Thuyết Minh Về Bánh Tét, Cách Làm, Phương Pháp ❤️️ 15 Mẫu
Thuyết Minh Về Bánh Tét, Cách Làm, Phương Pháp ❤️️ 15 Mẫu ✅ Tham Khảo Tuyển Tập Những Bài Văn Đặc Sắc Viết Về Món Bánh Truyền Thống Ngày Tết.
Dàn Ý Thuyết Minh Về Bánh Tét
Bánh tét là món ăn truyền thống của người Việt, vậy muốn viết một bài văn thuyết minh đầy đủ thì phải làm thế nào? Sau đây là dàn ý thuyết minh về bánh tét đầy đủ nhất cho bạn.
I. Mở bài: Giới thiệu vấn đề cần thuyết mình (giới thiệu về bánh tét).
Ví dụ: Tết là một ngày lễ lớn của dân tộc Việt Nam. Tết là khoảng thời gian tụ họp sum vầy sau một thời gian làm việc mệt mỏi. chính vì thế mà tết là một phong tục truyền thống và lâu đời của dân tộc ta. Mỗi dịp tết đến nhà nhà luôn chuẩn bị sẵn sang các thứ cần thiết cho ngày tết như: bánh mức, hạt dưa, thịt,… và các thứ khác. Một phong tục truyền thống mỗi khi tết đến đó là gói bánh chưng- bánh tét. Để hiểu rõ hơn về bánh tét chúng ta sẽ đi vào tìm hiểu về bánh tét.
II. Thân bài:
-Nguồn gốc của bánh tét: Theo tác giả Lê Tân trong bài “Bánh tét Trà Vinh” cho rằng bánh tét được làm và ăn quanh năm nhưng thường được nhắc đến nhiều nhất vào dịp lễ hội, đặc biệt là tết cổ truyền. Vì vậy nên theo dân gian lưu truyền ngày xưa cứ tết đến người ta gói loại bánh này và gọi bằng tên “bánh tết”, lâu dần đọc trại ra thành “bánh tét”. Tuy nhiên, tên gọi của bánh tét cũng có thể xuất hiện từ hành dộng “ tét bánh”. “tét” là một hành động cắt bánh, tay phải cầm đầu dây khoanh tròn đòn bánh đã lột (vỏ), “tét” từng khoanh một đơm lên đĩa.
-Phân loại:
- Bánh tét ngọt hay còn gọi là bánh tét chay: được gọi là bánh tét ngọt hay bánh tét chay vì nguyên liệu làm nên bánh tét không có thịt và thường nhân làm bằng trái chuối.
- Bánh tét mặn: bánh tét mặn thường có nhân thịt.
–Nguyên liệu làm bánh tét: Mỗi vùng miền, mỗi dân tộc đều có nguyên liệu làm bánh tét khác nhau. Nhưng mỗi đòn bánh tét mặn đều có những nguyên liệu chung như sau:
- Gạo nếp
- Đậu xanh tách vỏ
- Thịt heo
- Một số gia vị
-Quy trình làm bánh tét:
a. Chuẩn bị:
- Gạo nếp trước khi gói bánh thường được ngâm, trước vài tiếng, đãi sạch
- Đậu xanh ngâm đãi sạch vỏ
- Thịt ba rọi xắt vuông dài làm nhân bánh
- Lá chuối phơi cho héo một chút
b. Gói bánh:
- Trước tiên trải lá chuối và đổ nếp lên trên
- Cho nhân thịt vào giữa bánh
- Gói lại thành một đòn bánh rồi buộc dây
c. Nấu bánh:
- Bánh Tét phải luôn được nấu ngập trong nước
- Thời gian nấu tùy và kích cỡ bánh nhưng thông thường từ 6 – 8 giờ
- Nhiệt độ nấu nằm trong khoảng 90 – 100 độ C
-Sự khác biệt giữa các vùng về bánh tét:
- Vùng Bình Dương, Tây Ninh đất cát là xứ rẫy có nhiều đậu nên bánh tét ở đây làm bằng nếp trộn đậu phộng.
- Đồng Nai có bánh tét nhân hột điều
- Cần Thơ nổi thiếng bánh tét lá cẩm.
- Sóc Trăng có bánh tét bắp non…
-Ý nghĩa của bánh tét:
- Bánh tét thể hiện sự bao bọc của người mẹ dành cho con thể hiện qua lớp chuối bao bên ngoài. Bên cạnh đó, bánh tét còn thể hiện tính cảm gia đình sâu sắc.
- Nhân bánh tét vàng thể hiện lòng biết ơn thiên nhiên đã ban tặng cho ta những thực phẩm quí giá.
III. Kết bài: Nêu cảm nghĩ của em về bánh tét
- Nêu cảm nghĩ về bánh tét
- Sự cảm nhận của em khi ăn bánh tét
Tiếp theo, mời bạn xem nhiều hơn 🌹 Thuyết Minh Về Món Ăn Ngày Tết 🌹 15 Bài Văn Hay Nhất
Viết Đoạn Văn Thuyết Minh Về Bánh Tét Ngày Tết – Mẫu 1
Bạn đang cần một bài văn với chủ đề ngày tết giàu xúc cảm? Sau đây là bài hướng dẫn viết đoạn văn thuyết minh về bánh tét ngày tết để bạn ứng dụng.
Bánh tét, có nơi gọi là bánh đòn, là một loại bánh trong ẩm thực của cả người Việt và một số dân tộc ít người ở miền Nam và miền Trung Việt Nam, là nét tương đồng của bánh chưng ở Miền Bắc về nguyên liệu, cách nấu, chỉ khác về hình dáng và sử dụng lá chuối để gói thay vì lá dong. Bánh tét có hình trụ dài nên còn được gọi là đòn bánh, hai đòn thường có một quai bánh chung bằng gân lá chuối tạo thành một cặp. Bánh tét mang hương vị bùi béo của đậu xanh và thịt lợn, cùng với lớp nếp mềm dẻo và hương thơm của lá chuối là một món văn không thể thiếu trong ngày tết cổ truyền của người dân miền Nam Bộ.
Bài Văn Thuyết Minh Về Bánh Tét Hay – Mẫu 2
Những bài văn thuyết minh về bánh tét hay sau đây sẽ giúp tìm được những ý hay cho bài kiểm tra sắp tới, hãy cùng đón đọc.
Bánh tét hay bánh chưng xanh không đơn thuần chỉ là một món ăn ngày đầu năm mới mà còn là nét văn hóa đặc trưng trong ngày Tết cổ truyền của gia đình Việt.
Cứ khoảng hai tám, hai chín Tết, nhà nào nhà nấy đều tất bật chuẩn bị các nguyên liệu để gói bánh như lá chuối, dây lạt, dừa, nếp, … Rồi đến ba mươi, các bà, các chị xúm xít nhau ngồi gói bánh, nói cười rôm rả cả một xóm. Đến tối, mọi người lại cùng thức quây quần với nhau để canh nồi bánh tét và đón giao thừa.
Ngày xưa, nhà nào cũng gói bánh tét. Ngày nay hiện đại, có nhà vẫn còn gói nhưng cũng có nhà đặt mua ở chợ. Cách đây hơn chục năm, không khí ngồi gói bánh tét rất là đầm ấm, sôi nổi, nhất là những vùng nông thôn. Gói bánh tét còn là một dịp vui để mọi người ngồi lại với nhau, ba, bốn nhà cùng hùng lại nấu một nồi bánh vài chục đòn rồi chia nhau mang về.
Bánh tét thường nấu rất lâu, mất khoảng 12 tiếng bánh mới chín và kỹ thuật canh lửa cho nồi bánh là cực kỳ quan trọng. Trước đây, bánh tét chỉ có hai loại nhân là nhân đậu mỡ và nhân chuối. Theo thời gian, đời sống phát triển, con người cũng đòi hỏi cao hơn nên bánh tét cũng từ đó mà có nhiều đổi mới.
Không chỉ có hai loại nhân truyền thống, bánh tét giờ đã đa dạng các loại nhân như nhân thập cẩm, nhân lạp xưởng, nhân sâm v.v… Không chỉ nội dung mà hình thức bánh cũng được đầu tư hơn, không còn đơn thuần là màu xanh của lá chuối, màu trắng của nếp mà còn có cả màu lá cẩm, màu lá dứa, màu gấc, đậu biếc v.v…
Trước sự phong phú của bánh tét ngày nay, nhà nghiên cứu văn hóa Nhâm Hùng chia sẻ, “Người ta muốn dâng cúng lên ông bà tổ tiên những cái bánh đẹp hơn về mẫu mã, ngon hơn về chất lượng và đó là một xu thế tất yếu mà chúng ta phải đón nhận, có khi trong tương lai còn cải tiến nhiều hơn. Tuy nhiên, theo tôi, những đòn bánh tét chúng ta dâng cúng vào dịp Tết, dù cho chúng ta có biến tấu, có cách tân, đa dạng hóa nó như thế nào thì cũng làm sao phải giữ được bản sắc, chất gốc để nó là bánh tét, chứ không phải là bánh gì khác”.
Năm này qua năm khác, những khoanh bánh tét luôn hiện hữu trên bàn thờ của người dân Nam Bộ mỗi khi Tết đến xuân về. Người ta dùng những đòn bánh tét ngon nhất, to nhất để dâng cúng ông bà, trời đất vào đêm giao thừa và đãi khách trong ba ngày Tết.
Hướng Dẫn Cách Nhận 🌼 Thẻ Cào Miễn Phí 🌼 Nhận Thẻ Cào Free Mới Nhất
Thuyết Minh Về Bánh Tét Lá Cẩm – Mẫu 3
Bạn đã từng nhìn thấy bánh tét màu tím độc đáo và đẹp mắt chưa? Sau đây là bài văn thuyết minh về bánh tét lá cẩm để bạn tham khảo.
Với người miền Nam, bánh Tét là món ăn không thể thiếu trong bàn thờ cúng gia tiên mỗi dịp Tết.
Nhắc đến Cần Thơ mọi người thường ngâm nga câu ca dao “Cần Thơ gạo trắng nước trong/Ai đi đến đó lòng không muốn về”. Từ đặc sản “gạo trắng”, xứ Tây Đô đã làm ra nhiều món ngon, vật lạ luôn níu lòng người. Cách đây hơn 2 năm, “Vua đầu bếp” Martin Yan – người nổi tiếng với hơn 3.000 chương trình dạy nấu ăn được phát trên sóng truyền hình nhiều nước đã chọn bánh Tét lá cẩm Cần Thơ là một trong 3 món ăn dân dã của địa phương này, gồm: vịt nấu chao Thành Giao, bánh xèo Mười Xiềm và bánh Tét lá cẩm.
Không biết bánh Tét có mặt ở Nam Bộ từ bao giờ, nhưng có nguồn tư liệu cho rằng loại bánh này được sản sinh từ bánh Chưng ngoài Bắc, khi vị anh hùng dân tộc Nguyễn Huệ dùng để nuôi quân, đánh bại cuộc xâm lược của quân Thanh ở Thăng Long. Từ đó, bánh Tét lúc nào cũng vinh dự có mặt trong các đám tiệc, lễ hội long trọng, nhất là trong những ngày Tết Nguyên đán.
Nếu những đòn bánh Tét truyền thống được thực hiện khá đơn giản với lớp nếp bao quanh nhân mỡ, hành, đậu xanh, bên ngoài bọc lớp lá chuối có dây lát buột chặt thì bánh Tét lá cẩm của bà Sáu Trọng khác xa từ màu sắc đến chất lượng. Ngoài màu của lá cẩm nhuộm tím phần nếp, bà Sáu Trọng còn thêm vào trong nhân nhiều nguyên liệu hấp dẫn khác như tôm khô, lòng đỏ trứng muối, lạp xưởng…
Để có những đòn bánh Tét lá cẩm như ý, đầu tiên là chọn giống nếp ngon không lẫn gạo. Kế đến hái lá cẩm tươi, rửa sạch, nấu, chắt lấy nước làm màu bánh. Đậu xanh ngâm, nấu nhừ. Dừa khô nạo vắt lấy nước cốt. Xong xuôi cho gạo trộn nước lá cẩm và nước cốt dừa, nêm nếm muối, đường bắc lên bếp, khoảng 1 tiếng đồng hồ cho màu lá cẩm cũng như nước cốt dừa ngấm đầy hột nếp rồi mới xào đều tay sao cho hột nếp, vừa chín khoảng 30% thì nhấc xuống.
Lá chuối gói bánh không được non hoặc già quá. Lá sau khi rọc khỏi thân tàu phải được lau sạch, tuy nhiên không cần phết dầu, vì nước cốt dừa trong hột nếp khi nấu tiết ra đủ để không làm nếp dính lá khi bánh chín. Để có bánh ngon phải buộc bánh bằng dây nylon. So với dây lác, dây nylon có ưu điểm là chắc, dễ buộc nên năng suất gói cao, chỉ vài phút là có thể buột xong một đòn.
Riêng khâu nấu cũng quan trọng không kém. Nồi bánh tét luôn được nấu bằng củi với thời gian từ 4 đến 5 tiếng mới chín. Theo bà Sáu, củi cháy đượm, bánh chín từ từ mới ngon. Nếu nấu bằng trấu, nhất là nấu bằng than đá thì không cho đòn bánh như ý, dễ khiến bánh chín nát, còn khiến nồi mau hỏng. Với món bánh tét lá cẩm, chỉ cần cắt bánh, nhìn vành ngoài ánh lên một màu tím mượt mà của nếp, bên trong là thịt, lòng đỏ trứng muối, mỡ và đậu tỏa mùi thơm ngát thì bất cứ ai cũng muốn thưởng thức.
Vào dịp Tết nguyên đán, người dân Nam bộ đều muốn có vài đòn bánh Tét lá cẩm để cúng tổ tiên. Màu tím tượng trưng cho sự nhớ nhung, mong đợi. Có lẽ vì vậy mà những ai đã đến Cần Thơ, đã thưởng thức khoanh bánh Tét lá cẩm màu tím óng ả, khi xa đều nhớ và mong đợi ngày quay trở lại vùng đất thơ mộng này.
Ngoài ra, tại SCR.VN còn có 🌺 Thuyết Minh Về Cách Làm Bánh Chưng, Cách Gói, Phương Pháp 🌺 15 Bài Hay
Thuyết Minh Về Bánh Tét Trà Cuôn – Mẫu 4
Ai ở Trà Vinh thì không thể không biết đến loại bánh tét đặc biệt này, dưới đây là bài văn thuyết minh về bánh tét Trà Cuôn hay nhất cho bạn.
Bánh tét là một trong những món ăn đặc sản ngày tết truyền thống của người dân Nam bộ. Ngày nay khi bánh Tây, bánh quy đủ loại tràn ngập thị trường thì bánh tét vẫn không thể thiếu trong đời sống của người dân, đặc biệt là khi Tết đến xuân về.
Trước đây, ở Nam bộ, nhà nào cũng gói bánh tét khi Tết đến. Còn bây giờ, trong nhịp sống khẩn trương thời hiện đại, nhiều gia đình không còn tự gói bánh tét nữa, thay vào đó là những điểm gói bánh tét dịch vụ. Điểm gói bánh vụ Tết thì nhiều, nhưng làng nghề chuyên gói bánh tét quanh năm thì đếm trên đầu ngón tay. Riêng làng nghề bánh tét Trà Cuôn thuộc xã Kim Hòa, huyện Cầu Ngang, tỉnh Trà Vinh làm việc quanh năm, nhưng vụ lớn nhất vẫn là những ngày giáp Tết.
Trà Cuôn có nguồn gốc từ tiếng Khmer là tro-kuôn (có nghĩa là rau muống), làng nghề này nằm cách trung tâm thành phố Trà Vinh hơn chục km theo hướng quốc lộ 53 đi huyện Duyên Hải và khu du lịch biển Ba Động.
Người dân nơi đây kể lại người làm bánh tét Trà Cuôn đầu tiên là bà má người Khmer nghèo, tên là Thạch Thị Lết ở xã Hiệp Hòa, huyện Cầu Ngang. Nhà bà nghèo, đông con quanh năm xoay sở đủ nghề để mưu sinh mà vẫn chật vật. Một ngày, bà nghĩ đến nồi đòn bánh tét của ông bà xưa để vài ngày vẫn thơm ngon; vậy nếu gói bán có ế thì có thể dùng thay cơm. Từ những suy nghĩ chân chất này mà cả 12 người con của bà lớn khôn, sống khấm khá tới bây giờ.
Bánh tét Trà Cuôn không giống bánh những nơi khác, nó đặc biệt ở chỗ từ khâu chuẩn bị nguyên liệu đến cách gói và cách luộc bánh. Bánh được gói bằng loại nếp sáp, đậu xanh nấu nhiễm và thịt mỡ, ba rọi ướp thơm. Bánh tét thường thì có màu trắng của nếp, cho thêm lá cẩm thì bánh có màu tím, cho vào nước cốt gấc thì bánh có màu đỏ, còn cho vào nước cốt bồ ngót già thì bánh có màu xanh rất tự nhiên. Nguyên liệu từ thiên nhiên này còn tạo ra mùi thơm rất đặc trưng và tươi bắt mắt.
Làm bánh tét là đòi hỏi sự tỉ mỉ và cần mẫn của người thợ trong từng công đoạn. Để có được đòn bánh tét ngon đến tay người tiêu dùng, thợ làm bánh trải qua nhiều giai đoạn cầu kì, như một nghệ nhân đi tìm những gì tinh túy nhất và sự tâm huyết của họ. Vì thế bánh tét Trà Cuôn nổi tiếng nhờ sự thơm ngon riêng biệt, không thể nhầm lẫn với bánh từ nơi khác.
Có lẽ bí quyết là ở khâu gói bánh, người gói phải cột bánh vừa đủ. Nếu quá chặt thì lớp mỡ bên trong sẽ không chín đều và tỏa hết vị béo ra bên ngoài. Còn cột quá lỏng thì nước thấm vào, bánh không ngon, mau thiu. Với kinh nghiệm làm nghề của người thợ ở đây, đã giúp bánh tét Trà Cuôn danh tiếng không chỉ ngon mà còn giữ được từ 5-7 ngày trong điều kiện tự nhiên mặc dù không có sự can thiệp của chất bảo quản.
Mỗi dịp năm hết Tết đến, bánh tét là thứ không thể thiếu trong các gia đình người Nam bộ, theo tập tục riêng của vùng miền. Có khách đến chơi, gia chủ chỉ cần cắt những khoanh bánh thơm lừng như tấm lòng của người dân quê thôn dã, thêm dĩa dưa giá, tôm khô củ kiệu và tô thịt kho tàu là đủ xôm tụ cho một mâm cơm tết. Bánh tét Trà Cuôn theo đó cũng có điều kiện vươn xa tới mọi vùng quê, dâng cho đời chút hương sắc đồng bằng và mùi vị đậm đà của tết phương Nam.
Gửi tặng bạn 💕 Thuyết Minh Về Cây Mai 💕 15 Mẫu Về Hoa Mai Hay Nhất
Thuyết Minh Về Món Bánh Tét Đạt Điểm Cao – Mẫu 5
Bạn đang tìm kiếm bài văn thuyết minh về món bánh tét đạt điểm cao cho kỳ thi sắp đến? Bài viết này dành cho bạn.
Nhắc đến bánh chưng, bánh giầy, bánh tét là nhắc đến những phong tục, truyền thống thờ cúng tổ tiên, cảm ơn trời đất cho một năm mùa màng bội thu bằng những món ăn được làm từ nếp, xuất phát từ nền văn hóa lúa nước, nông nghiệp lâu đời.
Trong tiềm thức của người Việt, những chiếc bánh thơm lừng ấy không đơn thuần là món ăn mà còn là niềm vui, sự hân hoan trong những ngày đầu năm mới. Ngày Tết cổ truyền, nhà nào cũng có cặp bánh để cúng gia tiên. Nếu bánh chưng, bánh giầy là nét văn hóa lâu đời của người miền Bắc, bánh tét lại được người dân miền Nam ưa chuộng hơn. Còn người miền Trung dùng cả bánh chưng và bánh tét, tuỳ theo khu vực.
Bánh tét có nguyên liệu giống bánh chưng, nhưng người miền Nam gói theo hình trụ dài. Vào ngày tết, người dân nơi đây thường làm hai loại bánh chay và mặn. Bánh chay để cúng ông bà, trời đất, bánh mặn dùng trong bữa ăn. Mỗi dịp Tết đến xuân về, chỉ cần thoáng nghe mùi nếp lan toả từ những chiếc bánh chưng, đòn bánh tét là những người con xa quê bỗng thấy rưng rưng nhớ về nguồn cội, ông bà cha mẹ. Đêm giao thừa, cả gia đình quây quần bên nhau xếp lá, gói bánh, nấu bánh… đã trở thành một hình ảnh thân thương, không thể thiếu trong những ngày Tết cổ truyền.
Không những mang nét đẹp văn hóa đặc trưng của người Việt, bánh tét còn chứa nhiều giá trị dinh dưỡng tốt cho sức khoẻ. Nếp có vị ngọt thơm tự nhiên và độ đường rất ít so với gạo, dễ tiêu hoá, tốt cho bao tử. Phần thịt heo, mỡ heo trong bánh cung cấp lipid và protein, còn nhân đậu cung cấp nhiều vitamin cùng khoáng chất. Chính vì vậy, món ăn này rất tốt cho sức khoẻ của mọi lứa tuổi trong gia đình. Ngoài ra, kỹ thuật gói và luộc bánh tốt sẽ giúp bảo quản được lâu, đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm.
Tuy nhiên giờ đây, hình ảnh những nồi bánh sôi sùng sục suốt đêm và ánh lửa bập bùng trong đôi mắt người trông bánh đã thưa dần, gần như đã không còn thấy ở thành phố nữa. Mỗi năm Tết đến, nhiều người không khỏi chạnh lòng khi nhớ về những cái tết thời thơ bé, được ông bà, bố mẹ hướng dẫn cách gói bánh và lòng háo hức mong đợi khoảnh khắc giao thừa.
Chia sẻ cơ hội 🌟 Nạp Thẻ Ngay Miễn Phí 🌟 Tặng Card Nạp Tiền Ngay Free Mới
Bài Thuyết Minh Bánh Tét Ngày Tết Quê Em – Mẫu 6
Bài thuyết minh bánh tét ngày tết quê em là một đề tập làm văn khá phổ biến trong nhà trường. Bài viết sẽ cung cấp một số bài văn mẫu cho bạn tìm hiểu thêm.
Đối với các gia đình trong mấy ngày tết, thiếu đi những đòn bánh Tét, coi như cái tết không được trọn vẹn. Có lẽ phong tục gói bánh Tét ngày tết đã ăn sâu trong tiềm thức người dân quê tôi.
Làng quê yên bình nằm nép mình bên dòng Sông Vệ (xã Đức Thắng, Mộ Đức, Quảng Ngãi) những ngày giáp tết lại bận rộn hơn nhiều. Người dân quê tôi lại tất bật lo mọi thứ để chuẩn bị đón tết, vui xuân được ấm cúng. Và đâu đó nồi bánh Tét ngày cuối năm không thể thiếu đối với mỗi gia đình. Nếu trong mỗi chúng ta, đi làm ăn đâu xa, và có những người đã lập gia đình rồi lỡ không về quê nhà đón tết cùng gia đình, thì tết đố thiếu đi một cái gì đó mà khó lòng nói ra được.
Bao lo lắng để ngày về quê kịp đón tết cùng gia đình cũng đến. Trên tay xách đủ thứ quà của người con xa xứ bao năm về quê đón tết, khiến cho đôi tay tôi mỏi nhừ. Hơn 16 giờ đồng hồ ngồi tàu từ Sài Gòn về quê nghèo tỉnh lẻ miền Trung cũng khá vất vả, nhưng trong lòng cảm thấy vui. Vui vì năm này mình được đón tết nơi mình đã sinh ra và lớn lên trong vòng tay yêu thương của mọi người.
Xa quê nhiều năm học tập và công tác, hương vị, không khí những ngày giáp tết cũng theo đó mà lùi dần vào quá khứ. Nơi Sài thành, tôi chỉ biết lo công việc cơ quan, rồi tất niên cuối năm ở cơ quan này, ban ngành nọ. Chỉ đến khi nghỉ tết về quê mới cảm nhận được không khí hối hả, tất bật của mọi nhà, mọi gia đình để chuẩn bị đón tết cổ truyền của dân tộc. Đó là khoảng thời gian thấy ấm cùng và hạnh phúc nhất.
Vừa về đến nhà, đã thấy ba, mẹ bày lá chuối và thúng nếp, đậu xanh, thịt và các loại gia vị hành mỡ, cùng đống lạt tre dùng làm dây buộc, chuẩn bị gói những đòn bánh Tét cho ngày tết. Quê tôi dù còn nhiều khó khăn, nhưng mỗi khi tết đến thì mọi nhà không thể thiếu nồi bánh Tét. Đây là những hương vị làm nên không khí ngày tết thêm ấm cúng và mặn nồng. Vì thế dù khó khăn đến mấy, họ cũng cố lo cho được những đòn bánh Tét để làm cho không khí ngày tết thêm phong phú và vui hơn.
Sau khi gói xong cũng là trời vừa tối, ba tôi lại cho lên bếp lớn mới được kê bằng ba viên đá cỡ lớn giữa sân để bắt đầu nấu. Ánh đèn điện bừng sáng, nồi bánh Tét cũng ngùn ngụt lửa đỏ bừng. Tiếng củi cháy nổ tanh tánh, tôi cùng ba, mẹ và đứa em lại quây quần bên nồi bánh Tét. Không gian màn đêm nặng mùi khói lửa, ba bắt đầu kể về những chuyện làm ăn năm qua. Kể về những thay đổi cuộc sống của gia đình và các gia đình xung quanh. Câu chuyện ba kể có phần vui hơn những năm về trước, nhờ điều kiện kinh tế được khá hơn, nên quê nhà đón tết với nhiều thứ ấm no hơn.
Những câu chuyện đời trong năm được ba ghi nhớ để dịp cuối năm mang ra kể như một điều gì đó mà bà xưa vẫn hay làm. Cứ thế ba kể trong hơi ấm của nồi bánh Tét đang được nấu chín dần, thỉnh thoảng ba lại dừng lại để đẩy lửa, và câu chuyện ngắt quãng đôi chút. Bên bếp lửa đỏ bừng, sau câu chuyện làm ăn năm qua, ba tôi lại truyền “bí kíp” để làm sao nấu bánh Tét được ngon, dẻo và chín đều, để được lâu.
Ba nói: “Ngoài việc lựa chọn những loại nếp thơm dẻo, ngon và nhân đảm bảo thì cách nấu cũng khá quan trọng. Trước khi nấu, cần cho bánh vào một lượt trong nồi, đổ nước lạnh vào ngập xâm xấp bánh. Sau đó đun lửa cháy đều cho nồi bánh sôi ùng ục quanh đều, giữ đều lửa để bánh chín dần. Nấu từ 8 đến 9 giờ đồng hồ, bánh Tét mới chín, sau đó nhỏ lửa và để ngâm khoảng vài giờ đồng hồ vớt bánh ra để ráo và treo lên”. Bằng cách nấu này đòn bánh Tét sẽ giữ được lá xanh, cây bánh đẹp và để được lâu ngày, khi dùng cũng rất ngon”.
Quê tôi giờ kinh tế có phần khá hơn, cuộc sống còn hiện đại nên một số gia đình không còn mặn mà gói bánh Tét. Nhưng điều đó không có nghĩa phong tục gói bánh Tét ngày tết bị mai một. Một số gia đình còn nặng lòng với việc gói bánh Tét lại trổ tài gói theo đơn đặt hàng cho mỗi gia đình. Cách làm như thế cũng tiện lợi nhưng tết nhà nào cũng có đòn bánh Tét để cúng ông bà tổ tiên, đãi khách trong những ngày tết.
Đòn bánh Tét quê tôi trong những ngày này giáp tết ai cũng nhắc đến. Ra tới đầu ngõ đã nghe mọi người bảo nhau, nồi bánh đã chín chưa, tết đã cận kề rồi. Không biết tự bao giờ nồi bánh Tét ngày tết, hay nói cách khác, nồi bánh của đêm giao thừa đã trở thành nét văn hóa, một phong tục không thể thiếu đối với mỗi gia đình quê tôi. Mà sâu xa hơn đó là nét văn hóa từ ngàn đời nay của dân tộc ta mỗi độ tết đến, xuân về.
Chỉ còn khoảng thời gian ngắn nữa thôi, nồi bánh Tét của ba sẽ chín, khoảnh khắc đêm giao thừa cũng đến, cả gia đình tôi quây quần bên hơi ấm để đón năm mới. Và sáng ngày đầu năm (tức sáng ngày mùng Một Tết) cổ truyền, ba, mẹ lại hướng dẫn tôi Tét bánh để dâng cúng ông bà, tổ tiên ngày đầu năm mới, sau đó thưởng thức hương vị mặn nồng của bánh Tét ngày tết, với lời chúc mọi sự điều tốt lành và an vui.
Giới thiệu đến bạn 🌟 Thuyết Minh Về Hoa Đào 🌟 15 Bài Về Cây Đào Hay
Thuyết Minh Về Món Ăn Ngày Tết Bánh Tét – Mẫu 7
Đề tài làm văn thuyết minh về món ăn ngày tết bánh tét đang làm bạn đau đầu, dưới đây là bài văn mẫu cung cấp cho bạn những thông tin mới mẻ để áp dụng vào bài viết.
Bánh tét được phổ biến bắt đầu từ tỉnh miền Trung Thừa Thiên – Huế trở vào. Tùy từng địa phương mà thêm gia vị cho phù hợp và tùy hoàn cảnh mà có kích thước khác nhau. Phổ biến nhất là bánh có độ dài khoảng 2 gang tay người lớn, với đường kính 10cm, khi cắt bánh xếp ba lát bánh tạo thành hình cánh hoa, ở giữa đặt thêm một lát bánh nữa tạo thành hình hoa trên đĩa.
Đặc biệt, vùng Đồng bằng sông Cửu Long xưa kia, có gia đình con, cháu đông đúc người ta thường gói những đòn bánh lớn, nặng hơn 1kg, khi cắt ra đặt gọn trong lòng đĩa, phần vỏ bánh có màu xanh cốm, chính giữa là nhân đậu xanh vàng óng trông đẹp mắt. Nhiều gia đình gói bánh chay nhân không có thịt hoặc đậu xanh trộn thêm đường làm nhân ngọt, cũng có nhà làm bánh tét nhân chuối thay cho nhân đậu xanh. Chuối làm nhân người dân thường chọn chuối xiêm (một loại chuối phổ biến của miền Nam) trộn thêm ít đường để tăng vị ngọt, khi bánh chín nhân có màu đỏ tím nổi bật giữa lớp vỏ nếp trắng trông rất lạ mắt.
Cũng còn một loại bánh tét đặc biệt nữa là bánh tét thập cẩm. Nguyên liệu chính của bánh vẫn là nếp và đậu xanh, nhưng phần nhân có thêm trứng, tôm khô, lạp sườn, hạt sen, lạc, nấm. Loại bánh này ăn rất ngon nhưng cũng khá tốn kém, xưa kia chỉ những gia đình khá giả mới làm. Bánh phải được buộc thành cặp, có buộc dây để dễ xách, khi tặng người thân, bè bạn phải cả đôi, thay cho lời chúc một năm mới đủ đôi vừa cặp, hạnh phúc, thịnh vượng.
Bánh phải được cắt bằng sợi chỉ tạo cho mặt bánh mịn màng. Ăn bánh với củ kiệu hoặc thịt lợn kho tàu, mùi thơm dẻo của gạo nếp, vị bùi của nhân đỗ, vị béo của thịt lợn và vị chua của củ kiệu hoà quyện với gia vị tạo nên hương vị thật là độc đáo làm người ăn một lần sẽ nhớ mãi.
Gợi ý cho bạn 🍃 Thuyết Minh Về Loài Hoa Ngày Tết 🍃 15 Bài Thuyết Minh Hay Nhất
Bài Văn Thuyết Minh Về Bánh Tét Ngắn Gọn – Mẫu 8
Để tiết kiệm thời gian ôn tập các môn học khó nhằn khác, sau đây là bài văn thuyết minh về bánh tét ngắn gọn để bạn dễ ghi nhớ và hoàn thành nhanh bài tập của mình.
Đối với một số người Nam bộ, bánh Tét không chỉ là món ăn truyền thống khơi hương vị làm tết thêm đậm đà mà nhiều thế hệ trước vẫn mong muốn người trẻ học hỏi và yêu cách làm ra bánh tét.
Gói bánh tét từ lâu đã trở thành một nét văn hóa truyền thống của người dân Nam bộ. Mỗi độ tết đến thì mọi người thường nghe nhắc đến món bánh tét thơm ngon. Thông thường, mỗi gia đình sẽ tự tay nấu những nồi bánh tét thơm phức để cúng và thưởng thức trong dịp tết. Tuy nhiên, vẫn có một số nhà bận rộn nên mua bánh tét và mong muốn ăn được vị ngon truyền thống. Từ công đoạn chà nếp, xào nếp rồi để nguội chuẩn bị gói bánh đã thấy được sự kì công của người làm bánh. Những đòn bánh xanh màu lá chuối bỏ vào nồi nước sôi sung sục đến khi bánh chín tầm hơn 3 tiếng đồng hồ.
Bánh Tét thì cách làm đơn giản như ông bà từ trước đến nay vẫn làm, từ những nguyên liệu cơ bản như nếp, nước cốt dừa, các loại nguyên liệu làm nhân… Tuy nhiên để giúp bánh thơm béo nhưng không bị ngấy thì cần cân bằng các nguyên liệu làm bánh như việc nêm nếm, pha nước cốt dừa theo một tỉ lệ hợp lí. Ngoài ra để đòn bánh tét được vừa ngon vừa đẹp mắt thì trong lúc buộc dây cần thắt chặt và canh đều các khoảng cách để đòn bánh trông đẹp mắt hơn.
Ngày xưa, vào những ngày cuối năm khi gói bánh cũng là lúc gia đình, họ hàng, người lớn đến trẻ nhỏ quây quần phụ việc. Từ việc xào nếp, nạo dừa, cân nếp, gói bánh… mỗi người chia nhau làm. Mỗi người một việc, vừa làm vừa trò chuyện vui vẻ khiến không khí gia đình ấm áp hơn bao giờ hết. Họ nói với nhau về những vui buồn trong năm sắp hết, công việc của một năm qua, về câu chuyện làm bánh Tét, những dự tính ngày tết… Những đứa trẻ thích thú, ngoan ngoãn ngồi cạnh người lớn để theo dõi việc gói bánh và bắt chước một cách đáng yêu.
Năm nào cũng vậy, khi mà mọi người cùng nhau làm bánh, họ hay nhắc chuyện xưa, nói về ý nghĩa của món bánh Tét đối với văn hóa vùng miền cho mọi người nghe.
Tìm hiểu hướng dẫn 🔥 Kiếm Thẻ Cào Miễn Phí 🔥 Kiếm Tiền Online Kiếm Thẻ Cào
Bài Thuyết Trình Về Bánh Tét Học Sinh Giỏi – Mẫu 9
Làm sao để gây ấn tượng cho người đọc với bài văn viết về ngày tết? Sau đây là bài thuyết trình về bánh tét học sinh giỏi với các kiến thức nâng cao dành cho bạn.
Không biết từ bao giờ, trong các món ăn ngày Tết của người miền Nam luôn có mặt món bánh tét. Cũng ít ai giải thích được vì sao Tết đến phải gói bánh tét, nhưng theo phong tục Tết cổ truyền nồi bánh tét được nấu vào đêm 30 đón giao thừa.
Tết, người Nam Bộ chỉ gói hai loại bánh tét là: bánh tét chay và bánh tét mặn. Bánh chay để cúng ông bà, trời đất, bánh mặn dùng trong bữa ăn. Bánh tét ăn kèm với củ kiệu, dưa chua, thịt kho tàu. Một số sách vở cho rằng, bánh tét là sản phẩm của sự giao thoa nhiều nền văn hóa khác nhau tại miền Nam. Trong đó, chủ đạo là văn hóa Chăm với tín ngưỡng “phồn thực”.
Hình dạng bánh tét là hình tượng Linga. Nó không chỉ là món ăn ngày Tết mà còn chứa đựng cả thuyết âm dương, tam tài, ngũ hành với năm màu sắc: màu xanh của lá gói bánh (lá dứa, lá dong hoặc lá chuối), của nếp được bỏ màu khi gói, màu vàng đậu xanh nhân bánh, hai màu đỏ, trắng của thịt ba chỉ làm nhân bánh và màu đen của tiêu trộn vào nhân đậu xanh hoặc ướp thịt nhân bánh. Đó là năm màu của ngũ hành trong triết học phương Đông: hỏa (màu đỏ), thủy (màu đen), mộc (màu xanh), kim (màu trắng), thổ (màu vàng).
Nguyên liệu làm bánh là từ động vật (thịt ba chỉ) và thực vật (lá gói, gạo nếp, đậu xanh), đại diện cho hai cực âm – dương. Ngoài ra, đậu và nếp cũng là hai cực âm – dương khi được trồng ở hai nơi: đậu trên cạn và lúa nếp dưới nước. Âm dương hòa quyện vào nhau không thể tách rời và làm nên một vật phẩm, một món ăn đặc trưng cho ngày Tết cổ truyền.
Mặt khác, tên gọi bánh tét có cách phát âm gần giống với từ “Tết” nên người ta cho rằng bánh tét là bánh Tết được đọc lệch đi theo cách ăn loại bánh này. Điều này giải thích vì sao bánh tét lại có mặt trong ba ngày Tết của người miền Nam. Một truyền thuyết khác bổ sung thêm cho nguồn gốc của bánh tét, cách gọi tên bánh và thói quen ăn bánh tét trong ngày Tết được kể như sau:
Vào mùa xuân Kỷ Dậu năm 1789, Nguyễn Huệ và quân ta đánh đuổi quân Thanh ra khỏi đất nước. Lúc bấy giờ quân lính được nghỉ ngơi, ăn Tết. Trong số quân lính có anh lính nọ được người nhà gửi cho món bánh làm từ gạo nếp, nhân đậu xanh, hình dạng như bánh tét ngày nay (tuy nhiên lúc bấy giờ chưa có tên gọi). Anh lính mang bánh mời vua Quang Trung.
Vua ăn thấy ngon bèn hỏi thăm về loại bánh này. Anh lính kể, bánh do người vợ ở quê nhà làm gửi cho. Mỗi lần ăn bánh, anh càng thương, càng nhớ vợ nhiều hơn. Anh mắc chứng đau bụng (có thể xem là đau dạ dày) nhưng khi ăn bánh này thì lại không thấy đau nữa.
Nghe câu chuyện cảm động của anh lính, vua bèn ra lệnh cho mọi người gói loại bánh này để ăn Tết và đặt tên là bánh Tết nhằm ghi nhớ chiến thắng giặc Thanh vào mùa xuân và thể hiện tình cảm gia đình thắm thiết mỗi độ xuân về. Đó được xem là nguồn gốc của bánh tét trong ngày Tết cổ truyền.
Đón đọc tuyển tập 💧 Thuyết Minh Về Chiếc Nón Lá 💧 15 Bài Văn Về Cái Nón Lá Hay
Thuyết Minh Về Cách Làm Bánh Tét – Mẫu 10
Bạn có biết để làm được bánh tét cần trải qua những công đoạn gì? Sau đây là bài văn mẫu thuyết minh về cách làm bánh tét để bạn góp nhặt thông tin cho bài văn của mình.
Hàng năm, cứ vào dịp Tết đến xuân về, mọi gia đình trên đất nước Việt Nam đều tất bật sửa soạn chuẩn bị cho ngày lễ truyền thống của dân tộc. Nếu như người miền Bắc có bánh chưng xanh, thịt mỡ, dưa hành thì đặc sản của người miền Nam đó chính là những đòn bánh tét, ăn với cháo cá và các loại rau có sẵn trong vườn nhà.
Có thể nói, bánh tét chính là hương vị tết cổ truyền đặc trưng, độc đáo của miền Nam. Nguyên liệu để làm ra những đòn bánh tét vẫn là gạo nếp, đỗ xanh, thịt lợn… Tương tự như bánh chưng, bánh tét cũng mang trong mình màu xanh thẫm lá chuối và hương vị gạo-thịt đặc trưng của đất nước Việt Nam giàu truyền thống nông nghiệp. Người dân Nam Bộ thường gói bánh hình dạng giống đòn gánh. Cứ mỗi hai đòn bánh lại cột thành một cặp, cột thêm dây quai để treo lên hoặc tặng cho người thân.
Ngày nay, sự chế biến và làm bánh tét cũng có sự đa dạng và phong phú vô cùng. Nào là bánh tét nhân ngọt, bánh tét nhân chuối, bánh tét truyền thống, bánh tét thập cẩm có thêm trứng, tôm khô,… để gia tăng hương vị, tùy sở thích của mỗi gia đình. Theo tập tục của người miền Nam, mỗi lần gói bánh tét, người ta thường gói chí ít 5 đến 7 đòn vừa để ăn dần, tránh hỏng trong thời tiết nóng ẩm của miền Nam. Trong những gia đình, cả nhà tự quât quần lại gói bánh.
Gạo nếp trước khi gói bánh thường được ngâm trước vài tiếng,đãi sạch. Sau đó đem gạo ướp muối có độ đậm nhạt vừa phải. Đậu xanh ngâm đãi sạch vỏ và thịt ba rọi xắt vuông dài làm nhân bánh (không ướp hành củ, tiêu bột như bánh chưng). Bánh làm xong được cho vào nồi cao (người ta hay dùng thùng phi cũ cắt nửa) vì phải để bánh dựng đứng, nấu bằng củi gộc đun sôi trong gần một buổi, thời gian nấu tùy và kích cỡ bánh nhưng thông thường từ 6 – 8 giờ.
Khi mới bắt đầu đun nồi bánh phải đun to lửa cho sôi nước trong nồi một lúc sau đó rút bớt lửa để sôi liu riu suốt quá trình nấu bánh, độ nóng lan tỏa để bánh được chín đều. Bánh chín được vớt ra rổ cho ráo nước và nguội. Cả nhà có thể ngồi bên nhau quây quần trông nồi bánh tét, hưởng thụ hương vị của ngày tết đoàn viên.
Cắt bánh tét bằng cách bóc vỏ từ từ và dùng dây lạt buộc bánh (hoặc dây chỉ) để cắt bánh thành từng lát mỏng, tước vỏ đến đâu cắt bánh đến đó. Tay trái cầm bánh, tay phải cầm một đầu lạt và đầu còn lại cắn vào miệng, khoanh tròn lạt quanh bánh đã tước vỏ và tét từng khoanh bánh đơm lên đĩa. Một biến thể thú vị khi đã quá ngán món bánh tét truyền thống là bánh tét chiên, ăn kèm với rau sống.
Tóm lại, bánh tét chính là một phần không thể thiếu trong mâm cơm cổ truyền ngày Tết của người dân Nam Bộ. Nó là món ăn quê hương, mang trong mình giá trị của dân tộc và vẻ đẹp văn hóa của đất nước Việt Nam
Mời bạn xem nhiều hơn 🌟 Thuyết Minh Về Cây Bút Máy 🌟 15 Mẫu Về Chiếc Bút Mực Hay
Thuyết Minh Cách Làm Bánh Tét Ngắn Hay – Mẫu 11
Bài viết dưới đây tập hợp các bài văn thuyết minh cách làm bánh tét ngắn hay để bạn dễ dàng ôn tập và đạt hiệu quả cao trong bài kiểm tra.
Từ lâu, bánh tét hiện diện như một nét văn hóa độc đáo của người dân Nam Bộ. Đặc biệt trong những ngày giỗ, ngày lễ hội và ngày Tết, bánh tét là một trong những món không thể thiếu để các gia đình dâng cúng ông bà, tổ tiên. Hương vị bánh tét làm cho Tết cổ truyền trở nên ấm áp hơn.
Mỗi dịp Xuân về, nếu ở miền Bắc, miền Trung có bánh chưng xanh thì ở miền Nam có bánh tét. Nguyên liệu gói bánh tét cũng là những nguyên liệu đậm chất quê hương như bánh chưng, gồm gạo nếp, đậu xanh, thịt lợn… nhưng khác ở chỗ: nếu bánh chưng gói bằng lá dong thì bánh tét gói bằng lá chuối, nếu bánh chưng hình vuông thì bánh tét gói tròn, dài khoảng 20cm. Tuy nhiên, nhân bánh tét phong phú hơn, có thể là thịt, có khi nhân làm bằng chuối chín.
Bánh tét có nhiều loại nhân và vị mặn, ngọt tùy ý gia chủ. Phần nếp, bánh tét cổ truyền thường được trộn thêm đậu đỏ hoặc đậu đen cho có sắc màu. Bánh tét được xem như một món ăn phổ biến không thể thiếu trong mâm cỗ ngày Tết của người dân Nam Bộ. Để hương vị bánh thơm ngon, công việc gói bánh phải chu đáo, tỉ mỉ ngay từ khâu chuẩn bị. Gạo nếp ngon, không bị lẫn gạo tẻ đem vo sạch, để ráo nước. Đậu xanh đãi vỏ nấu nhuyễn. Dừa khô nạo nhỏ vắt lấy nước cốt. Lá dứa giã nhuyễn, lọc lấy nước trộn hòa vào nếp để lấy mùi thơm và màu xanh hoặc cho nguyên lá vào nấu sôi chung với nước cốt dừa lấy mùi thơm.
Sau đó, nếp đã ráo nước được cho vào xào săn chung với nước cốt dừa tạo vị béo và thơm. Thịt mỡ hoặc thịt ba chỉ cắt hình chữ nhật theo độ dài của bánh và ướp chút muối, chút đường trước khi làm nhân. Đậu xanh nấu nhuyễn vo làm nhân được nắn theo chiều dài của bánh tét.
Hoàn thành việc gói bánh xong thì chuẩn bị khâu luộc: nước nấu sôi, xếp bánh vào theo từng lớp, đổ nước thêm cho ngập bánh và chất lửa nấu, nước cạn tới đâu thêm vào đến đó. Quá trình nấu kéo dài khoảng 8 tiếng thì bánh thành phẩm rền, thơm, béo ngậy. Đĩa bánh cắt khoanh sau khi dâng cúng tổ tiên trong ngày Tết được hạ xuống ăn cùng với thịt kho, dưa món đậm đà hương vị quê hương.
Ngày Xuân, mọi thành viên trong gia đình về đoàn tụ và được thưởng thức những khoanh bánh tét thơm ngon mới thấy hết giá trị của không khí gia đình truyền thống và ý nghĩa Tết cổ truyền của dân tộc. Màu xanh của lá, mùi thơm của nếp, của lá dứa, vị ngọt bùi của nhân đậu, thịt sẽ là hương vị đậm đà khó quên cho mỗi người, nhất là đối với du khách đã một lần ghé thăm và ăn Tết với người dân Nam Bộ.
SCR.VN tặng bạn 💧 Nhận Thẻ Cào 50k Miễn Phí 💧 Kiếm Thẻ Cào Free
Thuyết Minh Về Cách Gói Bánh Tét Sinh Động – Mẫu 12
Làm sao để thuyết minh về cách gói bánh tét sinh động, sau đây là bài văn hướng dẫn chi tiết để bạn tìm được những ý chính cho bài văn của riêng bạn.
Việt Nam – dải đất hình chữ S thân yêu của chúng ta luôn được bè bạn trên khắp thế giới biết đến là thiên đường ẩm thực với nhiều món ăn hấp dẫn, thú vị. Trong thế giới ẩm thực với muôn ngàn hương vị, sắc màu ấy, những món bánh luôn được nhiều người lựa chọn khi ghé thăm Việt Nam và bánh tét và một trong số những loại bánh như thế. Cùng khám phá, tìm hiểu về bánh tét chắc hẳn chúng ta sẽ có nhiều cảm nhận độc đáo và thú vị.
Cùng với bánh chưng, bánh tét cũng là một loại bánh gần gũi và phổ biến của những người con đất Việt trong đời sống hằng ngày và đặc biệt là trong dịp Tết cổ truyền của dân tộc. Bánh tét là loại bánh có nguồn gốc lâu đời bậc nhất ở nước ta. Bánh tét ở mỗi vùng miền khác nhau còn có thể được gọi bằng những cái tên khác như bánh đòn, bánh tày,… Bàn về sự ra đời của bánh tét có nhiều giai thoại khác nhau song mỗi giai thoại đều có những lí do và ý nghĩa riêng.
Theo một số chuyên gia nghiên cứu về văn hóa, bánh tét chính là một trong số những sản phẩm của quá trình giao lưu văn hóa Việt – Chăm. Do trong quá trình giao lưu văn hóa, người Việt đã chịu ảnh hưởng của văn hóa Chăm nói chung, yếu tố tín ngưỡng Chăm nói riêng và đặc biệt là yếu tố tín ngưỡng thờ thần nên về sau người Việt đã sáng tạo ra chiếc bánh tét như bây giờ. Tuy nhiên, bên cạnh ý kiến cho rằng bánh tét là sản phẩm của văn hóa Việt – Chăm thì nhiều giai thoại hiện còn lại trong dân gian cho rằng bánh tét ra đời gắn với câu chuyện vua Quang Trung đánh giặc Thanh vào dịp Tết.
Khi đó, vua đã được một quân lính dâng lên một chiếc bánh được gói thành hình trụ trong lá chuối, khi ăn rất ngon và về sau, vua đã ra lệnh cho mọi người gói bánh này vào dịp Tết, đồng thời đặt tên cho nó là bánh tét. Như vậy, có thể thấy, có nhiều tích truyện, giai thoại khác nhau về nguồn gốc, sự xuất hiện của bánh tét song theo cách lí giải nào đi chăng nữa thì cũng có thể thấy bánh tét là một trong số những loại bánh đã xuất hiện ở nước ta từ rất sớm và rất gần gũi, quen thuộc với mọi người dân Việt Nam.
Bánh tét thường được làm từ hai loại nhân chủ yếu là nhân ngọt từ chuối và nhân mặn từ đậu, thịt và cũng căn cứ vào đặc điểm của nhân bánh mà người ta chia bánh tét thành hai loại là bánh tét ngọt và bánh tét mặn. Cũng giống như bánh chưng, những nguyên liệu để làm bánh tét cũng rất đơn giản và là những vật phẩm gần gũi trong cuộc sống hằng ngày của con người Việt Nam như gạo nếp, đậu xanh, thịt lợn, lá chuối, lạt buộc cùng các loại gia vị khác như tiêu, đường,… Để làm ra một chiếc bánh tét đòi hỏi người làm bánh phải rất cẩn thận, tỉ mỉ và phải trải qua các giai đoạn, các bước khác nhau.
Việc làm đầu tiên để tạo ra một chiếc bánh tét đó chính là khâu sơ chế nguyên liệu. Gạo nếp sau khi mua về cần được làm sạch, rồi đem đi ngâm với nước, để qua đêm nhằm mục đích làm cho hạt nếp nở ra, khi nấu bánh sẽ nhanh chín và dẻo hơn. Cùng với gạo nếp, nhân bánh cũng là phần quan trọng được những người làm bánh đặc biệt chú ý. Nhân bánh thường được làm từ đậu xanh, thịt lợn. Đậu xanh ngâm với nước rồi đãi sạch vỏ và nấu nhuyễn. Thịt lợn được cắt thành sợi dài, ướp với tiêu, nước mắm và không cho thêm dưa hành như nhân của bánh chưng.
Cuối cùng đó chính là chuẩn bị lá và lạt buộc. Lá chuối để gói bánh thường được hơ qua lửa để có độ dẻo dai nhưng vẫn giữ được màu sắc. Lạt buộc thường được chẻ thành sợi dài và mỏng để dễ dàng hơn khi buộc bánh. Sau khi đã chuẩn bị xong nguyên liệu, người ta tiến hành gói bánh. Bánh tét được gói thành hình tròn với độ dài khoảng 20 xăng-ti-mét. Sau khi đã gói xong bánh đó chính là giai đoạn nấu bánh. Bánh tét thường được nấu trong khoảng thời gian 8 tiếng thì chín, có độ mềm, dẻo với mùi thơm, béo ngậy.
Có thể thấy, bánh tét là một loại bánh gần gũi với những người con đất Việt và có lẽ bởi vậy nó có vai trò, giá trị và ý nghĩa to lớn trong đời sống hằng ngày của chúng ta. Trước hết, bánh tét là loại bánh không thể thiếu trên bàn thờ tổ tiên mỗi dịp Tết đến xuân về bởi người Việt ta từ ngàn đời nay quan niệm thưởng thức bánh tét vào những ngày cuối năm hay đầu năm mới thể hiện sự cầu chúc ấm no, sum vầy hạnh phúc của gia đình và hơn thế nữa, nó thể hiện sự đa tạ, biết ơn trời đất, ông bà tổ tiên đã cho người dân mùa màng thuận lợi, vạn điều tốt lành.
Không dừng lại ở đó, bánh tét còn là hình ảnh tượng trưng cho niềm ước mong được “an cư lạc nghiệp” của một mùa xuân, một năm mới an bình đối với mọi gia đình. Bánh tét còn là một nét đẹp văn hóa trong ẩm thực của người Việt, được bạn bè trên khắp năm châu bốn bể biết đến.
Tóm lại, cũng giống như bánh chưng, bánh tét là một loại bánh cổ truyền của dân tộc, nó có ý nghĩa to lớn trong đời sống của những người con Việt Nam. Chiếc bánh tét nhìn giản đơn nhưng thấm đẫm thật nhiều ý nghĩa cùng những điều tốt đẹp và có lẽ bởi vậy, dẫu thời gian trôi đi, cuộc sống ngày càng có thêm nhiều món ăn mới, hấp dẫn hơn nhưng sẽ không bất cứ món ăn nào có thể thay thế được vị trí của chiếc bánh tét trong lòng con người Việt, đặc biệt là mỗi dịp Tết đến xuân về.
Mời bạn tham khảo 🌠 Thuyết Minh Về Chiếc Khăn Quàng Đỏ 🌠 15 Bài Văn Hay Nhất
Thuyết Minh Về Phương Pháp Cách Làm Bánh Tét – Mẫu 13
Thuyết minh về phương pháp cách làm bánh tét là bài văn cần có độ chính xác và hiểu biết sâu về ẩm thực truyền thống Việt Nam, sau đây là bài văn gợi ý cho bạn.
Không khí ngày xuân không thể thiếu rượu, bánh mứt, phong bao lì xì đỏ, cây nêu và bánh chưng xanh. Đối với cư dân vùng đồng bằng Nam bộ, bánh Tét lại là món ăn không thể thiếu trên bàn thờ gia tiên như tấm lòng thành kính của con cháu sau một năm làm lụng vất vả. Ngồi bên bếp lửa hồng, nghe hơi ấm giữa lòng đêm se se chợt nghe bao ký ức tìm về.
Nếu ở miền Bắc trong ngày Tết, giỗ kỵ, các lễ hội cổ truyền có bánh dày, bánh chưng để dâng cúng tổ tiên, thì ở Nam Bộ bánh Tét được liệt ngang hàng, coi như bánh Tổ. Hiện diện như một nét văn hóa của miền Nam, bánh Tét gói ghém trong nó cả một nền văn minh nông nghiệp với gạo nếp, đỗ xanh, thịt lợn… quyện vào nhau thật dẻo mềm, bùi béo giữa màu xanh thẫm và láng mượt của lớp lá chuối mang hương vị tự nhiên của trời đất. Thường được gọi là bánh đòn do có hình trụ dài và tròn đều, cứ mỗi hai đòn bánh lại cột thành một cặp có dây quai để xách, vừa tiện vừa đẹp, lại phù hợp với tập quán vì năm mới phải đủ đôi, chẵn cặp mới hạnh phúc, thịnh vượng.
Tương truyền tên gọi “bánh Tét” có xuất xứ từ hành động nắm đầu dây buộc, khoanh tròn đòn bánh đã lột vỏ, “Tét” từng khoanh một đơm lên đĩa. Cũng có thuyết cho rằng bánh Tét là một biến thể của chiếc bánh chưng ngoài Bắc về nguyên liệu, cách nấu, chỉ khác về hình dáng và sử dụng lá chuối để gói thay vì lá dong. Hay có nơi lại hiểu bánh Tét là một trong những sản phẩm của trồng trọt và chăn nuôi Việt Nam, cái đặc sắc, độc đáo của bánh chủ yếu ở nét khác biệt trong hình khối, màu sắc, hương vị so với các loại xôi đỗ và bánh nếp khác nên cứ mỗi năm tết đến người phương Nam lại gói loại bánh này, gọi là “bánh tết”, lâu dần đọc trại ra thành “bánh Tét”.
Được người Kinh và một số dân tộc thiểu số ở miền Nam và Trung chế biến một cách tài tình, lại tuỳ theo địa phương mà thêm thắt gia vị cho hợp khẩu nên đòn bánh Tét phương Nam ngày càng phong phú về chủng loại và hương vị.
Nào là bánh Tét nhân ngọt (không có thịt) nhân đậu xanh có trộn đường; bánh Tét nhân chuối thay cho nhân đậu xanh, đòn nhỏ một trái chuối, còn đòn lớn ba trái chuối xiêm chín có thêm đường để tăng độ ngọt cho nhân, khi chín có màu đỏ tím. Tét khoanh bánh ra trông lạ mắt, màu đỏ tím chính giữa nổi bật bên ngoài màu nếp trắng phau rất đẹp. Nào là bánh Tét thập cẩm với phần nhân cao cấp gồm trứng, tôm khô, lạp xưởng, hạt sen, thịt giò Bắc thảo, đậu phộng, nấm đông cô trộn chung với nhân đậu xanh…
Mỗi lần gói bánh Tét, người ta thường gói chí ít 5 – 7 đòn vừa để dành ăn dần, vừa để biếu hàng xóm láng giềng, bà con thân thích. Hay nhất là cứ sau hăm ba ông Táo chầu Trời cả nhà tự xúm xít lại gói bánh. Trước tiên, xếp lá chuối ngang dọc xen kẽ nhau, sau đó cho gạo nếp, đậu xanh đãi vỏ đã nấu chín lên trên, trải đều ra thành hình chữ nhật, sau đó thêm vào giữa một miếng thịt lợn theo chiều dài đòn bánh. Kế đến cho thêm một lớp đậu xanh và một lớp gạo nếp lên trên cùng rồi bắt đầu lăn cuộn bánh. Gấp một đầu bánh lại và bắt đầu nén gạo cho chặt và buộc dây lạt nữa là hoàn tất.
Để nấu bánh, chọn một cái nồi thật cao để xếp những chiếc bánh vào, cho nước ngập mặt bánh rồi đun trên bếp củi. Cách giờ phải thăm và châm nước thêm. Bánh nấu liên tục trong khoảng từ 10 – 12 tiếng đồng hồ mới chín đều. Vì thời gian nấu lâu nên hạt gạo khi chín sẽ mềm và quyện chặt lấy nhau, khác hẳn với xôi khi người ta “đồ”. Lúc này, các vật liệu như thịt (phải là thịt vừa nạc vừa mỡ mới ngon; chỉ thịt nạc, nhân bánh sẽ khô), gạo, đỗ đều chín nhừ, chan hòa, ngấm vào nhau, trở nên thơm ngon độc đáo.
Cùng nhau ngồi quây quần bên nồi bánh Tét đượm ánh lửa hồng, chợt nghe trong lòng lâng lâng bao cảm xúc khó tả về một sự thiêng liêng, sự hòa điệu của thiên nhiên và con người giữa đêm thanh vắng chỉ còn tiếng cười nói, tiếng tí tách của những thanh củi và bao câu chuyện vượt thời gian. Người này canh bánh thì người kia ngủ, trong giấc ngủ mơ màng bạn sẽ được nghe thoang thoảng mùi hương tỏa ra từ những đòn bánh chín đầu tiên của mùa Tết. Tự tay vớt những đòn bánh ra và xếp thành từng dãy trên bể nước, dằn cho bánh được ráo cũng sẽ rất thú vị cho những ai tự nấu bánh Tết cho người thân và gia đình.
Thưởng thức bánh Tét cũng đòi hỏi sự tinh tế và cầu kỳ, tuyệt đối không nên dùng dao để cắt, thay vào đó, người ta bóc vỏ rồi dùng dây buộc bánh để cắt thành từng khoanh mỏng. Bánh được đánh giá là gói khéo khi khoanh bánh tròn đều, buộc chặt, nhân bánh nằm chính giữa. Bên cạnh đó, món bánh Tét chiên giòn cũng ngon tuyệt, không kém phần hấp dẫn với những miếng bánh chiên phồng, vàng ruộm, thơm lừng.
Ngày xưa chỉ đến Tết mới gói bánh, bây giờ bánh Tét, bánh dày, bánh chưng… hiện diện cả năm, cần lúc nào có sẵn ngay lúc đó. Nhưng, dù có mỗi ngày thì đến Tết vẫn cứ phải có bánh Tét. Nam bộ không có hoa, mứt, nồi thịt kho tàu và bánh Tét thì cũng xem như mất đi dư vị Tết. Ấy vậy mới biết, Tết là sự tổng hòa của nhiều yếu tố, văn hóa, ẩm thực, hội hè và chỉ cần có thế thôi không khí Tết đã tồn tài và mang hơi thở ngàn năm đến với mọi người, mọi nhà trong niềm vui sum họp.
Đừng bỏ qua 🔥 Thuyết Minh Về Hoa Ly 🔥 15 Bài Thuyết Minh Hay Nhất
Thuyết Minh Về Bánh Chưng Bánh Tét – Mẫu 14
Trong cụm chủ đề văn học viết về ngày tết không thể bỏ qua ẩm thực Tết Việt, bài viết này sẽ cung cấp cho bạn bài văn mẫu thuyết minh về bánh chưng bánh tét phù hợp và hay nhất.
Trong dân gian, mỗi dịp xuân về người ta vẫn thường nghe câu:
Thịt mỡ, dưa hành, câu đối đỏ
Cây nêu, tràng pháo, bánh chưng xanh
Vâng đúng vậy, bánh chưng đã trở biểu tượng không thể thiếu trong dịp Tết cổ truyền của dân tộc Việt Nam ta. Từ xa xưa đến nay, hình ảnh nhà nhà tất bật chuẩn bị quây quần bên nồi bánh chưng để đón Tết vô cùng quen thuộc với chúng ta. Bởi trong tâm thức của mỗi người thì bánh chưng là món ăn mang ý nghĩa sum vầy, đoàn viên.
Tương truyền trong câu nói của ông bà ta rằng bánh chưng ngày Tết đã có từ rất lâu. Mọi người vẫn tin rằng bánh chưng bánh giầy có từ thời vua Hùng thứ 6, và cho đến ngày nay thì nó đã trở thành biểu tượng của Tết truyền thống tại nước ta. Người đời vẫn luôn cho rằng bánh chưng là minh chứng cho sự đủ đầy của trời đất và sự sum vầy của gia đình sau một năm trời làm việc tất bật.
Cho dù chúng ta có ở bất cứ đâu trên mảnh đất hình chữ S này thì bánh chưng là món ăn không thể thiếu trong ngày Tết. Có thể nói đây là món ăn được chờ đợi nhiều nhất, vì ngày Tết mới đúng là ngày thưởng thức những chiếc bánh chưng ngon và ấm áp nhất. Nhưng nếu bạn tới các vùng miền khác nhau thì bạn sẽ được thưởng thức hương vị cũng như thấy được cách làm đặc trưng ở mỗi nơi có điểm khác nhau.
Về nguyên liệu, bánh chưng được làm từ những nguyên liệu rất đơn giản và thân quen với đời sống nhân dân. Nguyên liệu chính là gạo nếp, lá dong, thịt, đậu xanh giã nhỏ (hoặc nhân đậu hấp). Mỗi nguyên liệu đều được chọn lọc thật kỹ để có thể tạo nên món ăn ngon và đậm đà nhất. Về phần gạo nếp thì ta chọn những hạt tròn lẳn, đều hạt, không bị mốc, khi nấu lên ngửi thấy mùi thơm lừng của nếp.
Đậu xanh chọn loại đậu có màu vàng đẹp, nấu nhừ lên và giã nhuyễn làm nhân. Thịt ba chỉ hoặc thịt nạc cần trộn với tiêu xay, nêm nếm vừa ăn. Một nguyên liệu khác không kém phần quan trọng chính là lá dong để gói bánh. Ở một số vùng khác người ta dùng lá chuối gói bánh nhưng phổ thông nhất vẫn là lá dong. Lá gói bánh cần lau sạch, bỏ cuống, cắt thành miếng hoặc theo khuôn bánh để bánh có bề ngoài bắt mắt.
Việc lựa chọn lá gói bánh vô cùng quan trong. Lá dong cần có màu xanh đậm, có gân chắc, không bị héo và rách nát. Hoặc nếu những chiếc lá bị rách người ta có thể lót bên trong chiếc lá lành hoặc cắt đệm lá để gói sao cho giữ được hình vuông vắn và khi luộc bánh không bị vỡ. Khâu rửa lá dong, cắt phần cuống đi cũng rất quan trọng vì lá dong sạch mới đảm bảo vệ sinh cũng như tạo mùi thơm đặc trưng sau khi nấu bánh.
Sau khi chuẩn bị xong tất cả các nguyên vật liệu thì đến khâu gói bánh. Gói bánh chưng cần sự tẩn mẩn, tỉ mỉ và khéo léo để có được những chiếc bánh vuông vắn dâng lên ông bà tổ tiên. Nhiều người sử dụng khuôn vuông để gói nhưng nhiều người lớn có nhiều năm kinh nghiệm thì không cần, họ chỉ cần gấp 4 góc của chiếc lá dong lại là có thể gói được một chiếc bánh vô cùng đẹp. Bao bọc xung quanh nhân đậu và thịt là một lớp gạo nếp thật dày, phủ kín. Chuẩn bị dây lạt để gói, giữ cho phần ruột được chắc, không bị nhão ra trong quá trình nấu bánh.
Gói bánh đã khó thì công đoạn luộc bánh cũng vô cùng quan trọng. Thông thường mọi người luộc bánh trong một nồi to, đổ đầy nước và sử dụng củi khô, to để luộc trong khoảng từ 8 – 12 tiếng. Thời gian luộc bánh lâu như thế là vì để đảm bảo bánh sẽ chín đều và đạt được độ dẻo. Khi nồi bánh sôi cũng là lúc mùi bánh chưng bốc lên nghi ngút. Khi đó ta mới cảm nhận được không khí Tết mới trọn vẹn. Sau khi chín, bánh chưng được mang ra và lăn qua lăn lại để tạo sự săn chắc cho chiếc bánh khi cắt ra đĩa và có thể để được lâu hơn.
Đối với mâm cơm cúng ngày Tết thì đĩa bánh chưng là điều tuyệt vời không thể thiếu. Cũng như trên bàn thờ ngày tết, một cặp bánh chưng cúng tổ tiên là phong tục lưu truyền từ bao đời nay. Bánh chưng không chỉ tượng trưng cho sự trọn vẹn của trời đất, cho những gì phúc hậu và ấm áp nhất của lòng người mà nó còn là những tình cảm đong đầy gắn kết của cả gia đình nữa. Hiện nay trong những ngày Tết đến, người ta còn sử dụng bánh chưng như một món quà biếu, lễ Tết những người lớn tuổi. Nó tượng trưng cho lòng thành, cho sự chúc phúc tròn đầy nhất.
Mỗi dịp Tết đến xuân về, nồi bánh chưng nghi ngút khói chính là dấu hiệu cho sự ấm áp đoàn viên. Vì vậy, nó là món ăn truyền thống của người Việt mà không loại bánh nào có thể thay thế được. Đây chính là truyền thống, là nét đẹp của con người Việt Nam mà ta cần gìn giữ và tôn trọng từ quá khứ, hôm nay và cả ngày mai nữa.
Để hoàn thành tốt bài văn thuyết minh về bánh tét ngày tết cổ truyền, cùng ôn tập lại phương pháp làm văn thuyết minh với bài giảng sau:
Đừng bỏ lỡ cơ hội 🍀 Nhận Thẻ Cào 100k Miễn Phí 🍀 Card Viettel Mobifone
Thuyết Minh Về Món Ăn Ngày Tết Lớp 10 – Mẫu 15
Làm thế nào để thuyết minh về món ăn ngày tết lớp 10 thật hay, gợi hình gợi cảm và khiến người đọc có cái nhìn toàn diện về chủ đề này? Sau đây là bài viết gợi ý.
Không biết tự bao giờ, đòn bánh Tét đã trở thành món ăn truyền thống và việc gói bánh Tét cũng trở thành một trong những phong tục ngày Tết không thể thiếu của mỗi người Nam Bộ. Nếu ngoài Bắc ngày Tết có bánh chưng xanh thì trong Nam lại là đòn bánh Tét. Và mỗi loại bánh lại có một số phận và nguồn gốc riêng của nó. Nếu chiếc bánh chưng gắn liền với “Sự tích bánh chưng bánh dày” của hoàng tử thứ 18 con Vua Hùng là Lang Liêu tượng trưng cho trời tròn đất vuông thì đòn bánh Tét cũng có những giai thoại ly kỳ về nguồn gốc và ý nghĩa riêng.
Sự tích đòn bánh Tét ngày Tết Nam Bộ. Theo những ghi chép còn sót lại, đòn bánh Tét có nguồn gốc từ chủ nhân vùng đất này. Đó là người Chăm Pa trong lịch sử (tiền thân là người Sa Huỳnh) định hình lãnh thổ quốc gia dân tộc từ cuối thế kỷ thứ II sau Công nguyên (cách ngày nay khoảng gần 2 thiên niên kỷ). Khi ấy, người Chăm có một nền văn hóa phát triển rực rỡ và đạt đến đỉnh cao. Nền văn hóa ẩm thực cũng phong phú.
Theo lý giải của cố giáo sư Trần Quốc Vượng, rất có thể, đòn bánh Tét mà người trong Nam dùng trong ngày Tết hôm nay là sản phẩm của quá trình giao lưu, tiếp biến văn hóa Việt Chăm hay cũng có thể là sự kế thừa những giá trị của lớp tiền nhân đi trước để lại. Khi người Việt vào khai hoang mở hóa vùng đất phương Nam, do sự tiếp thu yếu tố tín ngưỡng đa thần của nền văn hóa Chăm, trong đó có tín ngưỡng Phồn thực, thờ thần lúa.
Từ sự hình tượng hóa của yếu tố Linga của thần Siva (mà nay còn biểu hiện rõ nhất ở khu đền tháp Mỹ Sơn) cùng với tín ngưỡng nông nghiệp vốn có nên các cư dân Việt sau này đã tạo ra chiếc bánh Tét như ngày nay. Rồi dần đà, đòn bánh Tét được sinh thành và “thai nghén” lúc nào cũng không rõ.
Ý nghĩa đòn bánh Tét ngày Tết cổ truyền. Đòn bánh Tét mang nhiều ý nghĩa nhân sinh cao cả. Bánh được bọc nhiều lá như người mẹ bọc lấy người con, ăn bánh Tét lại nghĩ về mẹ, sống với mẹ, như chị em đùm bọc lẫn nhau cùng một mẹ sinh ra. Không chỉ vậy, bánh Tét xanh nhân nhụy vàng gợi cho ta màu xanh của đồng quê, của đời sống chăn nuôi, của an vui xóm – làng… gợi cho ta niềm mơ ước “an cư lạc nghiệp” của con người về một mùa xuân an bình cho mọi nhà. Tất cả những ý nghĩa đó đã đề cao sức lao động của con người, sự hòa hợp của trời đất, của con người với thiên nhiên, hướng về nguồn gốc tổ tiên.
Chiếc bánh nhìn giản đơn nhưng thấm đẫm triết lý của người miền Nam về con người và cuộc sống. Tối 29-30 Tết, cả nhà thức chờ quanh nồi nấu bánh, trẻ con làm nhiệm vụ chụm bếp lò, tạo nên không khí ấm cúng, sung túc của buổi sum họp gia đình ngày Tết.
Chia sẻ 🌼 Thuyết Minh Về Cây Cau 🌼 15 Bài Thuyết Minh Hay Nhất
Thuyết Minh Về Bánh Tét Văn 10 Chọn Lọc – Mẫu 16
Bài viết này với chủ đề các bài văn thuyết minh về bánh tét văn 10 chọn lọc sẽ giúp bạn tìm được những ý văn hay ho, sáng tạo cho bài viết sắp thực hành trên lớp.
Bánh tét ngày Tết là món ăn không thể thiếu trên mâm cúng ông bà tổ tiên hay trên bàn ăn của người dân đất phương Nam. Một đòn bánh tét tròn trịa, đầy đặn phản ánh khát vọng về một cuộc sống no đủ của người dân Nam Bộ- cư dân của vùng đất mới.
Người dân Nam bộ còn lưu truyền câu ca dao:
“Chim kêu ba tiếng ngoài sông
Mau lo lựa nếp hết đông tết về”
Lo lựa nếp để gói bánh Tét trước cúng ông bà tổ tiên, kế biếu bà con lối xóm, sau cùng để ăn cho ba ngày tết. Do vậy, món bánh Tét ngày Tết là loại bánh không thể thiếu được vào dịp xuân về, là nét văn hóa ẩm thực tiêu biểu của người Việt ở Nam bộ. Vì thế, một số người mới cho rằng cách gói bánh Tét có thể được đọc trại từ bánh tết mà ra.
Cứ đến khoảng 27, 28 tết là mấy bà nội trợ đã lo chuẩn bị nếp. Một ngày trước khi gói bánh, nếp được đem đi ngâm và gút. Hôm sau, họ cắt mấy tàu lá chuối còn nguyên và xanh um ở mé vườn hay sau hè. Lá chuối được rọc nhỏ lại theo kích cỡ đòn bánh, rồi lau sạch và quét lên tí dầu ăn cho láng. Nếp gút lại thật kỹ, sau đó mới bày lên lá với lớp nếp đến lớp nhân. Người gói bánh tiến hành gói phần lá bên ngoài và gói ở 2 đầu bánh, rồi dùng sức buộc dây lạt thật chặt thân bánh, phần dây thừa được gọi là đuôi bánh.
Cách gói phần đầu bánh có hai dạng: Gói theo kiểu hình tròn hay hình tam giác. Người gói bánh cột phần đuôi 2 hay 3,4 đòn bánh lại với nhau thành từng xâu, rồi bỏ vào nồi nước sôi trên lò than, lò củi để luộc chín. Mấy đứa nhỏ ngồi xung quanh nồi bánh Tét chụm lửa. Hồi còn nhỏ, ai đã từng ngồi như thế thì chắc không thể quên được hình ảnh bập bùng của lò than với âm thanh tí tách, cái háo hức mong đợi khi bánh được vớt khỏi nồi nước luộc và cái hơi nóng tỏa ra làm ấm cả gian nhà bếp. Đó là cảm giác của ngày tết sắp về ở từng gia đình.
Độ chừng 3 đến 4 tiếng, người ta vớt bánh ra khỏi nồi nước, treo thành từng xâu trên cái đòn dài của nhà bếp để bánh ráo nước và tránh sự dòm ngó của lũ mèo, chuột. Sáng 30 cúng rước ông bà, họ cắt bánh thành từng khoanh rồi đặt vào đĩa để cúng. Bánh cúng xong thì con cháu mới được ăn. Khi ăn cũng là dịp để thưởng thức sự khéo léo của người nội trợ. Bánh Tét ngon là khi mở ra phần nếp không dính lá, nếp phải dẻo, mịn và trong, phần nhân phải vừa ăn (không quá mặn cũng không quá ngọt) và có mùi thơm.
Muốn được như vậy phải biết kỹ thuật gói bánh. Nếp chọn là loại nếp thượng hạng, nếp rặt, không được pha với thứ khác. Còn lá chuối là loại lá còn nguyên vẹn, không được rách để tránh cho bánh bị “xì” khi nấu. Mặt khác, nếp phải được gút kỹ nhiều lần sao cho thật sạch để khi ăn bánh phần nếp mới dẻo, mịn. Kỹ lưỡng hơn nữa, khi gút người ta cho thêm muối vào cho nếp thêm sạch, dễ gút. Nước ngâm nếp phải được để trong lu vài ngày để lắng tạp chất xuống đáy. Điều này giúp bánh được giữ lâu hơn trong ba ngày tết. Khi gói bánh phải gói thật chặt, không được gói lỏng vì dễ làm hư bánh trong khi luộc. Đậu xanh ngâm kỹ, đãi vỏ thật sạch thì nhân mới ngon.
Nói là bánh Tét ngày tết, nhưng dân Nam bộ chia làm 2 loại: Bánh Tét mặn và bánh Tét ngọt. Bánh Tét mặn là loại bánh Tét có nhân đậu xanh với mỡ, thịt ba rọi, một số nơi còn thêm hột vịt muối. Còn bánh Tét ngọt gồm bánh Tét nước tro, bánh Tét nhân chuối, nhân đậu xanh,…Bánh Tét mặn được làm phổ biến vào dịp tết. Người ta chọn mỡ heo hay thịt ba rọi còn tươi, rửa sạch và để ráo nước. Khi gói bánh thì để thịt, mỡ trên lớp đậu xanh. Nếu gói bằng thịt ba rọi, khi cắt bánh, phần chính giữa vừa trong vừa đục, trông rất bắt mắt. Còn bánh Tét nhân mỡ thì phần mỡ trong vắt mới ngon.
Ở Tiền Giang, khi làm bánh Tét nhân mỡ, mấy bà lấy mỡ ướp với tí đường, củ hành tím rồi phơi trong thau nhôm chừng 5 đến 6 tiếng. Mỡ ướp hành tím làm cho nhân không nặng mùi, thơm và dễ ăn, khác với ướp tỏi. Phơi mỡ trong thau nhôm để lấy nhiệt cho mỡ dễ chín, săn chắc. Mấy ngày tết, sợ ăn bánh Tét mặn ngán, bà con còn gói thêm bánh Tét ngọt để ăn thêm, đặc biệt ở một số gia đình ăn chay. Bánh Tét ngày Tết bằng nước tro là loại bánh mà nếp được ngâm với nước tro tàu, phần nhân gồm đậu xanh xào chung dừa nạo. Bánh có mùi thơm lạ, màu hơi đen, ăn rất ngon.
Gọi bánh Tét chuối vì phần nhân được làm bằng chuối. Người ta chọn loại chuối xiêm chín rục làm nhân. Khi cắt bánh, phần nhân có màu đỏ thẫm, vị ngọt tự nhiên. Ở miệt Bến Tre còn có loại bánh Tét không nhân. Bánh được làm toàn bằng nếp trộn chung với đậu đen hay đậu phộng và nước cốt dừa, ăn rất béo và thơm. Còn ở Tiền Giang, cũng bánh loại này, mấy bà còn cho thêm chuối xiêm chín đã bóp nhỏ vào hỗn hợp đậu, nếp, nước cốt dừa, đậu đen rồi mới gói. Khi cắt ra, bánh gồm nhiều màu, rất bắt mắt và có vị ngọt của chuối, vị bùi của đậu, vị béo của nước cốt dừa, vị dẻo của nếp.
Ở Nam bộ, khi ăn, bánh Tét ngày Tết thường được dùng chung với dưa kiệu, dưa muối cho đỡ ngán. Có người thích ngọt, khi ăn họ còn cho thêm đường trên mặt bánh. Người ta còn dùng bánh Tét thay cơm. Họ chan nước thịt kho tàu dầm tí ớt, trộn thêm dưa giá hay dưa kiệu để ăn chung với bánh. Ăn kiểu này thì ngon và hết sẩy! Vị béo, ngọt của bánh cùng vị chua chua của dưa giá, dưa kiệu và vị mặn mặn, cay cay của nước thịt kho tàu tạo nên một hương vị khó tả và nhớ mãi. Mấy bà nội trợ ở Tiền Giang còn làm thêm món củ cải trắng ngâm với nước tương hoặc nước mắm, bỏ trong hũ sành để ăn kèm với bánh Tét.
Bánh Tét ở Nam bộ có một số loại rất ngon, nổi tiếng, ăn thì khỏi chê, biếu rất sang như: Bánh Tét Trà Cuôn (Trà Vinh), Bánh Tét lá cẩm (Cần Thơ) và bánh Tét Tiền Giang. Bánh Tét Trà Cuôn có gốc tích từ xã Kim Hòa, huyện Cầu Ngang, tỉnh Trà Vinh. Phần nếp bánh có màu xanh, nhân đậu xanh, trong cùng là thịt mỡ và hột vịt muối. Phần nếp có màu xanh do được làm từ nước lá chùm ngót giã nhuyễn trộn vào. Đây được cho là cách làm bánh Tét của người Khmer Trà Vinh.
Theo người dân Cần Thơ cho biết bánh Tét lá cẩm có nguồn từ gia tộc họ Huỳnh ở Bình Thủy. Dòng họ này đã làm cho bánh độc đáo hơn bằng cách nấu lá cẩm lấy nước, sau đó cho nước hòa chung với nếp. Do đó,khi cắt bên ngoài,bánh có màu tím than, phần nhân có màu vàng của đậu, màu hồng của thịt, màu trắng của mỡ và màu đỏ của trứng vịt muối, trông rất đẹp và duyên dáng. Còn bánh Tét Tiền Giang có nhân thịt ba rọi, tôm khô và hột vịt. Do nếp được ngâm nước lá dứa, nên khi ăn bánh có mùi thơm nhẹ.
Mặt khác, trứng hột vịt muối- nguyên liệu chế biến thức ăn phổ biến của người Hoa có mặt trong nhân bánh Tét hay sự tiếp thu từ cách làm bánh của người Khmer (bánh Tét Trà Cuôn) đã phản ánh rõ nét sự giao lưu văn hóa ở vùng đất Nam bộ. Sự khác biệt trong cách làm bánh Tét ở một số địa phương như Tiền Giang, Bến Tre, Trà Vinh và Cần Thơ thể hiện được tính thống nhất mà đa dạng của văn hóa ẩm thực. Phải chăng đó chính là những nét nghĩa văn hóa của đòn bánh Tét ngày tết ở vùng đất phương Nam ấm áp và yên bình.
Giới thiệu đến bạn 🌟 Thuyết Minh Về Cái Phích Nước 🌟 15 Bài Ngắn Gọn Hay