Thông tin kĩ thuật – ĐẶC ĐIỂM SINH HỌC CỦA THỎ
Thỏ là loài gia súc tương đối yếu, khá nhạy cảm và dễ có phản ứng cơ thể với những điều kiện thay đổi của môi trường bên ngoài như nắng, mưa, ẩm độ, thức ăn, nước uống, tiếng ồn và các ô nhiễm môi trường khác. Vì vậy người nuôi thỏ cần phải hiểu rõ về các đặc điểm sinh học, nhằm bảo đảm tạo cho thỏ đầy đủ các yêu cầu tối ưu nhất cho thỏ sinh sống khi môi trường sống có sự thay đổi, bằng cách áp dụng các biện pháp kỹ thuật chăn nuôi.
1. Những tập tính đặc biệt của thỏ: Thỏ sống bình thường thì đào hang làm nơi trú ẩn và sinh sản, và dễ dàng nhận biết mùi da của chính nó, thỏ sống thành bầy và thông thường số cái nhiều hơn đực, thường thì sự rụng trứng của thỏ cái xảy ra trong lúc phối giống, thỏ cái thường dùng các vật liệu kết hợp với lông ở bụng để làm ổ trước khi đẻ, thỏ ăn và uống bất kỳ thời gian nào trong 24 giờ, chúng không ăn thức ăn dơ bẩn đã rơi xuống đất.
2. Sự đáp ứng cơ thể với khí hậu: Nhiệt độ là yếu tố quan trọng nhất và ảnh hưởng trực tiếp đối với thỏ. Khi nhiệt độ thấp hơn 10 độ C thỏ cuộn mình để giảm diện tích chống lạnh, nhưng khi nhiệt độ từ 25 – 30 độ C thì chúng sẽ nằm dài soài thân ra để thoát nhiệt. Tuyến mồ hôi ở thỏ thường không hoạt động. Tai được xem là bộ phận tán nhiệt và nhịp thở cũng được tăng cường thoát nhiệt khi nhiệt độ môi 0trường nóng. Nếu nhiệt độ môi trường trên 35 độ C thỏ sẽ bị stress do thân nhiệt tăng cao. Thỏ có ít tuyến mồ hôi dưới da, thải nhiệt chủ yếu qua đường hô hấp, trời nóng quá thì thỏ thở nhanh. Nếu nhiệt độ trên 45 độ C thì thỏ có thể chết nhanh. Thỏ rất nhạy cảm với độ ẩm thấp (40 – 50%), nhưng ẩm độ quá cao cũng không thích hợp. Ẩm độ không khí từ 70 – 80% là tương đối thích hợp đối với thỏ. Nếu ẩm độ quá cao và kéo dài thì thỏ dễ bị cảm lạnh và viêm mũi. Thỏ rất thích điều kiện thông thoáng, thông gió. Sự lưu chuyển không khí vào khoảng 0.3m/giây là thích hợp nhất, tuy nhiên nếu gió thổi trực tiếp vào cơ thể thỏ thì có thể bị bệnh viêm mũi và cảm lạnh.
3. Thân nhiệt, nhịp tim và nhịp thở: Thân nhiệt thỏ phụ thuộc và tăng theo môi trường không khí từ 38 – 41 độ C, trung bình là 39 độ C. Nhịp tim của thỏ rất nhanh từ 120 – 160 lần/phút. Thỏ bình thường thở nhẹ nhàng. Nếu thỏ lo sợ vì tiếng động, âm thanh lớn hay bị chọc phá hoặc trời nóng bức, chuồng trại chật hẹp không khí ngột ngạt thì các chỉ tiêu sinh lý đều tăng. Do vậy, sự tăng các chỉ tiêu sinh lý là điều cần tránh bằng cách tạo môi trường sống thích hợp cho thỏ như thông thoáng, mát mẻ và yên tĩnh.
Bảng: Sự thải nhiệt ra ngoài, thân nhiệt của trực tràng và nhiệt độ tai thỏ
4. Đặc điểm về khứu giác: Cơ quan khứu giác của thỏ rất phát triển, nó có thể ngửi mùi mà phân biệt được con của nó hay con của con khác. Xoang mũi của thỏ có nhiều vách ngăn chi chít có thể ngăn chặn được các tạp chất bẩn trong không khí bụi hoặc từ thức ăn. Các chất dơ bẩn tích tụ tại đây có thể kích thích mũi thỏ, tạo điều kiện cho các vi khuẩn phát triển gây viêm nhiễm đường hô hấp. Vì thế môi trường sống và thức ăn của thỏ cần sạch sẽ nếu cho thức ăn hỗn hợp dạng bột thì cần phải làm cho ẩm hoặc đóng thành viên. Lồng thỏ ở phải dọn sạch sẽ tránh bụi bặm, cần được vệ sinh lồng chuồng thường xuyên. Hết sức chú ý đến các loại thức ăn rau cỏ còn dư lại trong lồng làm cho bị ẩm mốc và ẩm độ cao trong lồng dễ gây bệnh đường hô hấp cho thỏ. Trường hợp muốn ghép thỏ sơ sinh vào thỏ mẹ và thỏ con ghép vào để thỏ mẹ không phân biệt được, để sau một giờ nhốt chung mà thỏ mẹ không phân biệt được thì coi như là sự ghép thành công.
5. Đặc điểm về thính giác và thị giác: Cơ quan thính giác thỏ rất tốt. Thỏ rất nhạy cảm với tiếng động dù là rất nhẹ chúng cũng phát hiện, chúng cũng rất nhát, dễ sợ hãi, do vậy trong chăn nuôi tránh tiếng động ồn ào cho thỏ. Trong đêm tối mắt vẫn nhìn thấy mọi vật, do vậy thỏ vẫn có thể ăn uống ban đêm cũng như là ban ngày.
6. Sự tiêu hóa:
a. Cơ thể học hệ tiêu hóa: Ở thỏ trưởng thành (4 – 4,5kg hay 2,5 – 3 kg) chiều dài hệ tiêu hóa có thể là 4,5 – 5,0 m. Sau ống thực quản ngắn là dạ dày đơn của thỏ chứa khoảng 60 – 80g thức ăn. Ruột non dài khoảng 3m và có đường kính 1cm. Cuối ruột non là tiếp giáp với manh tràng bộ phận tích trữ và tiêu hóa thức ăn này có chiều dài khoảng 40 – 45cm, với đường kính 3 – 4cm. Nó chứa được 100 – 120g hỗn hợp chất chứa đồng nhất với tỉ lệ chất khô khoảng 20%. Kế đến là ruột già với chiều dài khoảng 1,5m. Hệ tiêu hóa của thỏ phát triển rất nhanh trong giai đoạn đang tăng trưởng. Hai tuyến chính tiết vào ruột non là gan và tụy tạng. Dịch mật thỏ chứa nhiều chất hữu cơ nhưng không có enzyme. Dịch tụy chứa những enzyme tiêu hóa protein (trypsin, chymotrypsin), tinh bột (amylase), và mỡ (lipase).
b. Sinh lý tiêu hóa: Thức ăn nhanh chóng đi vào dạ dày, đây là môi trường acid và thức ăn lưu lại khoảng 3-6 giờ và có những thay đổi nhỏ về mặt hóa học. Bằng những sự co thắt mạnh, chất chứa trong dạ dày được đẩy vào ruột non. Đầu tiên chất chứa sẽ được hòa tan với dịch mật và sau đó là dịch tụy. Nhờ tác động của enzyme các nguyên tố nhỏ được giải phóng ra và được hấp thu qua thành ruột non. Những mảnh thức ăn chưa được tiêu hóa có thể lưu ở ruột non khoảng 90 phút. Sau đó chúng được đi vào manh tràng và có thể lưu lại ở đó 2 – 12 giờ và sẽ được tiêu hóa bởi các enzyme của vi sinh vật. Các thức ăn xơ được tiêu hóa chủ yếu tại đây và tạo ra các acid béo bay hơi, sau đó chúng được hấp thu qua vách của manh tràng vào máu cho sự sử dụng của cơ thể.
Phần chất chứa của manh tràng sau đó sẽ được đưa vào ruột già. Khoảng 1/2 còn lại được tiêu hóa và bao gồm cả vi sinh vật ở đây. Phần đầu của ruột già có hai chức năng là tạo ra phân mềm và phân bình thường của thỏ. Sự tạo ra phân mềm là đặc điểm duy nhất có ở thỏ. Nếu chất chứa manh tràng đi đến ruột già vào buổi sáng sớm, nó sẽ trải qua ít thay đổi về sinh hóa học, để rồi các chất nhầy của ruột già tiết ra sẽ bao quanh các chất chứa này gọi là viên phân mềm. Còn nếu chất chứa manh tràng đi đến ruột già trước sẽ hoàn toàn khác. Trong trường hợp này sẽ tạo ra các viên phân cứng do ít nước. Các viên phân cứng sẽ được đẩy ra ngoài bình thường trong khi phân mềm sẽ được thỏ thu hồi trở lại bằng việc thỏ sẽ nút các viên phân này khi chúng ra khỏi hậu môn rồi thỏ sẽ nuốt mà không phải nhai lại gì cả (Ceacotrophy). Thỏ cũng có thể nhận biết phân mềm ngay khi chúng lọt ra rớt lên trên sàn lồng để ăn trở lại. Viên phân mềm có giá trị protein và vitamin cao hơn viên phân cứng. Liên quan đến vấn đề này, một số lượng thức ăn của thỏ sẽ được sử dụng trở lại từ 2 – 4 lần. Do vậy tùy theo loại thức ăn tiến trình tiêu hóa thức ăn của thỏ có thể từ 18 – 30 giờ, trung bình là 20 giờ.
Bảng: Thành phần dưỡng chất (% vật chất khô) của viên phân mềm và phân cứng của thỏ
Manh tràng lớn gấp 5 – 6 lần dạ dày và nhu động của ruột yếu do đó thức ăn nghèo chất xơ hoặc chứa nhiều nước (thức ăn thô xanh, củ quả) dễ phân hủy tạo thành các chất khí làm thỏ dễ chướng bụng đầy hơi, ỉa chảy. Thỏ ăn nhiều thức ăn thô xanh (rau, lá, cỏ) điều này phù hợp với yêu cầu sinh lý tiêu hóa, bảo đảm thường xuyên chất chứa trong dạ dày và manh tràng tránh được cảm giác đói và gây rối loạn tiêu hóa. Lượng nước trong cơ thể thỏ chiếm khoảng 60 – 90% thể trọng. Nước rất cần thiết cho quá trình trao đổi chất, phát triển thai và sản xuất sữa… vì vậy cần phải cung cấp nước uống đầy đủ cho thỏ.
7. Sinh lý sinh sản:
a. Cấu tạo cơ quan sinh dục
– Cơ quan sinh dục đực: Cơ quan sinh dục thỏ đực có các thành phần chính như là các loài gia súc khác như dịch hoàn, ống dẫn tinh, các tuyến sinh dục và dương vật. Tuy nhiên thỏ có vài đặc điểm sau: có thể co rút dịch hoàn khi sợ hãi hay xung đột với các con đực khác và dịch hoàn hiện diện rõ khi thỏ đực được khoảng 2 tháng.
– Cơ quan sinh dục cái: Ở con cái, buồng trứng (noãn sào) có dạng oval và không vượt quá 1-1,5cm, phía dưới buồng trứng là ống dẫn trứng nối liền với 2 sừng tử cung độc lập 2 bên khoảng 7cm và thông với phần trên âm đạo bằng cổ tử cung. Toàn bộ bộ phận sinh dục được đỡ bởi sợi dây chằng lớn dính vào 4 điểm dưới cột sống.
b. Hoạt động sinh lý sinh dục của thỏ:
– Thỏ đực: tuyến sinh dục phát triển nhanh chóng bắt đầu từ 5 tuần tuổi, tuy nhiên sự sản xuất tinh trùng bắt đầu khoảng 40 – 50 ngày tuổi. Ống dẫn tinh sẽ hoạt động khoảng 80 ngày tuổi. Tinh trùng được phóng ra hiện diện lần đầu khoảng 110 ngày, nhưng chúng rất yếu trong thời gian này, sức sống kém. Sự trưởng thành sinh dục của thỏ Newzealand khoảng 32 tuần tuổi trong điều kiện ôn đới, dù vậy những thỏ đực trẻ có thể sử dụng cho sự phối giống sinh sản khoảng 20 tuần tuổi.Trong thực tế, sự bộc lộ những tập tính phối giống của thỏ là khoảng 60 – 70 ngày tuổi khi thỏ có biểu hiện đầu tiên nhảy cỡi lên trên những con khác. Thời gian có thể cho thỏ đực nhảy cái lần đầu tiên nên là 135- 140 ngày tuổi. Lượng tinh dịch của thỏ là 0.3 – 0.6 ml trong một lần phóng tinh. Mật độ 8khoảng 150 -500 x 10 tinh trùng/ml. Lượng tinh trùng sản xuất ra tối đa khi sử dụng thỏ đực nhảy cái 1 lần trong ngày. Nếu sử dụng thỏ đực 2 lần trong ngày thì mật độ tinh trùng giảm đi phân nửa. Tuy nhiên trong thực tế thỏ đực được sử dụng 2 lần trong ngày, hay 3 – 4 lần/ tuần mật độ tinh trùng đủ để gây thụ thai. Nếu sử dụng thỏ đực phối nhiều lần trong ngày, trong tuần quá mức nói trên có thể ảnh hưởng kém đến sự thụ thai.
– Thỏ cái: nang noãn xuất hiện lần đầu khoảng 65 – 70 ngày. Thỏ cái có thể phối giống 1012 tuần tuy nhiên trong lúc thỏ chưa có sự rụng trứng. Những biểu hiện phái tính của thỏ giống nhỏ con và thỏ trung bình (4 – 6 tháng) sớm hơn so với thỏ giống lớn con (5-8 tháng). Ở Châu Âu thỏ cái được phối khoảng 120 – 130 ngày cho thành tích rất tốt. Sự phát triển cơ thể thỏ cái liên hệ thuận với sự thành thục của thỏ. Những thỏ cái tơ nếu cho ăn đầy đủ có thể dậy thì sớm hơn thỏ nuôi trong điều kiện chỉ nhận 75% với khẩu phần tương đương khoảng 3 tuần lễ, và như thế sự phát triển cơ thể sẽ chậm đi 3 tuần. Thỏ bắt đầu thành thục tính dục khi đạt thể trọng 75% trọng lượng trưởng thành. Điều chú ý là thỏ cái tơ chấp nhận cho thỏ đực nhảy trước khi có khả năng rụng trứng. Ở thỏ cái thì không có chu kỳ lên giống đều đều, cũng như không có sự rụng trứng đồng thời trong thời gian lên giống như các loài gia súc khác (Lebas et al., 1986). Khác với những gia súc khác, ở thỏ nhờ có xung động hưng phấn, khi giao phối mới xảy ra rụng trứng. Sau khi phối 10 -12 giờ các túi trứng mới bắt đầu phá vỡ, trứng qua loa kèn vào ống dẫn trứng và đến vị trí thụ tinh. Thời gian cần thiết để trứng di chuyển gặp tinh trùng từ khi rụng là 4 giờ, trên cơ sở đó người ta đã áp dụng phương pháp bổ sung phối lại lần thứ 2 sau lần thứ nhất 6 giờ, nhằm tăng thêm số trứng thụ tinh và đẻ nhiều con. Biểu hiện âm hộ có màu đỏ có thể xem như là biểu hiện lên giống, thời điểm này thỏ cái chấp nhận cho thỏ đực nhảy và tỉ lệ mang thai lên đến 90%. Thỏ có bản năng nhặt cỏ, rác vào ổ đẻ, cào bới ổ, tự nhổ lông bụng và chọn đồ để lót làm ổ ấm rồi mới đẻ con, sau khi đẻ thỏ mẹ phủ lông kín cho đàn con.
8. Sinh lý cho sữa: Sự tổng hợp sữa ở thỏ phụ thuộc vào hormon prolactin và Lactogenic. Trong giai đoạn có thai prolactin sẽ bị ức chế bởi estrogen và progesterone. Khi thỏ đẻ, sự hạ thấp mức độ progesterone nhanh trong máu. Oxytocin và prolactin sẽ được tiết tự do và tạo nên sự tổng hợp sữa và thải sữa ra ngoài. Sữa sẽ thải ra như sau: thỏ mẹ vào ổ cho con bú, các kích thích từ sự cho bú sẽ làm cho sự tiết ra oxytocin và như thế sữa sẽ được thải ra cho con bú. Lượng oxytocin tiết ra tỉ lệ thuận với số lần cho con bú, tuy nhiên thỏ mẹ sẽ chủ động số lần cho bú trong ngày. Thường thỏ cái chỉ cho bú một lần trong ngày. Sự theo bú mẹ sẽ không tạo ra sự tiết oxytocin mà tùy theo thỏ mẹ có muốn cho con bú hay không. Sữa thỏ có giá trị dinh dưỡng cao (13% CP) hơn sữa bò, sau khi đẻ 3 tuần sữa thỏ sẽ trở nên giàu đạm và mỡ sữa (tăng 20- 22%). Lượng sữa trong 2 ngày đầu khoảng 30 – 50g sẽ tăng đến 200 – 300 g vào tuần lễ thứ 3. Nó sẽ giảm nhanh sau đó đặc biệt là trong trường hợp thỏ có thai.
Ths. Nguyễn Thị Ánh Tuyết