Tiểu luận Sự giống nhau và khác nhau của triết học phương Đông và triết học phương Tây – Luận văn, đồ án, đề tài tốt nghiệp
Trong quá trình vận động và phát triển của lịch sử văn hoá nhân loại nói chung và tư tưởng triết học nói riêng, triết học Phương Đông và triết học Phương Tây có nhiều nội dung phong phú, đa dạng. Những giá trị của nó đã để lại dấu ấn đậm nét và có ảnh hưởng lớn đối với lịch sử loài người. Triết học Phương Đông và triết học Phương Tây không thể thoát ly những vấn đề chung của lịch sử triết học. Mặc dù vậy, giữa triết học Phương Đông và triết học Phương Tây vẫn có những đặc điểm đặc thù của nó. Nghiên cứu về triết học Phương Đông và triết học Phương Tây, đặc biệt là so sánh sự khác nhau của nó là một vấn đề phức tạp, nhưng cũng rất lý thú, vì qua đó ta có thể hiểu biết sâu sắc thêm những giá trị về tư tưởng văn hoá của nhân loại.
24 trang
|
Chia sẻ: khactoan_hl
| Lượt xem: 16326
| Lượt tải: 10
Bạn đang xem trước
20 trang
tài liệu Tiểu luận Sự giống nhau và khác nhau của triết học phương Đông và triết học phương Tây, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN HÀ NỘI
KHOA TRIẾT HỌC
TIỂU LUẬN
Đề tài: Sự giống nhau và khác nhau của triết học phương Đông
và triết học phương Tây
Họ và tên:
Lớp:
Hà Nội ngày 09 tháng 02 năm 2012MỞ ĐẦU
Trong quá trình vận động và phát triển của lịch sử văn hoá nhân loại nói chung và tư tưởng triết học nói riêng, triết học Phương Đông và triết học Phương Tây có nhiều nội dung phong phú, đa dạng. Những giá trị của nó đã để lại dấu ấn đậm nét và có ảnh hưởng lớn đối với lịch sử loài người. Triết học Phương Đông và triết học Phương Tây không thể thoát ly những vấn đề chung của lịch sử triết học. Mặc dù vậy, giữa triết học Phương Đông và triết học Phương Tây vẫn có những đặc điểm đặc thù của nó. Nghiên cứu về triết học Phương Đông và triết học Phương Tây, đặc biệt là so sánh sự khác nhau của nó là một vấn đề phức tạp, nhưng cũng rất lý thú, vì qua đó ta có thể hiểu biết sâu sắc thêm những giá trị về tư tưởng văn hoá của nhân loại. Mặt khác, bản sắc văn hoá Việt Nam ảnh hưởng khá sâu sắc bởi nền triết học Phương Đông, do đó nghiên cứu những đặc điểm của triết học Phương Đông trong mối quan hệ với đặc điểm của triết học Phương Tây, đặc biệt là những tư tưởng nhân văn trong thời khai sáng sẽ giúp chúng ta hiểu biết sâu sắc hơn bản sắc văn hoá Việt Nam. Vì vậy, tôi lựa chọn vấn đề “Sự giống nhau và khác nhau giữa triết học phương Đông và triết học phương Tây” làm đề tài nghiên cứu trong bài tiểu luận của mình.
PHẦN NỘI DUNG
Những đặc điểm của lịch sử triết học phương Đông
Những đặc điểm cơ bản của lịch sử triết học Ấn Độ
So với các nền triết học khác, triết học Ấn Độ là một trong những trào lưu triết học ra đời và phát triển rất sớm. Nó được hình thành từ cuối thiên niên kỷ thứ hai, đầu thiên niên kỷ thứ nhất, trước công nguyên và vận động phát triển trong lịch sử. Với thời gian hàng ngàn năm, nền triết học Ấn Độ đã tạo nên một vóc dáng đồ sộ, chứa đựng những tư tưởng quý báu của nhân loại. Tính đồ sộ của nó không chỉ ở qui mô, số lượng các tác phẩm, ở sự đa dạng của các trường phái mà còn ở sự phong phú trong cách thể hiện và đặc biệt là sự sâu rộng về nội dung phản ánh. Tính đồ sộ của triết học Ấn Độ thể hiện ở sự đa dạng các trường phái triết học. Chỉ riêng 9 trường phái triết học tiêu biểu ở thời kỳ cổ đại và sự phân hoá của nó trong lịch sử triết học cũng đã nói lên qui mô và sự phức tạp của nó. Tính đồ sộ của nó còn thể hiện ở sự phong phú về nội dung thể hiện. Có thể nói các trường phái triết học đều đề cập đến hầu hết các vấn đề lớn của triết học như: bản thể luận, nhận thức luận, phép biện chứng và đặc biệt là vấn đề con người với đời sống tâm linh và con đường giải thoát của nó…
Trong quá trình giải quyết những nội dung phong phú đó, đa số các trường phái triết học Ấn Độ đều dựa vào tri thức đã có trong kinh Veđa, lấy các tư tưởng của kinh Veđa làm điểm xuất phát, các luận điểm triết học về sau thường dựa vào các luận thuyết ở triết học đã có trước. Vì vậy, các nhà triết học sau thường không đặt ra mục đích tạo ra một triết học mới, mà bổn phận của họ là chỉ để bảo vệ, lý giải cho hoàn thiện thêm các quan niệm ban đầu, còn việc tìm ra những sai lầm thường bị coi nhẹ thậm chí không được đặt ra.
Triết học Ấn Độ đặc biệt chú ý tới vấn đề con người. Hầu hết các trường phái triết học đều tập trung giải quyết vấn đề “nhân sinh” và tìm con đường “giải thoát” con người khỏi nỗi khổ trầm luân trong đời sống trần tục. Tuy nhiên, do sự hạn chế về nhận thức, do sự chi phối của lập trường giai cấp, và của những tư tưởng tôn giáo nên hầu hết các học thuyết triết học Ấn Độ lại đi tìm nguyên nhân của sự khổ đau của con người không phải từ đời sống kinh tế – xã hội mà ở trong ý thức, trong sự “vô minh”, sự “ham muốn” của con người. Vì vậy “con đường giải thoát con người” đều mang sắc thái duy tâm và yếm thế.
Trong quá trình vận động và phát triển, các hệ thống triết học Ấn Độ không thoát ra khỏi sự chi phối của những tín điều tôn giáo, do đó nó có sự đan xen với những quan niệm của tôn giáo. Các quan niệm triết học kể cả quan niệm duy vật đều bị ẩn sau các nghi lễ huyền bí của kinh Veđa, các quan niệm về hiện thực pha trộn các quan niệm huyền thoại, cái trần tục trực quan xen lẫn cái ảo tưởng xa xôi, cái bi kịch của cuộc đời đan xen cái thần tiên của cõi Niết Bàn.
Cùng với sự đan xen của các tín điều tôn giáo, trong phạm vi của triết học, các quan niệm duy vật và duy tâm, biện chứng và siêu hình trong triết học Ấn Độ không được thực hiện một cách rạch ròi, tách bạch nhau mà chúng thường đan xen vào nhau, xen kẽ lẫn nhau trong quá trình vận động và phát triển. Chính vì thế, triết học Ấn Độ đã tạo nên vẻ đẹp thâm trầm, huyền bí, uyển chuyển của triết học Phương Đông. Nhìn chung, lịch sử triết học Ấn Độ là nền triết học lớn ở Phương Đông. Nó đã để lại nhiều tư tưởng quý báu cho nhân loại.
Những đặc điểm cơ bản của lịch sử triết học Trung Quốc
Lịch sử triết học Trung Quốc thấm đượm tinh thần nhân văn, trong đó Nho gia là một học thuyết tiêu biểu, đã coi con người là chủ thể của đối tượng nghiên cứu, đã tách con người khỏi động vật và thần linh, và cho rằng: “con người có khí, có sinh, có trí thì cũng có nghĩa, bởi vậy là vật quý nhất trong thiên hạ) (Tuân Tử-Vương Chế). Nho gia thừa nhận vũ trụ là trời – đất- người cùng một thể, người được xếp ngang hàng với trời – đất thành một bộ “tam tài”. Như vây ngay từ buổi đầu, triết học Trung Quốc mà Nho gia là tiêu biểu đã khẳng định rõ giá trị của con người, thể hiện tinh thần nhân văn đậm nét và thấm nhuần tư tưởng “thiên nhân hợp nhất”. Trên cơ sở tư tưởng đó, những mệnh đề khác đã ra đời như: tâm, tính, tình, lý, khí, lương tri, “thiên nhân cảm ứng”… nhưng suy cho cùng đều phục vụ cho giải quyết vấn đề nhân sinh của con người và xã hội. Có thể nói trong tư tưởng triết học Trung Quốc, Các loại liên quan đến con người như triết học nhân sinh, triết học chính trị, triết học lịch sử đều phát triển còn triết học tự nhiên có phần mờ nhạt.
Vấn đề trọng tâm của tinh thần nhân văn trong lịch sử triết học Trung Quốc là vấn đề đạo đức xã hội và đạo đức con người. Họ luôn luôn tìm tòi, xây dựng những nguyên lý, những chuẩn mực đạo đức để thích nghi trong lịch sử và bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị trong xã hội. Nhiều trường phái tư tưởng đã đưa ra những nguyên tắc đạo đức cao nhất của mình và chứng minh đó là hợp lý nhất: Nhân, nghĩa, lễ, trí, tín của Nho gia; Vô vi của Đạo gia; Kiêm ái của Mặc gia; Công và Lợi của Pháp gia. Những nguyên tắc đạo đức luôn gắn liền với tính đẳng cấp trong xã hội, coi nhẹ thuộc tính tự nhiên của con người.
Triết học Trung Quốc thường đem luân thường đạo lý của con người gán cho vạn vật trong trời đất, biến trời thành hoá thân của đạo đức rồi lấy thiên đạo chứng minh cho nhân thế. Vũ trụ quan, nhân sinh quan, nhận thức luận của nhà Nho đều thấm đượm ý thức đạo đức. Chuẩn mực đạo đức trở thành đặc điểm nổi bật. Vì vậy, họ tranh luận xung quanh vấn đề thiện ác. Họ liên hệ việc nhận thức thế giới khách quan với việc tu nhân, dưỡng tính cá nhân. Thậm chí họ coi việc dưỡng tính cá nhân là cơ sở của việc nhận thức thế giới khách quan, “người tận tâm thì biết được tính của mình, biết được tính của mình thì biết được trời”. Vì vậy, trong mấy ngàn năm lịch sử, các triết học đều theo đuổi cái vương quốc luân lý đạo đức, họ xem đạo đức là cái “trời phú”. Bởi thế, họ xem việc thực hành đạo đức là hoạt động thực tiễn căn bản nhất của một đời người, đặt lên vị trí thứ nhất của sinh hoạt xã hội. Có thể nói, đây là nguyên nhân triết học dẫn đến sự kém phát triển về nhận thức luận và sự lạc hậu về khoa học thực chứng ở Trung Quốc.
Mặt khác, triết học Trung Quốc đặc biệt chú ý đến sự hài hoà thống nhất giữa các mặt đối lập. Các nhà triết học đều xem xét một cách biện chứng sự vận động của vũ trụ, xã hội, nhân sinh, đều chú ý đến mặt đối lập thống nhất của sự vật. Đa số họ đều nhấn mạnh sự hài hoà thống nhất giữa các mặt đối lập, coi việc điều hoà mâu thuẫn là mục tiêu cuối cùng để giải quyết vấn đề. Đạo gia, nho gia, Phật giáo đều phản đối cái “thái quá”, “bất cập”. Tính tổng hợp và tính quán xuyến của hàng loạt các phạm trù “Thiên nhân hợp nhất”, “Tri hành hợp nhất”, “Thể dụng hợp nhất”, “Tâm vật dung hợp”, “Cảnh và tình hợp nhất”… đã thể hiện sự hài hoà thống nhất của tư tưởng triết học cổ đại Trung Quốc.
2. Những đặc điểm của lịch sử triết học Phương Tây
2.1. Những đặc điểm cơ bản của triết học Hy Lạp cổ đại
Sự phát triển của triết học Hy Lạp cổ đại đã phản ánh cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm, mà xét đến cùng là phản ánh cuộc đấu tranh giữa phái chủ nô dân chủ tiến bộ xét trong điều kiện lịch sử thời kỳ đó với phái chủ nô thượng lưu phản động.
Triết học Hy Lạp cổ đại cũng phản ánh cuộc đấu tranh của khoa học chống thần học và tôn giáo. Các nhà khoa học đồng thời cũng là những người vô thần. Họ đưa ra và bảo vệ những quan điểm về khoa học tự nhiên, trong đó có học thuyết nguyên tử. Tuy chưa vạch ra hết nguồn gốc của thần học và tôn giáo, nhưng những tư tưởng của họ đã góp phần to lớn vào cuộc đấu tranh chống tư tưởng hữu thần của các nhà triết học duy tâm.
Chủ nghĩa duy vật của Hy Lạp cổ đại mang tính mộc mạc và tự phát. Đó là kết quả của khoa học tự nhiên còn ở thời kỳ nguyên thuỷ, mới phát sinh và bắt đầu phát triển. Các tri thức khoa học do các nhà triết học duy vật nêu ra hầu như chỉ là sự phỏng đoán về thế giới xung quanh, chưa có cơ sở khoa học vững chắc, song đó là những phỏng đoán thiên tài. Rất nhiều phỏng đoán của họ sau này đã được khoa học thừa nhận và mở ra cho các nhà khoa học những con đường để đi đến chân lý và phát triển các khoa học. Các nhà triết học duy vật Hy Lạp cổ đại thường dựa vào các sự vật, hiện tượng cụ thể như nước, không khí, lửa để nêu lên bản nguyên của thế giới. Tuy có nhà triết học đã đưa ra quan niệm trừu tượng hơn, song cũng chưa thoát khỏi tính trực quan trong việc xác định bản nguyên của thế giới như Đêmocrit chẳng hạn.
Một trong những đặc điểm cơ bản khác của triết học Hy Lạp cổ đại là tính chất biện chứng sơ khai tự phát. Những nhà triết học Hy Lạp đầu tiên của Hy Lạp cổ đại là những nhà biện chứng tự phát, bẩm sinh và Aritxtôt-bộ óc bách khoa nhất của các nhà triết học ấy cũng đã nghiên cứu những hình thức căn bản nhất của tư duy biện chứng.
Xét về mặt lịch sử, tính biện chứng trong triết học Hy Lạp cổ đại là một thành tựu vĩ đại. Song nó vẫn là biện chứng “ngây thơ”. Ăngghen đã nhận xét: “Khi chúng ta dùng tư duy để xem xét thế giới tự nhiên, lịch sử loài người, hay dùng hoạt động tinh thần của bản thân chúng ta, thì trước nhất, chúng ta thấy một bức tranh về sự chằng chịt vô tận của những mối liên hệ và những sự tác động qua lại, trong đó không có cái gì đứng nguyên, không thay đổi, mà tất cả đều vận động, biến hoá, phát sinh và mất đi. Cái thế giới quan ban đầu, ngây thơ, nhưng xét về thực chất thì đúng đó là thế giới quan của các nhà triết học Hy Lạp cổ đại và lần đầu tiên đã được Hêracrit trình bày một cách rõ ràng: mọi vật đều tồn tại và cũng không tồn tại, vì mọi vật đang trôi qua, mọi vật đều không ngừng biến hoá, mọi vật đều không ngừng phát sinh và tiêu vong”. Nhưng cách nhìn ấy, dù cho nó có đúng đến thế nào chăng nữa, tính chất chung của toàn bộ bức tranh về hiện tượng, vẫn không đủ để giải thích những chi tiết hợp thành bức tranh toàn bộ và chừng nào chúng ta chưa giải thích được các chi tiết ấy thì chúng ta chưa thể hiểu rõ được bức tranh toàn bộ. Đó là hạn chế và sự thiếu sót lớn của triết học Hy Lạp cổ đại.
2.2. Một số đặc điểm cơ bản của triết học Tây Âu thời trung cổ
Lịch sử phát triển của xã hội Tây Âu thời trung cổ là sự tiếp nối của sự phát triển lịch sử xã hội loài người từ thời kỳ cổ đại. Tuy nhiên đây là cả giai đoạn mà cả xã hội thống trị bởi hệ tư tưởng tôn giáo. Trong điều kiện đó, chủ nghĩa kinh viện là triết học chính thống. Cả xã hội chìm đắm và bị ngưng trị bởi tư tưởng duy tâm, tôn giáo, thần học, và chủ nghĩa ngu dân. Vì vậy, triết học phục tùng thần học, phương pháp suy luận hình thức, viển vông. Tôn giáo áp đặt sự thống trị của mình lên triết học, tư tưởng khoa học và tự do. Chủ nghĩa kinh viện không chấp nhận cái mới và sự tiến bộ.
Thời kỳ này đã diễn ra hai cuộc đấu tranh giữa hai phái triết học là phái duy danh và phái duy thực, phản ánh cuộc đấu tranh không khoan nhượng giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm. Học thuyết duy danh gắn liền với khuynh hướng duy vật trong việc thừa nhận sự vật có trước, khái niệm có sau. Học thuyết duy thực xem cái chung là tồn tại độc lập, có trước, sinh ra cái riêng và không phụ thuộc vào cái riêng. Trong cuộc đấu tranh dai dẳng đó, các trào lưu triết học của phái duy danh đã đem đến một luồng sinh khí mới. Đó là sự nhận thức thế giới thông qua kinh nghiệm, thực nghiệm, là sự giải phóng và sự đề cao của thần học và sự tối tăm, trì trệ. Đây là mầm mống chuẩn bị cho sự sụp đổ của chủ nghĩa kinh viện và sự phát triển mới của triết học và khoa học trong thời kỳ Phục hưng.
Một nội dung mà triết học Tây Âu thời trung cổ đề cập là vấn đề con người. Xuất phát từ thế giới quan duy tâm, thần bí, họ xem con người là sản phẩm của Thượng đế sang tạo ra. Mọi số phận, niềm vui, nỗi buồn, sự may rủi của con người đều do Thượng đế xếp đặt. Trí tuệ con người thấp hơn trí tuệ anh minh sáng suốt của Thượng đế. Do đó, triết học cũng hoàn toàn bất lực trong việc cứu thoát con người. Con người trở nên nhỏ bé trước cuộc sống, nhưng đành bằng lòng với cuộc sống tạm bợ trên trần thế, vì hạnh phúc vĩnh cửu ở thế giới bên kia. Con người bị thủ tiêu ý chí đấu tranh để tự giải thoát mình. Khi phương thức tư bản chủ nghĩa ra đời, khoa học và triết học đã xác lập vị thế lịch sử tiên tiến của nó, thì con người mới có thể thoát khỏi sự kìm hãm của triết học kinh viện và thế giới quan thần học trung cổ.
Mặc dù quá trình phát triển của triết học Tây Âu thời trung cổ rất phức tạp, đầy mâu thuẫn, nhưng nó vẫn tuân theo quy luật phát triển kế thừa liên tục của lịch sử và của các hình thái ý thức xã hội. Nó chuẩn bị những hạt nhân hợp lý cho sự phục hồi chủ nghĩa duy vật cổ đại và phát triển với những thành tựu rực rỡ trong thời kỳ Phục hưng.
2.3. Những đặc điểm cơ bản của triết học Tây Âu thời kỳ Phục hưng
Triết học thời kỳ này là thế giới quan của triết học giai cấp tư sản đang ở trong quá trình hình thành, phát triển. Sau “đêm trường trung cổ”, dưới sự thống trị của thần học và triết học kinh viện, thời kỳ này chủ nghĩa duy vật được khôi phục và phát triển. Sự khôi phục và phát triển đó lại gắn liền với cuộc đấu tranh quyết liệt chống lại thần học và triết học kinh viện.
Do tính chất phức tạp của cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật với chủ nghĩa duy tâm, tôn giáo, hơn nữa do ảnh hưởng rất lớn của thần học lúc bấy giờ nên chủ nghĩa duy vật thời kỳ này chưa triệt để, nó vẫn mang tính hình thức phiếm luận. Tuy nhiên trong đó, tư tưởng duy vật vẫn giữ vai trò chi phối.
Triết học thời kỳ này đặc biệt đề cao vai trò con người, quan tâm đến việc giải phóng con người, mang lại quyền tự do cho con người.
Thời kỳ này triết học có bước phát triển mới, dựa trên cơ sở các thành tựu khoa học tự nhiên. Tuy nhiên giữa triết học và khoa học tự nhiên vẫn thống nhất chặt chẽ với nhau, chưa có sự phân chia rạch ròi. Trên cơ sở những thành tựu mới của khoa học tự nhiên, các nhà khoa học tự nhiên lại đi đến những khái quát mới về mặt triết học. Các nhà khoa học tự nhiên đồng thời là các nhà triết học.
Có thể nói triết học thời kỳ Phục hưng đã tạo ra một bước ngoặt trong sự phát triển của triết học sau “đêm trường trung cổ”. Nó tạo tiền đề cho triết học tiếp tục phát triển vào thời cận đại.
2.4. Những đặc điểm cơ bản của triết học Tây Âu thời kỳ cận đại
Triết học Tây Âu thời kỳ cận đại là sự phát triển tiếp tục các tư tưởng triết học thời kỳ Phục hưng trong giai đoạn mới – giai đoạn cách mạng tư sản và sự phát triển mạnh mẽ của khoa học tự nhiên.
Đây là thời kỳ thắng thế của chủ nghĩa duy vật đối với chủ nghĩa tâm, của khoa học đối với tôn giáo. Chủ nghĩa duy vật thời kỳ này là thế giới quan của giai cấp tư sản cách mạng; là vũ khí tư tưởng của giai cấp tư sản trong cuộc đấu tranh chống phong kiến và giáo hội, xác lập xã hội tư bản.
Do yêu cầu phát triển của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, thời kỳ này khoa học tự nhiên diễn ra quá trình phân ngành sâu sắc và phát triển một cách mạnh mẽ. Nhờ những thành tựu khoa học tự nhiên, chủ nghĩa duy vật có một bước phát triển mới, nó có cơ sở khoa học vững chắc và được chứng minh về chi tiết.
Do yêu cầu phát triển của khoa học tự nhiên, triết học thời kỳ này đặc biệt chú ý đến những vấn đề nhận thức luận, về phương pháp nhận thức. Cuộc đấu tranh của phái duy cảm với duy lý; giữa phương pháp quy nạp với phương pháp diễn dịch đã đóng một vai trò quan trọng trong việc tìm kiếm các phương pháp nhận thức khoa học và góp phần thúc đẩy khoa học phát triển.
Tiếp tục phát triển tư tưởng nhân đạo thời kỳ Phục hưng, thời kỳ này các nhà triết học càng đề cao vị trí con người, giương cao ngọn cờ đấu tranh giải phóng con người khỏi sự thống trị của phong kiến và giáo hội, mang lại quyền tự do, bình đẳng và hạnh phúc cho con người. Đây chính là vấn đề bức xúc của cuộc cách mạng tư sản đặt ra và nó có sức cổ vũ mãnh mẽ quần chúng đứng lên làm cách mạng.
Mặc dù thời kỳ này là thời kỳ thắng thế của chủ nghĩa duy vật đối với chủ nghĩa duy tâm và tôn giáo nhưng hầu hết các nhà duy vật vẫn rơi vào phiếm thần luận, chỉ có một số ít nhà duy vật đi đến chủ nghĩa vô thần. Điều này không chỉ do ảnh hưởng sâu sắc của tôn giáo mà còn do giai cấp tư sản vẫn cần đến tôn giáo cho nên có lập trường thiếu triệt để.
Do thói quen trong nghiên cứu khoa học chuyên môn, tách biệt khỏi các mối liên hệ chung, hơn nữa do sự thống trị của cơ học Niutơn, nên trong thời kỳ này phương pháp tư duy siêu hình, máy móc vẫn giữ vai trò chi phối.
2.5 Những đặc điểm cơ bản của triết học cổ điển Đức
Triết học cổ điển Đức nghiên cứu lịch sử của nhân loại, cũng như toàn bộ quan hệ con người – tự nhiên theo quan niệm biện chứng. Vì vậy, quan niệm biện chứng về hiện thực là đặc điểm hết sức quan trọng của triết học cổ điển Đức. Trước những bước phát triển như vũ bão của khoa học và thực tiễn ở Châu Âu từ cuối thế kỷ XVIII, đã cho thấy hạn chế của bức tranh cơ học về thế giới. Các nhà triết học cổ điển Đức tiếp thu những tư tưởng biện chứng trong di sản triết học từ thời cổ đại, xây dựng phép biện chứng trở thành một phương pháp luận triết học trong việc nghiên cứu các hiện tượng tự nhiên và xã hội. Hêghen đã phát hiện ra và phân tích một cách hệ thống những quy luật và phạm trù cơ bản của phép biện chứng, xây dựng nó trở thành một phương pháp luận, một cách tư duy, quan niệm về tất thảy mọi sự vật trong thế giới hiện thực. Phương pháp tư duy biện chứng của các nhà triết học cổ điển Đức về sau được C.Mác cải biến duy vật, phát triển tiếp, trở thành thành linh hồn của chủ nghĩa Mác.
Với cách nhìn biện chứng về toàn bộ hiện thực, nhiều nhà triết học cổ điển Đức có ý đồ hệ thống hoá toàn bộ những tri thức và thành tựu mà nhân loại đã đạt được từ trước tới lúc bấy giờ. Tiếp thu những tinh hoa của siêu hình học thế kỷ 17 trong việc phát triển tư duy lý luận và hệ thống hoá tri thức của con người, các nhà triết học, nhất là Kant và Hêghen có ý đồ xây dựng một hệ thống triết học vạn năng của mình, làm nền tảng cho toàn bộ các khoa học và mọi lĩnh vực hoạt động khác của con người, khôi phục lại quan niệm coi triết học là khoa học của mọi khoa học. Vì vậy, họ là những bách khoa toàn thư, uyên bác không chỉ về tri thức triết học mà còn am hiểu về khoa học tự nhiên, lịch sử, pháp quyền, tôn giáo… Dĩ nhiên quan niệm này hiện nay không còn phù hợp, nhưng về phương diện lịch sử, nó đáp ứng nhu cầu khoa học cần hệ thống hoá toàn bộ tri thức con người mà các nhà siêu hình học là những người khởi sướng.
So sánh đặc điểm của triết học Phương Đông và triết học Phương Tây
3.1 Sự giống nhau
C.Mác đã viết: Để hiểu rõ tư tưởng của một thời đại nào đó thì chúng ta phải hiểu được điều kiện sinh hoạt vật chất của thời đại đó. Bởi vì, theo C.Mác, tồn tại xã hội luôn quyết định ý thức xã hội, do đó nó phản ánh tồn tại xã hội – những điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội.