Tiêu chí xác định DN nhỏ và siêu nhỏ lĩnh vực xây dựng
Quá trình thực hiện trong lĩnh vực đấu thầu, ông Phan Chí Thiện (An Giang) có một số vướng mắc sau:
Theo nội dung tại Khoản 3, Điều 6 Luật Đấu thầu:“3. Đối với gói thầu xây lắp có giá gói thầu không quá 05 tỷ đồng chỉ cho phép nhà thầu là doanh nghiệp cấp nhỏ và siêu nhỏ theo quy định của pháp luật về doanh nghiệp tham gia đấu thầu”.
Gói thầu E có giá gói thầu không quá 5 tỷ đồng. Hồ sơ mời thầu được lập theo Mẫu hồ sơ mời thầu xây lắp áp dụng phương thức một giai đoạn một túi hồ sơ (Mẫu số 01) ban hành kèm theo Thông tư số 03/2015/TT-BKHĐT ngày 6/5/2015 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư. Nội dung tại CDNT 4.1 Chương II của hồ sơ mời thầu có quy định như sau:
Điều kiện về cấp doanh nghiệp: Là doanh nghiệp cấp nhỏ và siêu nhỏ theo quy định tại Điều 6 Nghị định số 63/2014/NĐ-CP. Tiêu chí xác định doanh nghiệp nhỏ và doanh nghiệp siêu nhỏ theo quy định tại Khoản 1 và 2, Điều 6 Nghị định số 39/2018/NĐ-CP ngày 11/3/2018 của Chính phủ, như sau:
– Doanh nghiệp siêu nhỏ trong lĩnh vực xây dựng có số lao động tham gia BHXH bình quân năm 2018 không quá 10 người và đáp ứng một trong hai tiêu chí sau:
(1) Tổng doanh thu của năm 2018 không quá 3 tỷ đồng;
(2) Hoặc tổng nguồn vốn của năm 2018 không quá 3 tỷ đồng.
– Doanh nghiệp nhỏ trong lĩnh vực xây dựng có số lao động tham gia BHXH bình quân năm 2018 không quá 100 người và và đáp ứng một trong hai tiêu chí sau:
(1) Tổng doanh thu của năm 2018 không quá 50 tỷ đồng;
(2) Hoặc tổng nguồn vốn của năm 2018 không quá 20 tỷ đồng.
Lưu ý: Nhà thầu phải cung cấp các tài liệu liên quan kèm theo hồ sơ dự thầu để chứng minh là doanh nghiệp siêu nhỏ hoặc doanh nghiệp nhỏ.
Việc xác định số lao động tham gia BHXH bình quân năm, tổng nguồn vốn và tổng doanh thu của doanh nghiệp nhỏ và doanh nghiệp siêu nhỏ theo quy định tại Điều 8, Điều 9, Điều 10 Nghị định số 39/2018/NĐ-CP ngày 11/3/2018 của Chính phủ.
Hồ sơ dự thầu của nhà thầu A có kèm văn bản của cơ quan thuế (Chi cục Thuế) xác nhận nhà thầu A là doanh nghiệp cấp nhỏ để chứng minh nhà thầu A là doanh nghiệp cấp nhỏ và siêu nhỏ theo quy định tại CDNT 4.1 Chương II của Hồ sơ mời thầu. Hồ sơ dự thầu không kèm theo tài liệu chứng minh về số lao động tham gia BHXH bình quân năm 2018 không quá 100 người.
Ông Thiện hỏi, trong quá trình đánh giá hồ sơ dự thầu nhà thầu A, tổ chuyên gia xét thầu và bên mời thầu có được đánh giá nhà thầu A là doanh nghiệp cấp nhỏ theo văn bản xác nhận của cơ quan thuế hay không và không cần yêu cầu nhà thầu A làm rõ chứng minh về số lao động tham gia BHXH bình quân năm 2018 không quá 100 người như vậy có được không?
Bộ Kế hoạch và Đầu tư trả lời vấn đề này như sau:
Khoản 3, Điều 6 Nghị định số 63/2014/NĐ-CP của Chính phủ quy định đối với gói thầu xây lắp có giá gói thầu không quá 5 tỷ đồng chỉ cho phép nhà thầu là doanh nghiệp cấp nhỏ và siêu nhỏ theo quy định của pháp luật về doanh nghiệp tham gia đấu thầu.
Khoản 1, Điều 4 Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa số 04/2017/QH14 quy định doanh nghiệp nhỏ và vừa bao gồm doanh nghiệp siêu nhỏ, doanh nghiệp nhỏ và doanh nghiệp vừa, có số lao động tham gia BHXH bình quân năm không quá 200 người và đáp ứng một trong hai tiêu chí sau đây:
– Tổng nguồn vốn không quá 100 tỷ đồng;
– Tổng doanh thu của năm trước liền kề không quá 300 tỷ đồng.
Khoản 2, Điều 6 và Khoản 2, Điều 8 Nghị định số 39/2018/NĐ-CP của Chính phủ cụ thể hóa tiêu chí xác định doanh nghiệp theo quy mô siêu nhỏ, nhỏ và vừa như sau:
Doanh nghiệp nhỏ trong lĩnh vực xây dựng theo quy định có số lao động tham gia BHXH bình quân năm không quá 100 người và tổng doanh thu của năm không quá 50 tỷ đồng hoặc tổng nguồn vốn không quá 20 tỷ đồng. Số lao động tham gia BHXH bình quân năm được tính bằng tổng số lao động tham gia BHXH của năm chia cho số tháng trong năm và được xác định trên chứng từ nộp BHXH của năm trước liền kề mà doanh nghiệp nộp cho cơ quan BHXH.
Theo đó, việc xác định cấp doanh nghiệp trong lĩnh vực xây dựng thực hiện theo quy định nêu trên.
Trường hợp bên mời thầu nhận thấy tài liệu nhà thầu cung cấp chưa đủ rõ để chứng minh cấp doanh nghiệp thì yêu cầu nhà thầu làm rõ theo quy định tại Điều 16 Nghị định số 63/2014/NĐ-CP của Chính phủ.
Chinhphu.vn