Tính khoa học và tính cách mạng của chủ nghĩa Mác và ý nghĩa thời đại

Thứ năm, 26 Tháng 7 2018 16:28

29723 Lượt xem

(LLCT) – Chủ nghĩa Mác ra đời là một bước ngoặt cách mạng trong lịch sử tư tưởng nhân loại, nhằm đáp ứng nhu cầu khách quan của sự phát triển xã hội. Chủ nghĩa Mác là khoa học để làm cách mạng, có sự thống nhất hữu cơ, nội tại giữa khoa học và cách mạng, cách mạng và khoa học. Nhờ đó, học thuyết Mác đã vượt lên trên hẳn các học thuyết đương thời, mang sức mạnh to lớn, trở thành công cụ vĩ đại không chỉ giải thích thế giới mà chủ yếu là cải tạo thế giới. Chủ nghĩa Mác đã trở thành kim chỉ nam, ngọn cờ dẫn dắt giai cấp công nhân và nhân dân lao động trên toàn thế giới trong cuộc đấu tranh vì CNXH từ khi ra đời cho đến ngày nay. 

 

Chủ nghĩa Mác do C.Mác và Ph.Ăngghen sáng lập vào những năm 40 của thế kỷ XIX. C.Mác là một trong những nhà tư tưởng vĩ đại nhất của nhân loại, là lãnh tụ vĩ đại của giai cấp công nhân và nhân dân lao động toàn thế giới, ông đã để lại cho loài người một di sản đồ sộ không chỉ có ý nghĩa lịch sử mà còn có ý nghĩa to lớn cho đến ngày nay – đó là chủ nghĩa Mác.

1. Thống nhất tính khoa học và tính cách mạng của chủ nghĩa Mác

Một nét đặc sắc trong bản chất của chủ nghĩa Mác làm cho nó khác với các học thuyết khác – đó là sự thống nhất làm một giữa tính khoa học và tính cách mạng. Ở đây tính khoa học và tính cách mạng quyện chặt lẫn nhau, tính khoa học càng sâu thì tính cách mạng càng cao và ngược lại. Chủ nghĩa Mác là khoa học để làm cách mạng, để đấu tranh giải phóng nhân loại thoát khỏi mọi áp bức, bóc lột, bất công. Sự thống nhất hữu cơ giữa tính khoa học và tính cách mạng trong chủ nghĩa Mác không chỉ vì người sáng lập ra nó – C.Mác, vừa là nhà khoa học thiên tài vừa là nhà cách mạng vĩ đại (hai phẩm chất ấy thống nhất làm một trong hoạt động của ông) mà vì toàn bộ nội dung, phương pháp, mục đích của nó thể hiện sự thống nhất chặt chẽ giữa tính khoa học và tính cách mạng. Để xây dựng học thuyết của mình, C.Mác đã phân tích, nghiền ngẫm, kế thừa tất cả những thành tựu khoa học đương thời – từ khoa học tự nhiên (như thuyết tiến hóa các loài của Đác Uyn, thuyết tế bào, định luật bảo toàn và chuyển hóa năng lượng), đến khoa học xã hội, khoa học triết học, lịch sử, pháp lý, kinh tế… C.Mác đã khám phá ra những quy luật khách quan, phổ biến của sự phát triển xã hội loài người, từ đó làm cơ sở khoa học cho các Đảng Cộng sản và giai cấp công nhân ở các nước xây dựng đường lối cách mạng của mình. Khoa học đối với C.Mác là vũ khí đấu tranh cải tạo thế giới, là vũ khí tư tưởng – lý luận để làm cách mạng, nó có trách nhiệm giải đáp kịp thời và chính xác những vấn đề cấp bách có ý nghĩa thời đại mà tư tưởng tiên tiến của nhân loại đặt ra. Như Ph.Ăngghen đã chỉ ra, sứ mệnh thật sự của C.Mác là góp phần “bằng cách này hay cách khác tham gia vào việc lật đổ xã hội tư bản và các thiết chế nhà nước do nó dựng nên, tham gia vào sự nghiệp giải phóng giai cấp vô sản hiện đại mà ông là người đầu tiên đã đem lại cho giai cấp đó một ý thức về địa vị của bản thân mình và yêu cầu của mình, ý thức về điều kiện để giải phóng mình”(1). Một sự nghiệp cách mạng và một sự nghiệp khoa học vĩ đại như thế làm sao có thể không gây ra sự thù địch của những người bảo vệ trật tự tư bản.

Đánh giá về C.Mác và học thuyết Mác, V.I.Lênin viết: “Toàn bộ thiên tài của Mác chính là ở chỗ ông đã giải đáp được những vấn đề mà tư tưởng tiên tiến của nhân loại đã nêu ra… Học thuyết của C.Mác là học thuyết vạn năng vì nó là một học thuyết chính xác. Nó là một học thuyết hoàn bị và chặt chẽ; nó cung cấp cho người ta một thế giới quan hoàn chỉnh, không thỏa hiệp với bất cứ một sự mê tín nào, một thế lực phản động nào, một hành vi nào bảo vệ sự áp bức của tư sản. Nó là người thừa kế chính đáng của tất cả những cái tốt đẹp nhất mà loài người đã tạo ra hồi thế kỷ XIX, đó là triết học Đức, kinh tế chính trị học Anh và chủ nghĩa xã hội Pháp”(2).

Trong di sản lý luận đồ sộ, sâu sắc của C.Mác, chúng ta có thể nêu bật ba cống hiến khoa học chủ yếu sau đây:

Một là, C.Mác đã thực hiện một cuộc cách mạng trong toàn bộ quan niệm về lịch sử thế giới.

C.Mác là người đầu tiên đã áp dụng phép biện chứng duy vật do chính ông xây dựng vào việc nghiên cứu lịch sử, làm cho chủ nghĩa duy vật trở thành hoàn bị, triệt để – không chỉ duy vật trong lĩnh vực tự nhiên mà còn duy vật cả trong lĩnh vực xã hội. Ph.Ăngghen nói rằng, giống như Đác Uyn đã phát hiện quy luật của thế giới hữu cơ, C.Mác đã phát hiện quy luật phát triển của lịch sử loài người.

V.I.Lênin cho rằng: “Chủ nghĩa duy vật lịch sửcủa Mác là thành tựu vĩ đại nhất của tư tưởng khoa học. Một lý luận khoa học hết sức hoàn chỉnh và chặt chẽ đã thay cho sự lộn xộn và sự tùy tiện vẫn ngự trị từ trước đến nay trong các quan niệm về lịch sử và chính trị”(3).

Hai là, C.Mác đã phát hiện ra quy luật đặc thù của phương thức sản xuất TBCN và của xã hội tư bản do phương thức đó đẻ ra.

Lần đầu tiên, với những phát hiện của C.Mác, quan hệ giữa tư bản và lao động đã được giải thích triệt để. C.Mác đã tìm ra bí mật của phương thức bóc lột TBCN, chỉ ra cơ chế, động lực tồn tại và phát triển của xã hội tư bản là bóc lột giá trị thặng dư. Quy luật giá trị thặng dư là quy luật tuyệt đối của CNTB, chi phối tất cả các xã hội tư bản, tất cả các giai đoạn của CNTB, từ xã hội tư bản mới phát triển đến xã hội tư bản phát triển cao. C.Mác chỉ rõ mâu thuẫn cơ bản của xã hội tư bản là mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất ngày càng xã hội hóa cao với chế độ chiếm hữu tư nhân TBCN đối với tư liệu sản xuất, mâu thuẫn giữa giai cấp công nhân và những người lao động làm thuê với giai cấp tư sản. Do đó, cũng như đối với các xã hội có giai cấp trước đây, trong xã hội tư bản, đấu tranh giai cấp không biến mất mà chỉ thay đổi hình thức.

Ba là, với hai phát hiện khoa học vĩ đại là chủ nghĩa duy vật lịch sử và học thuyết giá trị thặng dư, C.Mác đã đặt nền móng cho CNXH khoa học, học thuyết về sự nghiệp giải phóng giai cấp công nhân và giải phóng loài người khỏi mọi hình thức áp bức, bóc lột và tha hóa.

Sứ mệnh thật sự của C.Mác – như Ph.Ăngghen khẳng định – là bằng cách này hay cách khác góp phần vào việc lật đổ xã hội TBCN, là tham gia vào sự nghiệp giải phóng giai cấp vô sản hiện đại mà C.Mác là người đầu tiên làm cho giai cấp ấy có ý thức về những điều kiện tự giải phóng. V.I Lênin đã từng nhấn mạnh rằng, điểm cốt yếu của học thuyết Mác là soi sáng vai trò lịch sử của giai cấp vô sản là người xây dựng xã hội XHCN thay thế xã hội tư bản.

C.Mác cùng với Ph.Ăngghen đã làm rõ các điều kiện lịch sử và các tiền đề tư tưởng – văn hóa của sự nghiệp giải phóng giai cấp vô sản. Các ông cũng đã chỉ ra những nhiệm vụ chủ yếu có tính quy luật mà các chính đảng vô sản cần thực hiện để hoàn thành sự nghiệp cách mạng XHCN.

C.Mác giả định CNXH ra đời từ xã hội tư bản đã phát triển cao là hoàn toàn hợp lôgic, bởi chỉ có như vậy mới phát hiện được quy luật chung của sự phát triển xã hội từ xã hội tư bản lên xã hội cộng sản. Chính từ giả định này, C.Mác đã dự báo một số đặc điểm cơ bản của xã hội tương lai mà xã hội tư bản đang “thai nghén” nó, phân tích những tính quy luật chung của quá trình hình thành và phát triển xã hội mới, cơ bản dựa trên tính tất yếu lịch sử của Tây Âu, đặc biệt là nước Anh. Ngoài ra, C.Mác cũng đã chú ý đến kiểu phát triển “rút ngắn” lên CNXH qua trường hợp nước Nga.

C.Mác không thiết kế mô hình của CNXH gồm mọi chi tiết để bắt hiện thực phải khuôn theo. V.I Lênin khẳng định: “Trong tài liệu của Mác, người ta không thấy mảy may một ý định nào nhằm bịa ra những ảo tưởng, nhằm đặt ra những dự đoán vu vơ về những điều mà người ta không thể nào biết được. Mác đặt vấn đề chủ nghĩa cộng sản giống như một nhà tự nhiên học đặt, chẳng hạn, vấn đề tiến hóa của một giống sinh vật mới, một khi đã biết nguồn gốc của nó và định được rõ rệt hướng của những biến đổi của nó”(4).

C.Mác phân tích một cách khoa học quá trình phát triển của xã hội mới và dự báo về hai giai đoạn của xã hội cộng sản tương lai. Bởi vì, xã hội cộng sản, vừa thoát thai từ xã hội tư bản nên không thể bước ngay vào giai đoạn cao tức giai đoạn xã hội cộng sản “đã phát triển trên cơ sở của chính nó”. Nó phải trải qua giai đoạn đầu hay giai đoạn thấp của xã hội cộng sản, mà “về mọi phương diện nó còn mang những dấu vết của xã hội đã sản sinh ra nó”. Trong những “dấu vết” của xã hội tư bản có những yếu tố tiêu cực cần sớm loại bỏ trong quá trình xây dựng xã hội mới, song có những “dấu vết” của xã hội tư bản không thể xóa bỏ một cách chủ quan, duy ý chí. Thí dụ, “dấu vết” của “pháp quyền tư sản” thể hiện trong nguyên tắc phân phối theo lao động.

Xã hội cộng sản với tính cách chỉnh thể thì không có sẵn trong lòng xã hội tư bản, song một số tiền đề, mầm mống, yếu tố thì đã nảy sinh trong lòng xã hội tư bản. Trong tác phẩm Tư bản, C.Mác chỉ ra rằng, chế độ công xưởng cho chúng ta thấy mầm mống của nền giáo dục tương lai, một nền giáo dục sẽ kết hợp lao động sản xuất với học tập và thể dục cho tất cả trẻ em trên một hạn tuổi nào đó. Nó không chỉ là một phương pháp để tăng thêm sản xuất xã hội, mà còn là phương pháp để tạo ra những con người phát triển toàn diện.

Giải phóng và phát triển con người là mục tiêu cao cả của hoạt động cách mạng của C.Mác. Theo C.Mác, sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là không chỉ giải phóng mình, mà đồng thời giải phóng cho tất cả các giai tầng xã hội khác khỏi mọi hình thức áp bức, bóc lột và tha hóa. Vì vậy, C.Mác luôn nhất quán với quan điểm biện chứng giữa giải phóng con người, giải phóng giai cấp và giải phóng nhân loại. Theo C.Mác, “phải lật đổ tất cả những quan hệ trong đó con người là một sinh vật bị làm nhục, bị nô dịch, bất lực, bị khinh rẻ”(5). C.Mác quan niệm CNCS là chủ nghĩa nhân đạo hiện thực, trong đó sự phát triển tự do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người.

Đối với C.Mác, sự nghiệp giải phóng nhân loại thống nhất với sự nghiệp giải phóng giai cấp công nhân mà giai cấp công nhân là đội tiên phong của sự nghiệp giải phóng đó. Chính vì vậy, toàn bộ sự nghiệp khoa học và cách mạng của ông đều giành cho việc giáo dục, tổ chức giai cấp công nhân để làm cho giai cấp công nhân có ý thức về điều kiện, tiền đề giải phóng mình, đồng thời giải phóng toàn nhân loại. Kế thừa tư tưởng của C.Mác, sau này V.I.Lênin nhấn mạnh rằng, tách khỏi cuộc đấu tranh giai cấp, thì CNXH chỉ là một câu nói suông hay một mơ ước ngây thơ mà thôi.

Song C.Mác không bao giờ cường điệu, tuyệt đối hóa đấu tranh giai cấp hoặc một hình thức nào của đấu tranh giai cấp, cũng không sùng bái bạo lực như kẻ thù xuyên tạc. Đối với C.Mác, đấu tranh giai cấp chỉ là phương tiện chứ không phải là mục đích. C.Mác khẳng định: “Một ngày nào đó, công nhân sẽ phải giành lấy chính quyền vào tay mình để thiết lập một tổ chức lao động mới… Song chúng tôi không bao giờ quyết đoán rằng, để đạt tới mục đích đó, đâu đâu cũng phải dùng những biện pháp như nhau”(6). Trong thư gửi Vâyđơmaiơ ngày 5-3-1852, C.Mác viết rằng, ông không có công lao phát hiện ra giai cấp và đấu tranh giai cấp, công lao đó thuộc về các nhà sử học, các nhà kinh tế học tư sản đã có từ trước ông rất lâu. Cái mới mà C.Mác đã làm là chứng minh rằng: “1. Sự tồn tại của các giai cấp chỉ gắn với những giai đoạn phát triển lịch sử nhất định của sản xuất; 2. Đấu tranh giai cấp tất yếu dẫn đến chuyên chính vô sản; 3. Bản thân nền chuyên chính này chỉ là bước quá độ tiến tới thủ tiêu mọi giai cấp và tiến tới xã hội không có giai cấp”(7). C.Mác cũng không phải là người đầu tiên phát hiện ra khái niệm chuyên chính, ông chỉ kế thừa khái niệm đó của nền cộng hòa Rooma cổ đại để xây dựng khái niệm chuyên chính vô sản với tính cách là thể chế quá độ lên xã hội cộng sản, khi mà giai cấp công nhân giành được chính quyền. Đối với C.Mác, chuyên chính vô sản không chỉ là bạo lực, mà chủ yếu là tổ chức và xây dựng xã hội cộng sản. Bạo lực chỉ là bà đỡ cho xã hội cũ đang thai nghén một xã hội mới.

2. Sức sống của học thuyết Mác trong thời đại ngày nay và công cuộc đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam

Sống và hoạt động trong thời đại mới – thời đại đế quốc chủ nghĩa và cách mạng vô sản, V.I.Lênin đã phát triển chủ nghĩa Mác thành chủ nghĩa Mác – Lênin trong cả ba bộ phận cấu thành của nó – triết học, kinh tế chính trị và CNXHKH. Có thể khẳng định rằng, từ thời C.Mác đến thời V.I.Lênin và cho đến ngày nay, khi nhân loại đã bước vào hai thập niên đầu của thế kỷ XXI, thế giới đã trải qua biết bao nhiêu biến cố thăng trầm, quanh co phức tạp, nhưng đời sống xã hội vẫn không đi ra ngoài những quy luật phổ biến đã được C.Mác tổng kết. Trong thời đại ngày nay, chủ nghĩa Mác – Lênin vẫn là học thuyết khoa học và cách mạng duy nhất đáp ứng được nhiệm vụ lịch sử mà không học thuyết nào có thể thay thế được. Sức sống của chủ nghĩa Mác – Lênin được thể hiện ở chỗ nó soi sáng các nhiệm vụ lịch sử đã chín muồi của nhân loại – đó là nhiệm vụ giải phóng con người khỏi mọi hình thức áp bức, bóc lột, bất công, khỏi mọi sự tha hóa. Giá trị, sức sống của chủ nghĩa Mác, chủ nghĩa Mác – Lênin là trường tồn. Thời đại ngày nay có nhiều nội dung, đặc điểm rất mới so với thời C.Mác sống, song các giá trị bền vững trong các tư tưởng, quan điểm, học thuyết của C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin đã và đang là lý luận và phương pháp luận để nhận thức và cải tạo thế giới, còn những hạn chế lịch sử trong một số luận điểm cụ thể nào đó của các ông thì lại đặt ra yêu cầu phải bổ sung và phát triển cho phù hợp với điều kiện mới. Chính bản chất khoa học và cách mạng, tính sáng tạo của chủ nghĩa Mác – Lênin đòi hỏi phải như vậy.

Giá trị của học thuyết Mác – Lênin không phải ở chỗ mọi câu nói của các ông đều là chân lý vĩnh cửu, những người cách mạng cứ thế mà áp dụng không cần xem xét điều kiện, hoàn cảnh cụ thể. C.Mác đã từng tuyên bố: Chúng ta không tỏ ra là những nhà lý luận suông, tay cầm một mớ nguyên lý có sẵn: đây là chân lý, hãy phục tùng nó đi. Và Ph.Ăngghen cũng đã nhiều lần nhấn mạnh: Học thuyết của chúng tôi không phải là giáo điều mà là kim chỉ nam cho hành động.

Từ khi Đảng ta ra đời đến nay, chủ nghĩa Mác – Lênin đã được Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp thu, vận dụng và phát triển sáng tạo trong điều kiện thực tiễn của Việt Nam. Chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh đã trở thành nền tảng tư tưởng của Đảng, kim chỉ nam cho cách mạng Việt Nam. Thắng lợi của cách mạng Tháng Tám năm 1945, của hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, thống nhất đất nước; những thành tựu trong công cuộc xây dựng CNXH ở nước ta đã khẳng định sức sống của chủ nghĩa Mác nói riêng, chủ nghĩa Mác – Lênin nói chung. Đặc biệt, công cuộc đổi mới theo định hướng XHCN do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo càng khẳng định tính đúng đắn, ý nghĩa thời đại của chủ nghĩa Mác, chủ nghĩa Mác – Lênin đối với cách mạng Việt Nam cũng như sự vận dụng sáng tạo học thuyết đó của Đảng ta vào thực tiễn đất nước.

Qua hơn 30 năm đổi mới, chúng ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử cả về nhận thức lý luận và về thực tiễn. Nhận thức về CNXH và con đường đi lên CNXH của nước ta ngày càng sáng tỏ hơn, ngày càng được bổ sung, phát triển qua các kỳ Đại hội Đảng. Đảng ta xác định mục tiêu, đặc trưng tổng quát của xã hội XHCN mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ… Đã hình thành, phát triển quan niệm về kinh tế thị trường định hướng XHCN, về công nghiệp hóa, hiện đại hóa, kinh tế tri thức; về Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; về Đảng cầm quyền, và đổi mới, chỉnh đốn Đảng; về dân chủ XHCN và thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc; về gắn kết giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa, phát triển con người, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; về chính sách xã hội và quản lý phát triển xã hội; về chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; về quan hệ giữa xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc XHCN… Trên cơ sở lý luận Mác – Lênin và thực tiễn biến đổi của tình hình thế giới, Đảng ta đã có cách tiếp cận tình hình quốc tế và thời đại ngày càng sát hợp hơn và sâu sắc hơn; nhận thức đầy đủ hơn tính chất lâu dài, quanh co, phức tạp của thời đại quá độ lên CNXH và đánh giá đúng hơn tiềm năng phát triển của CNTB hiện đại; thấy rõ hơn các xu hướng biến đổi của tình hình thế giới và khu vực, từ đó đưa ra đối sách phù hợp…

Những thành tựu về lý luận và thực tiễn qua 30 năm đổi mới, như Văn kiện Đại hội XII của Đảng đã chỉ ra, khẳng định đường lối đổi mới của Đảng là đúng đắn, sáng tạo, con đường đi lên CNXH của nước ta là phù hợp với thực tiễn Việt Nam và xu thế phát triển của lịch sử. Tư duy lý luận và hoạt động thực tiễn của Đảng và nhân dân ta trong quá trình đổi mới ngày càng sâu sắc hơn, sát hợp hơn với thực chất tư tưởng của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I Lênin, Hồ Chí Minh, trên cơ sở đó có sự vận dụng, phát triển phù hợp với thực tiễn Việt Nam và thời đại ngày nay.

Tuy nhiên, trước sự biến đổi nhanh chóng, phức tạp của tình hình thế giới với nhiều thời cơ và thách thức, để khắc phục những hạn chế, yếu kém trong quá trình đổi mới, Đại hội XII của Đảng đã yêu cầu phải tiếp tục đổi mới tư duy lý luận, tăng cường tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, hoàn thiện hệ thống các quan điểm về CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam; phải kiên định chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, vận dụng sáng tạo và phát triển phù hợp với thực tiễn Việt Nam, phải kiên quyết đấu tranh chống các quan điểm sai trái, thù địch xuyên tạc, bác bỏ chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; phải đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, phấn đấu sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Thực hiện nhiệm vụ lịch sử đó chính là cách tốt nhất để phát huy sức sống vĩ đại của học thuyết Mác – Lênin.

____________________

Bài đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị số 5-2018

(1) C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, t.19, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.501.

(2), (3) V.I.Lênin: Toàn tập, t.23, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, tr.49-50, 53.

(4) V.I.Lênin: Toàn tập,t.33, Sđd, tr.104.

(5) C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, t.1, Sđd, tr.581.

(6) C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, t.18, Sđd, tr.218.

(7) C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, t.28, Sđd, tr.661-662.

 

GS, TS Lê Hữu Nghĩa

Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh