Thuyết minh về cây lúa nước Việt Nam (dàn ý – 6 mẫu) – PHÒNG GIÁO DỤC ĐÀO TẠO HUYỆN TRẠM TẤU

Đề bài: Thuyết minh về cây lúa nước Việt Nam.

Dàn ý Thuyết minh về cây lúa nước Việt Nam

1. Mở bài

Giới thiệu về cây lúa nước.

2. Thân bài

a. Khái quát chung

Gắn bó với người dân ta từ lâu đời, là thực phẩm quan trọng không thể thiếu trong bữa ăn hằng ngày của người Việt Nam và cũng là cây lương thực xuất khẩu hàng đầu của nước nhà.

Là cây thân cỏ, ưa nước, gieo trồng trên đất phù sa và có nhiều giống loại khác nhau.

Chu kì sinh trưởng trung bình là 4 tháng. Ưa thời tiết nóng ẩm.

b. Miêu tả chi tiết

Cây lúa trưởng thành trung bình có độ cao 80cm, toàn thân màu xanh, từ ngọn trổ bông rồi nặng dần xuống thành hạ.

Hạt lúa mọc thành chùm, khi còn non thì mềm mại, có màu xanh thoảng hơi sữa, khi già chuyển màu vàng, nặng dần và chúi đầu xuống phía dưới.

Lá lúa dài, hình lưỡi liềm nhỏ.

Rễ thuộc loại rễ chùm nên không cắm quá sâu xuống đất.

Thân cây rỗng.

c. Chu trình sinh trưởng

Người ta mang hạt lúa đi ngâm → hạt nảy mầm → mang đi reo ra những luống được chuẩn bị sẵn → lớn lên thành cây mạ → nhổ mạ bó thành bó → mang ra ruộng và trồng mỗi khóm cách nhau 20 – 30cm (mỗi khóm có từ 4 – 8 cây tùy tay người lấy) → cây lúa con thích nghi với ruộng và lớn dần lên → trổ bông và chín người dân thu hoạch (gặt lúa).

d. Quá trình chăm sóc

Người nông dân phải ủ đúng độ nóng ấm của nước và thời gian.

Thường xuyên thăm nom khi nó còn là cây mạ để xem tình trạng của cây.

Sau khi cấy xuống ruộng, nên thường xuyên bón phân và diệt trừ sâu bọ.

e. Tổng quát

Nêu tầm quan trọng và ý nghĩa của cây lúa với đời sống.

3. Kết bài

Khái quát lại những giá trị của cây lúa.

Thuyết minh về cây lúa nước Việt Nam – mẫu 1

“Việt Nam đất nước ta ơiMênh mông biển lúa đâu trời đẹp hơn”

Cây lúa là loài cây quen thuộc gắn bó với người Việt từ ngàn đời nay, tư thuở sơ khai dựng nước cho tới tận bây giờ. Có lẽ vì thế mà hình ảnh cây lúa đi vào trong tiềm thức người Việt, vào cả những câu ca dao, dân ca một cách thật tự nhiên và thật đẹp với sự trân trọng và nâng niu như một báu vật của đời người

Lúa là loài thực vật thuộc nhóm các loại cỏ đã được thuần dưỡng. Đây là loại cây lương thực được trồng nhiều ở các khu vực Đông Nam Châu Á và Châu Phi. Trải qua hàng triệu năm thuần chủng và tiến hóa, lúa nước mới có hình dáng và kích thước cũng như những đặc tính của hiện tại. Lúa là loài cây lương thực có vòng đời sống trong một năm, thuộc loài cây thân thảo. Thân lúa thường mọc thẳng, trên thân có nhiều đốt rộng khoảng 2-3cm, cao khoảng 60-80cm. Thân lúa mềm, trong rỗng nên mỗi lần có gió, cả đồng lúa xanh mướt lả lướt tạo thành những sóng lúa tít tận chân trời. Lá lúa có phiến dầu và mỏng, viền lá sắc, mọc bao quanh và sắp xếp đối xứng quanh thân lúa. Mặt lá sờ vào có cảm giác ram ráp như một phủ một lớp da mỏng. Trên lá có đường gân chạy song song. Rễ của lúa là rễ chùm, bám chặt vào bùn để giữ cho thân lúa đứng thẳng và cũng là nơi hút chất dinh dưỡng từ đất nuôi cây lớn. Hạt lúa có vỏ ngoài màu vàng, còn được gọi là vỏ trấu, hơi ráp, bao bọc lấy hạt gạo sữa trắng ngần, thơm mát bên trong.

Ở Việt Nam có hai vụ lúa chính là vụ chiêm và vụ mùa. Nhưng sau khi cải tiến và lai tạo, hiện nay ở vùng đồng bằng sông Cửu Long có tới 3 vụ mùa một năm. Vụ chiêm thu hoạch vào tháng năm, tháng sáu còn vụ mùa vào tháng tám hoặc tháng chín âm lịch. Lúa chia thành các giai đoạn phát triển, mỗi giai đoạn sẽ có những đặc điểm riêng. Sau khi ngâm thóc cho hạt thóc nảy mầm, người nông dân với đôi bàn tay khéo léo sẽ lấy từng nắm hạt giống, vãi ra khắp cánh đồng đã được bừa thật kĩ, láng thật mịn. Chỉ vài ngày sau hạt thóc sẽ nhú lên những cây mạ xanh non, biếc rờn rồi được cấy thành từng hàng thẳng tắp. Đất là một trong những nhân tố quan trọng cho sự phát triển của cây lúa. Bởi lúa chỉ có thể phát triển tốt nhất ở đất phù sa, với nhiệt độ lí tưởng cho cây lúa là từ 20-30 độ C. Trong vùng nhiệt độ sấy lúa sẽ lớn nhanh, hạt lúa sẽ chắc và mẩy. Lúa càng lớn càng phải chăm sóc kĩ bởi thời gian này lúa rất dễ bị nhiễm bệnh hoặc thiếu dinh dưỡng. Người nông dân chăm cấy lúa như chăm con, từ nhổ cỏ, tưới nước, bón phân đến bắt sâu, diệt bọ từ khi cây lúa còn đương thì con gái cho đến tận khi cây đã trổ đòng rồi chín vàng. Lúa chín sẽ chuyển sang màu vàng ruộm, tỏa ra mùi thơm thoang thoảng. Hạt lúa vàng ươm nặng trĩu kéo thân lúa sà sát mặt đất như mái tóc óng ả của người con gái đang độ xuân thì. Khi ấy cũng là lúc người nông dân thu hoạch lúa. Dưới cái nắng hè chói chang, những bóng nón trắng nhấp nhô trên cánh đồng lúa chín vàng. Lúa được gặt rồi bó thành từng bó lớn rồi tuốt hạt, phơi hai ba nắng to cho hạt lúa khô, để được lâu hơn rồi say rồi giã, rồi dần, rồi sàng, đủ mọi công đoạn mới có được một hạt gạo trắng ngần, béo múp. Có lẽ cũng vì cái khó khăn, nhọc nhằn ấy mà ca dao xưa đã có những câu:

“Cày đồng đang buổi ban trưaMồ hôi thánh thót như mưa ruộng cày.Ai ơi bưng bát cơm đầyDẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần”

Hạt gạo trắng, những bát cơm dẻo thơm nghi ngút khói trong bữa cơm của mỗi nhà được làm ra bởi cái nắng chói chang của vùng nhiệt đới cùng những giọt mồ hôi mặn mòi của người nông dân cả ngày bán mặt cho đất bán lưng cho trời. Cũng vì thế mà người Việt yêu hạt gạo, nâng niu trân trọng và biết ơn những con người đã vất vả làm ra nó.

Cây lúa được trồng ở hầu hết các vùng trên cả nước. Dù không phải đất ở vùng nào cũng có thể trồng lúa nước nhưng nhờ sự sáng tạo, cần mẫn và khéo léo, người Việt không chỉ trồng được lúa trên các vùng đồng bằng bằng phẳng, màu mỡ mà ngay cả trên những vùng núi cao trập trùng, nghèo dinh dưỡng họ cũng có thể tạo ra những cánh đồng lúa chín vàng như những bậc thang nối từ mặt đất lên tới trời xanh. Lúa là loại lương thực chính của người Việt nói riêng, người Châu Á nói chung, cũng là loại lương thực quan trọng nhất trong năm loại ngũ cốc. Gạo cung cấp cho con người những chất dinh dưỡng cần thiết để duy trì sự sống của con người. Trong bữa cơm của mỗi gia đình Việt, thứ không thể thiếu chính là bát cơm gạo trắng tinh, mềm mềm, thơm phức và ngọt ngào. Bánh chưng – thứ bánh truyền thống của dân tộc trên bàn thờ gia tiên mỗi ngày Tết, là kết tinh của hạt gạo nếp, của thịt mỡ, của tiêu, của hành rồi được gói trong lá rong xanh mướt, trở thành tinh hoa trong ẩm thực Việt. Còn nhiều thật nhiều những món ăn ngon được làm từ hạt gạo: từ món cốm thơm từ hạt nếp non mỡ màng đến những món xôi ngon lành, mát mắt từ hạt nếp…tất cả đều trở thành thức quà khó quên trong tâm hồn người Việt.

Cây lúa còn có vai trò quan trọng trong tâm thức của người Việt. Với nền văn minh lúa nước có lịch sử 4000 năm, những lễ hội thể hiện sự biết ơn với cây lúa của người Ba Na (Gia Lai), lễ hội mừng lúa mới của người Xơ Đăng, người S’tiêng, lễ hội A Za Kông tạ ơn mẹ lúa và các giống cây trồng của người Tà Ôi, lễ mừng lúa sinh trưởng của người Mạ, lễ hội “Ăn trâu cúng thần được một ngàn gùi lúa” của người Mạ…khiến cho ta thấy sự ảnh hưởng, trân trọng và biết ơn của con người đối với cây lúa. Cây lúa cũng đi vào trong thơ ca, hội họa của con người như một lẽ tự nhiên và nó trở thành thi liệu để người nghệ sĩ vẽ lên hình ảnh về đất và người Việt.

Ngày nay, lúa gạo trở thành một trong những nông sản xuất khẩu chủ lực của nước ta và nước ta đã trở thành nước có sản lượng gạo xuất khẩu lớn thứ hai thế giới, chỉ sau Thái Lan. Điều ấy cũng có nghĩa, lúa không chỉ là người bạn mà còn trở thành nguồn thu để nuôi sống biết bao đời người Việt từ xa xưa cho đến tận bây giờ.

Cây lúa nước mang vẻ đẹp mộc mạc, giản dị như chính tâm hồn của người Việt, đã gắn bó với con người Việt cả ngàn đời nay. Và dù cuộc sống có hiện đại, phát triển thì cây lúa vẫn sẽ giữ một vị trí quan trọng trong cả đời sống vật chất và tinh thần của người Việt Nam.

Thuyết minh về cây lúa nước Việt Nam – mẫu 2

Việt Nam là một nước nông nghiệp với khoảng 50% số dân làm nghề nông. Chính vì thế, cây lúa là một loài cây quan trọng trong đời sống người Việt. Nó phục vụ chủ yếu cho nhu cầu lương thực trong nước, ngoài ra còn để xuất khẩu ra nước ngoài. Sản lượng xuất khẩu lúa gạo Việt Nam đã đứng thứ hai trên thế giới, chỉ sau Thái Lan. Vì thế, cây lúa đã góp phần quan trọng trong việc phát triển đất nước.

Đối với mỗi chúng ta, cây lúa đã trở nên quen thuộc. Cây lúa thân nhỏ, có lớp vỏ bên ngoài bao quanh còn bên trong là thân rất bé nhưng khỏe. Mỗi cây có khoảng năm, sáu lá có màu xanh, nhọn, có một lớp lông hơi ráp. Mỗi cây có một bông lúa với rất nhiều hạt. Mỗi khi lúa lên đòng, mùi sữa trong các hạt lúa ấy tỏa ra thơm nhè nhẹ. Cây lúa cũng như người Việt Nam, luôn đoàn kết lẫn nhau: Mỗi cây lúa ở trong một khóm lúa, mỗi khóm lúa trong một ruộng lúa, ruộng lúa trong một cánh đồng cùng che chở cho nhau. Nếu như nói: “Cây lúa là loài cây quan trọng nhất trong đời sống Việt Nam” thì cũng không sai. Cây lúa là cây lương thực chủ yếu của Việt Nam. Chính cây lương thực này đã làm cho nền kinh tế Việt Nam tăng trưởng rất nhanh, đáp ứng nhu cầu trong và ngoài nước. Ngoài ra, lúa gạo cũng để làm nguyên liệu chế biến ra những món ăn vừa dân dã vừa đậm đà hương vị dân tộc như bánh chưng, cốm, xôi hoặc các loại bánh… Ở nông thôn, người ta còn tận dụng vỏ trấu để đốt hoặc sử dụng trong các lò ấp trứng. Cám thì lại để dùng cho gia súc ăn, rất tiện mà hơn thế cám còn giúp cho gia súc tăng trưởng tốt. Còn rơm rạ lại là chất đốt hàng ngày trong cuộc sống ở nông thôn. Nếu quay trở lại ngày xưa, ta còn thấy cha ông ta lợp nhà bằng rơm. Trong xã hội phát triển như bây giờ, những ngôi nhà lợp rơm hầu như không còn nữa. Thế nhưng, những chiếc chổi làm bằng rơm thì vẫn còn tồn tại vì nó rất tiện sử dụng. Ngoài ra, rơm cũng là thành phần quan trọng trong việc trồng nấm, giúp nấm phát triển nhanh. Nói chung, xét trên phương diện vật chất, cây lúa có vai trò vô cùng quan trọng trong đời sống của người Việt Nam.

Cây lúa cũng là một loài cây có ý nghĩa rất lớn trong đời sống tinh thần của người Việt Nam. Cây lúa tượng trưng cho nền văn minh lúa nước không chỉ của Việt Nam mà còn của cả Đông Nam Á. Cây lúa là biểu tượng cho sự no ấm, đầy đủ. Không chỉ thế, cây lúa còn là nguyên liệu để làm ra các món ăn ngon, các món ăn để cúng lễ tổ tiên vào dịp lễ Tết như bánh chưng, xôi, bánh giày. Chính điều này đã tạo ra một nền văn hoá ẩm thực đặc sắc của Việt Nam với các món ăn đầy ý nghĩa như bánh chưng tượng trưng cho đất, bánh giầy tượng trưng cho trời. Đó là điều khiến cây lúa gắn với con người Việt Nam về vật chất cũng như tinh thần từ bao đời nay.

Cây lúa đã trở thành một người bạn gần gũi, thân quen với mọi người dân Việt Nam. Con người Việt Nam nói chung và người nông dân Việt Nam nói riêng đều coi trọng cây lúa và những sản phẩm mà nó đem lại. Chắc chắn rằng, cây lúa sẽ luôn tồn tại và gắn bó với con người Việt Nam từ đời này sang đời khác, từ thế hệ này sang thế hệ khác.

Thuyết minh về cây lúa nước Việt Nam – mẫu 3

Đến với những vùng thôn quê Việt Nam, không thể không kể đến hình ảnh những đồng lúa bạt ngàn, trải rộng mênh mông, những cây lúa rung rinh trước gió dưới chiều tà cho con người cảm giác bình yên, tự tại. Có thể nói, cây lúa mang lại nhiều giá trị tốt đẹp cho người nông dân và cho xã hội.

Giống lúa tại Việt Nam ngày nay xuất phát từ một loại lúa dại có từ hàng vạn năm trước có thân và hạt nhỏ trải qua nhiều quá trình tiến hóa, lai tạo giống mà từ một loại lúa dại đơn giản hiện đã có hàng chục giống lúa khác. Theo lời truyền miệng của dân gian, nguồn gốc của lúa được phát hiện bởi một đôi vợ chồng do nạn đói kéo dài nên họ đã lánh vào rừng sinh sống, ngày ngày săn bắt chim thú và tình cờ phát hiện ra một loại hạt có thể gieo trồng và giúp người dân thoát khỏi nạn đói kéo dài. Loại hạt đó chính là hạt lúa.

Tuy lúa tại Việt Nam có rất nhiều giống khác nhau nhưng có thể phân loại theo hai nhóm chính: lúa nếp và lúa tẻ. Lúa nếp có nhiều giống, tiêu biểu như lúa nếp cái hoa vàng với chiều cao trung bình khoảng hơn mét, chịu được khí hậu khắc nghiệt, năng suất ra hạt tầm trung, người dân thường dùng lúa nếp để nấu rượu nếp, xay bột nếp, nấu sôi, là nguyên liệu làm bánh chưng. Với nhóm lúa tẻ, nổi tiếng với lúa Nàng Hương, có chiều cao lên tới khoảng 3, 4 m, hạt nhỏ, dẻo, người dân dùng gạo tẻ để nấu cơm ăn theo bữa, nấu cháo, làm bún, phở.

Dù là lúa nếp hay lúa tẻ đều có chung đặc điểm về cấu tạo trong và ngoài của cây. Lúa là cây thân cỏ, có chiều cao từ 1m – 3m, là loại cây rễ chùm đạt chiều cao tối đa khoảng 2 – 3 km. Lá lúa dài, đẹp không có màu cố định mà thay đổi theo từng thời kỳ phát triển của cây lúa. Hoa lúa có màu trắng, xuất hiện từ thời kỳ sinh trưởng sinh thực, có khả năng tự thụ phấn cho cây phát triển thành các hạt thóc nhỏ. Hạt thóc lúc ban đầu xuất hiện có màu xanh, khi chín đổi thành vàng nhạt, nhỏ chỉ dài khoảng 10 – 20 mm.

Mặt khác, từ lúc gieo mạ đến khi phát triển thành lúa chín lại cần một quá trình dài, nhiều giai đoạn. Đầu tiên, người nông dân gieo mạ vào mùa xuân tháng chạp, gần tết, mạ được gieo tại một khu đất riêng biệt với ruộng để ủ tầm 3 – 4 tuần thì người nông dân mới nhổ mạ và đi cấy tại ruộng. Từ mạ sau khi ủ phát triển thành cây con cao khoảng 10cm, gọi là thời kỳ sinh trưởng sinh dưỡng. Tiếp đến là thời kỳ sinh trưởng sinh thực khi từ cây con, lúa dần phát triển chiều cao đến độ dài nhất định, lúa bắt đầu ra những bông hoa trắng, sau đó những bông hoa trắng dần thu vào kết thành các hạt thóc nhỏ màu xanh, vỏ hạt cứng, khó tách khỏi cây. Cuối cùng là thời kỳ lúa chín, các hạt thóc chuyển dần về màu vỏ vàng tươi hay còn gọi là cám, dễ dàng tuốt hạt bằng tay, phần ngọn lúa dần chuyển màu vàng nhạt. Người nông dân thu hoạch lúa, tuốt các hạt thóc, phần lá còn lại sau khi tuốt tạo thành các đống rơm rạ.

Cây lúa mang lại cho người nông dân và cho xã hội nhiều giá trị đặc sắc, to lớn. Về mặt giá trị sử dụng, lúa được đưa vào sản xuất, xuất khẩu ra thế giới, là một nguồn lợi nhuận của người nông dân, lúa còn là lương thực chính trong các bữa ăn hàng ngày của người dân. Hạt gạo được đưa vào chế biến phở, bún, bột mỳ. Về giá trị tinh thần, lúa giúp Việt Nam trở thành nước đứng thứ hai thế giới về xuất khẩu gạo, gắn bó với người dân hàng vạn năm qua.

Như vậy, lúa dù trải qua bao thập kỷ hay bao thăng trầm lịch sử vẫn luôn giữ một vị trí và vai trò quan trọng không hề thay đổi. Hiện nay, diện tích trồng lúa dần bị thu hẹp, công nghiệp hóa đã để lại hậu quả lũ lội quanh năm, tuy thời thế thay đổi nhưng giá trị mà lúa mang lại vẫn vẹn nguyên.

Thuyết minh về cây lúa nước Việt Nam – mẫu 4

“Việt Nam đất nước ta ơiMênh mông biển lúa đâu trời đẹp hơn”

Từ xa xưa, cây lúa đã chiếm một vị trí quan trọng trong đời sống vật chất cũng như tinh thần của người dân Việt. Lúa không chỉ là nguồn thức dưỡng nuôi sống con người mà còn trở thành biểu tượng của làng quê yên bình, là nét văn hóa lâu đời của dân tộc Việt Nam.

Nhiều nhà khoa học cho rằng quê hương của cây lúa nước là vùng Đông Nam Á. Ở Việt Nam, từ thời Hùng Vương, nhân dân ta đã biết cấy lúa. Nghề trồng lúa nước đã truyền từ đời này sang đời khác, là ngành nông nghiệp chính của đất nước ta.

Lúa nước là cây lương thực chính của Việt Nam cũng như nhiều nước châu Á khác, trong khi châu u lại là lúa mì. Lúa thuộc loài thân thảo, có nhiều lóng và mắt. Chiều cao của thân được tính từ gốc đến cổ bông còn chiều cao của cây được tính từ gốc đến bông cao nhất. Lá lúa dài trông như lưỡi kiếm, khi lúa chín ngả sang vàng. Gân lá chạy song song với phiến lá, phiến lá mỏng và có nhiều lông ráp. Rễ lúa là rễ chùm, bám sâu xuống lòng đất để giữ cho cây khỏi đổ và hút dưỡng chất nuôi cây. Hoa lúa cũng chính là hạt lúa sau này. Lúa là loại cây tự thụ phấn, sau thụ tinh phôi nhũ phát triển thành hạt, chất tinh bột từ dạng lỏng qua một thời gian từ 2-3 tháng thành dạng đặc.

Ở miền Bắc thường có hai vụ lúa chính là vụ chiêm và vụ mùa, còn ở miền Nam một năm có 3 vụ lúa. Trồng lúa có nhiều công đoạn. Đầu tiên, người nông dân phải ngâm cho hạt lúa nảy mầm, nhà nông có câu “tốt giống tốt má, tốt mạ tốt lúa”, hạt giống có tốt thì cây lúa sau này mới có năng suất cao. Tiếp theo là công đoạn gieo mạ. Những cây mạ non ban đầu yếu ớt hấp thụ những gì tinh túy nhất của đất trời dần trở nên cứng cáp và xanh tươi mơn mởn. Lúa lúc xanh còn được gọi là lúa đương thì con gái. Đây là giai đoạn người nông dân phải chăm sóc tốt cho lúa: bón phân, làm cỏ, diệt côn trùng gây hại. Rồi lúa đẻ nhánh, lúa làm đòng, hương lúa thoang thoảng khắp cả cánh đồng. Lúa chín, bông lúa vàng trĩu hạt làm cả cây oằn xuống. Giờ đã đến giai đoạn thu hoạch lúa, các bác nông dân gặt lúa, tuốt hạt, phơi cho khô và bảo quản lúa ở nơi khô ráo, thoáng mát.

Lúa có vai trò vô cùng quan trọng trong đời sống của chúng ta. Không chỉ cung cấp một lượng tinh bột lớn duy trì năng lượng cho con người, từ hạt gạo, người ta có thể chế biến ra vô vàn món ăn. Bánh chưng, bánh giầy được Lang Liêu làm ra từ gạo nếp để dâng vua Hùng là hai loại bánh truyền thống trong ngày tết. Bánh giầy tượng trưng cho trời còn bánh chưng tượng trưng cho đất. Lúa nếp non được rang thành cốm- là một thức quà quen thuộc của người Hà Nội mỗi khi mùa thu tới. Gạo nếp còn được nấu thành xôi- là món đồ không thể thiếu trong mâm cơm của người Việt vào ngày giỗ tổ tiên hay lễ, tết. Ngoài ra, chúng ta còn có biết bao loại bánh khác nhau được làm từ gạo: bánh cuốn, bánh đa, bánh nếp, bánh tẻ, bánh đúc…. Thân lúa sau khi thu hoạch được phơi khô có thể làm chất đốt hoặc thức ăn cho trâu, bò… Vỏ lúa được dùng làm trấu. Cám là một sản phẩm sau khi người ta xát gạo, dùng làm thức ăn cho gia súc, gia cầm.

Lúa có hai loại chính là lúa nếp và lúa tẻ. Ngày nay, nhờ sự phát triển của khoa học- kĩ thuật, người ta đã tạo ra nhiều loại lúa cho chất lượng và năng suất cao hơn. Đồng bằng sông Hồng và sông Cửu Long là hai vựa lúa lớn nhất nước ta. Việt Nam từ một đất nước đói nghèo đã vươn lên trở thành nước xuất khẩu gạo thứ 2 thế giới. Những cánh đồng lúa rộng bát ngát thẳng cánh cò bay là biểu tượng cho sự bình yên của làng quê, tô điểm cho vẻ đẹp của quê hương đất nước.

Ngày nay, nhiều tòa cao ốc mọc lên thay thế đồng ruộng nhưng cây lúa vẫn chiếm một vị trí quan trọng không thể thay thế trong đời sống của người dân Việt Nam. Cây lúa sẽ mãi là người bạn thân thiết của người nông dân, là nét đẹp bình dị của quê hương yêu dấu.

Thuyết minh về cây lúa nước Việt Nam – mẫu 5

Lúa là người bạn muôn đời gắn bó với sự cần lao của người nông dân Việt Nam. Nếu hoa sen mang vẻ đẹp thanh khiết, áo dài mang vẻ đẹp thướt tha đặc trưng của người phụ nữ Á Đông, thì cây lúa Việt Nam có một nét đẹp dân dã thân thuộc.

Việt nam là một nước xuất khẩu gạo và có một ngành nông nghiệp trồng lúa từ xa xưa, trên hầu hết cánh đồng lúa rải khắp các vùng đất từ Bắc vào Nam. Và các giống lúa cũng ngày càng đa dạng , phong phú bởi lúa được nghiên cứu nuôi trồng và nhân giống. Lúa có nhiều loại tùy thuộc theo từng vùng miền, khí hậu, mỗi vùng miền có địa hình và đất khác nhau nên lúa cũng phân bố khác nhau, nhưng thích hợp trồng lúa nhất là những vùng có nước ngọt, nếu vùng có nước quá mặn, phèn như vùng Tây Nguyên, lúa không thể lên được và cây lúa sống chủ yếu nhờ nước là loại cây lá mầm rễ chùm. Thân lúa có chiều rộng từ 2-3 cm, chiều cao khoảng từ 60-80 cm. Cây lúa được chia làm ba bộ phận chính , nhờ chúng cây có thể phát triển tốt: rễ cây nằm dưới lớp đất màu mỡ có tác dụng hút chất dinh dưỡng nuôi cơ thể, thân cây là cầu nối con đường đưa dinh dưỡng từ rễ lên ngọn, còn ngọn là nơi bông lúa sinh trưởng và trở thành hạt lúa. Lúa chín rồi có màu vàng và người ta gặt về làm thành gạo. Người nông dân thường trồng các loại giống lúa phổ biến như: lúa nước, lúa tẻ, lúa cạn, lúa nước nông, lúa nước sâu. Lúa nếp người ta thường trồng để làm bánh: bánh trưng, bánh nếp, hoặc để thổi xôi, còn lúa tẻ là lúa trồng làm nguồn thực phẩm chính, đóng vai trò quan trọng trong mỗi bữa ăn của người dân Việt Nam còn lúa non được dùng làm cốm. Theo các nghiên cứu, trước kia ông cha ta trồng giống lúa NN8, ngày nay thì miền Bắc trồng các loại giống lúa C70, DT10, A20.

Hiện nay, Việt Nam đã trở thành nước nông nghiệp và xuất khẩu gạo đứng thứ 2 thế giới, để có được thành quả ngày hôm nay, người nông dân phải vất vả, lao động chăm chỉ ,thực hiện đúng các công đoạn để có được một vụ mùa bội thu: từ gieo mạ, cấy mạ, bón phân, tưới tắm ,nhổ cỏ và những ngày đông hoặc mưa bão, hạn hán người dân phải khổ cực nhiều lần để che chắn và chăm sóc chúng. Trong suốt thời gian cây lúa sinh trưởng, hàng tuần người nông dân phải ra đồng chăm lúa và lấy nước. Việc thăm lúa giúp người nông dân phát hiện các ổ sâu hại lúa và bón phân để lúa phát triển tốt hơn. Đợt đến khi cánh đồng bắt đầu ngả màu vàng , người nông dân mới thu hoạch. Trước đây người dân thu hoạch bằng tay rất vất vả và tốn kém nhưng bây giờ , công nghệ phát triển tiến bộ hơn, người ta thu hoạch bằng máy nên đỡ phần nào khó nhọc cho con người. Từ thời ông cha ta, nhân dân trồng chỉ có hai vụ lúa: chiêm và mùa. Ngày nay, xã hội phát triển, công nghệ trong sản xuất được nâng cao hơn, mỗi năm có nhiều vụ nối tiếp nhau. Trồng lúa phải qua nhiều giai đoạn: từ hạt thóc nảy mầm thành cây mạ; rồi nhổ cây mạ cấy xuống ruộng. Ruộng phải cày bừa, làm đất, bón phân. Ruộng phải sâm sấp nước. Khi lúa đẻ nhánh thành từng bụi , người dân lại phải làm cỏ, bón phân, diệt sâu bọ. Rồi lúa làm đòng, trổ bông rồi hạt lúa chắc hạt, chín vàng. Người nông dân cắt lúa về tuốt hạt, phơi khô, xay xát thành hạt gạo. Biết bao công sức của nhà nông để có hạt gạo nuôi sống con người. Những hạt gạo được làm ra không chỉ phục vụ bữa ăn chính của con người mà còn để làm bánh, nấu xôi, đặc biệt vào những dịp lễ hay Tết, gạo để làm bánh chưng truyền thống và còn làm món quà trao nhau. Chính những người nông dân ấy đã góp phần quan trọng giúp Việt Nam có vị thế như ngày hôm nay với ngành lúa nước hay đất nước chúng ta còn được ca ngợi là Văn Minh Lúa Nước.

Cây lúa chính là người bạn thân thiết của người nông dân Việt Nam và là nguồn lương thực dồi dào của nước ta, có tầm quan trọng đối với phát triển kinh tế, mang lại sự no đủ cho chúng ta và trở thành nét đẹp tinh thần của người dân Việt Nam.

Thuyết minh về cây lúa nước Việt Nam – mẫu 6

Việt Nam đất nước ta ơi
Mênh mông biển lúa đâu trời đẹp hơn

   Đất nước Việt Nam – cái nôi của nền văn minh lúa nước, bên mỗi xóm thôn bản làng, những cánh đồng xanh thẳm trải dài tít tận chân mây như dấu hiệu cho mọi du khách nhận ra đất nước nông nghiệp với sự gắn bó của con người cùng cây lúa xanh tươi.

   Lúa là cách gọi thông thường không biết tự bao giờ trong từ điển Việt Nam, để chỉ loài cây lương thực chính trong ươm mầm từ những hạt thóc vàng căng mẩy. Hạt thóc ngâm nước ủ lên mầm gieo xuống lớp bùn sếch sang trở thành những cây mạ xanh non. Sau khi làm đất cày bừa kĩ, mạ non được bó lại như thằng bé lên ba con còn theo mẹ ra đồng và được cắm xuống bùn sâu qua bàn tay chăm sóc của người nông dân từng ngày, từng giờ lên xanh tươi tốt thành những ruộng lúa mênh mông bờ nối bờ thăm thẳm.

   Lúa được phát triển theo ba giai đoạn chính: Giai đoạn mẹ non, mảnh mai yếu ớt như em bé sơ sinh run rẩy trước nắng mai hay gió bão lạnh lẽo. Những ngày mùa đông buốt giá, gieo mạ rồi để chuẩn bị cho vụ chiêm xuân, chẳng có người nông dân nào không xuýt xoa thương cho đám mạ con phải chịu cảnh rét buốt, thế là bao túi ni lông che kín bốn xung quanh bờ thửa ngăn cho cái rét không làm lạnh chân mạ.

   Nắng hửng trời quan, bà già mùa đông mệt mỏi đi nghỉ ngơi nhường chỗ cho chị mùa xuân nhảy múa ca hát cùng lũ chim trên cành, bà con xã viên tưng bừng phấn khởi sau cái tết đón năm mới cùng với mạ non hồi sức vẫn kiên nhẫn vượt qua rét mướt, đã nô nức ra đồng làm việc. Họ đố nhau về bó mạ:

Vừa bằng thằng bé lên ba
Thắng lưng con cón chạy ra ngoài đồng

   Thế là người cày người cấy, trâu bò làm bạn với nhà nông, chỉ trong vòng một tuần những cánh đồng đất ải trắng trước đây đã thành những ruộng lúa xanh non. Lúa cứ thế lớn lên dưới bàn tay chăm sóc nâng niu của các bác nông dân, trưởng thành đến thì con gái, đẻ nhánh sinh sôi thành những khóm to chật ruộng. Rì rào rì rào… lúa thì thầm ào ào trong gió như kể chuyện ngàn xưa. Những chiếc lá lúa dài giống hình lưỡi lê nhưng yểu điệu duyên dáng như trăm ngàn cánh tay đùa giỡn với gió, sóng lúa nhấp nhô giữa buổi chiều hạ hay nắng sớm mùa xuân gợi bức tranh đồng quê thi vị mượt mà. Đó là đề tài quen thuộc của thơ và nhạc du dương:

Việt Nam đất nước quê hương tôi
Mía ngọt chè xanh qua những nương đồi
Đồng xanh lúa rập rờn biển cả…

   Chẳng mấy mốc ba tháng nông nhàn đã qua, lúa vào đòng làm hạt, mùi thơm của lúa nếp, của gạo mới thoang thoảng đâu đây. Khắp cánh đồng người ta chỉ thấy một màu vàng rực tươi rói, những bông lúa hạt đều tăm tắp uốn cong như lưỡi câu báo hiệu một mùa vàng bội thu. Ngày mùa cả làng quê toàn màu vàng, ngoài đồng lúa vàng xuộm, dưới sân rơm và thóc vàng ròn, chú cún vàng nhảy nhót lăng xăng như chia sẻ cùng chủ. Ai mà chẳng vui khi thành quả lao động của mình đến ngày được gặt hái.

   Cứ thế một hay hai vụ lúa trở thành cây lương thực chính của người nông dân. Vụ chiêm xuân từ tháng giêng đến tháng 4, tháng 5; vụ mùa từ tháng 6 đến tháng 9, tháng 10. Cây lúa đã đem đến cho đất nước một nguồn thu lớn, mỗi hécta cho ba tấn thóc, không chỉ là cung cấp lương thực đáp ứng nhu cầu của nhân dân trong nước mà nó còn là nguồn xuất khẩu gạo. Chúng ta tự hào có những cánh đồng lúa thóc quê hương như cánh đồng năm tấn ở Thái Bình, Đồng Tháp Mười ở đồng bằng Sông Cửu Long.

   Năm tháng trôi qua bước sang thế kỉ XXI, Việt Nam đi dần vào xu thế công nghiệp hoá, hiện đại hoá nhưng hình ảnh cây lúa và giá trị tiềm năng của nó vẫn là vị trí số một trong quá trình phát triển đất nước chẳng thế mà nó được lấy làm biểu tượng của các nước trong khối ASEAN như một báu vật quý.

Xem thêm các bài Văn mẫu thuyết minh, phân tích, dàn ý tác phẩm lớp 8 khác:

Mục lục Văn mẫu | Văn hay lớp 8 theo từng phần:

Các loạt bài lớp 8 khác

Bạn thấy bài viết Thuyết minh về cây lúa nước Việt Nam (dàn ý – 6 mẫu) có khắc phục đươc vấn đề bạn tìm hiểu ko?, nếu ko hãy comment góp ý thêm về Thuyết minh về cây lúa nước Việt Nam (dàn ý – 6 mẫu) bên dưới để pgddttramtau.edu.vn có thể thay đổi & cải thiện nội dung tốt hơn cho các bạn nhé! Cám ơn bạn đã ghé thăm Website: pgddttramtau.edu.vn của PHÒNG GIÁO DỤC ĐÀO TẠO HUYỆN TRẠM TẤU

Nhớ để nguồn bài viết này: Thuyết minh về cây lúa nước Việt Nam (dàn ý – 6 mẫu) của website pgddttramtau.edu.vn

Chuyên mục: Văn học