời ) .
Trong nhà, cỗ bàn đã sắp sẵn. Thủ heo bày ở giữa, một dải thịt dài cuốn vòng cây cột buộc ché rượu cần. Người được làm Lễ khôn lớn tay cầm kiếm sắc bước tới cầu thang lên nhà sàn. Hai bên cầu thang trồng hai cây chuối. Sau khi vung kiếm chém đứt cây chuối, tượng trưng cho hình ảnh hạ gục quân địch anh ta bước lên cầu thang, bà mẹ của anh ta đứng chờ ở sàn hỏi : “ Chào con trai của mẹ, con từ đâu trở lại ? Có phải con đi đánh giặc ác phía Đông, chém hổ dữ phía Tây, quay trở lại ? ”. Anh ta đáp lời : “ Thưa mẹ, đúng vậy ! Con đã cầm rìu vào rừng. Nay cây lớn đã đổ, cây nhỏ đã ngã. Con cầm kiếm đi trừ kẻ ác. Nay thằng giặc phía Đông đã bị giết, con hổ phía Tây đã được trừ. Con đã làm xong mọi việc buôn làng trao cho. Con đã xứng danh làm một người đàn ông Ê Đê của buôn làng ta ” .
Dứt lời, chàng trai bước vào nhà, kiếm dựng bên vách mặt trời mọc, rồi anh ta đến ngồi đương đầu với thầy cùng. Gian khách trên nhà sàn đã dựng sẵn 7 cây cột rượu theo hàng dọc, thầy cúng ngồi trước ché rượu cần tiên phong, mặt hướng về phương mặt trời mọc. Giàn chiêng nổi lên náo nức, dồn dập báo hiệu cuộc lễ mở màn. Thầy cúng khấn :
– Ơ Giàng bên Đông ! Ơ Giàng bên Tây ! Ơ thần linh, thần tốt ! Chàng trai này đã ở chòi, chòi yên. Đã ở nhà, nhà tốt. Anh ta đã biết đốt rẫy trồng lúa. Trồng chuối, chuối sai. Trồng mía, mía ngọt. Anh ta đã lớn khôn. Nay nhờ thần phù hộ, giúp cho anh ta có hơi thở mới. Có nguồn sức lực lao động mới. Có bắp thịt bền như gang, dẻo như đồng, cứng như sắt. Nhờ thần linh giúp anh ta luôn khoẻ mạnh, bình yên .
– Thay mặt thần linh, thầy cúng trao cho anh chiếc khiên và thanh kiếm. Các cô gái ra sức té nước vào người anh, thay cho những lời chúc phút tốt đẹp nhất .
Nửa đêm, đuốc rực rỡ tỏa nắng gian nhà. Cuộc lễ sang phần hai. Anh ngồi trước thầy cúng. Trang phục của anh như chuẩn bị sẵn sàng cuộc đi xa. Thầy cúng khấn cầu phúc cho anh gặp nhiều suôn sẻ. Các cô gái đem bầu nước hứng từ bến nước đổ đầy tổng thể những ché rượu cần. Lúc ấy, già làng mở màn kể khan-trường ca của dân tộc Ê Đê .

Khi mặt trời mọc buổi lễ mới kết thúc.

Trang phục truyền thống của người Việt

Trang phục truyền thống của người Chăm

Trang phục truyền thống của người Mường

Trang phục đặc trưng của Miền Bắc

Trang phục dạ hội của hoa hậu Việt Nam

Văn hóa truyền thống của Nhật Bản –

(ST)