Truyện cổ tích – Wikipedia tiếng Việt

Một minh họa cổ tích Nga

Cổ tích (Hán Việt: 童話 / Đồng thoại) là một thể loại văn học được tự sự dân gian sáng tác có xu thế hư cấu, bao gồm cổ tích thần kỳ, cổ tích thế sự, cổ tích phiêu lưu và cổ tích loài vật. Đây là loại truyện ngắn, chủ yếu kể về các nhân vật dân gian hư cấu, như tiên, yêu tinh, thần tiên, quỷ, người lùn, người khổng lồ, người cá, hay thần giữ của, và thường là có phép thuật, hay bùa mê.

Truyện cổ tích hoàn toàn có thể được phân biệt với truyện dân gian truyền thuyết thần thoại khác như thần thoại cổ xưa ( thường tương quan đến niềm tin vào tính xác nhận của những sự kiện được diễn đạt ) [ 1 ] cũng như những câu truyện về bài học kinh nghiệm đạo đức, gồm có truyện ngụ ngôn về động vật hoang dã .

Sự khác biệt cơ bản với các loại truyện khác ở phương diện người kể chuyện kể lại nó và người nghe thì tiếp nhận trước hết như một sự hư cấu thẩm mỹ[2], một trò chơi của trí tưởng tượng. Bên cạnh yếu tố hư cấu, tưởng tượng như một đặc điểm chủ yếu của thể loại, truyện cổ tích vẫn bộc lộ sự liên hệ với đời sống hiện thực, thông qua những đặc điểm về nội dung, ngôn ngữ, tính chất của cốt truyện, motip, hình tượng nghệ thuật v.v. Nhiều truyện cổ tích xuất xứ từ xa xưa phản ánh được các quan hệ xã hội nguyên thủy và các biểu tượng, tín ngưỡng vật tổ, tín ngưỡng vạn vật hữu linh. Trong khi đó, các truyện cổ tích hình thành giai đoạn muộn hơn, như thời phong kiến, thường có những hình tượng vua, hoàng hậu, hoàng tử, công chúa. Sang thời tư bản chủ nghĩa, truyện cổ tích thường chú ý hơn đến thương nhân, tiền bạc [2] và các quan hệ xã hội liên quan đến mua bán, đổi chác, sự tương phản giàu nghèo v.v.

Về nội dung tư tưởng, truyện cổ tích thường mang tinh thần lạc quan, có hậu, trong đó kết thúc truyện bao giờ cái thiện cũng chiến thắng hoặc được tôn vinh, cái ác bị tiễu trừ hoặc bị chế giễu.[2] Là một thể loại truyền miệng, truyện cổ tích thường có nhiều dị bản. Sự dị bản hóa tác phẩm có thể được nhìn nhận do các dân tộc trên thế giới có những điểm chung nhất về văn hóa, lịch sử, sinh hoạt, lối sống; đồng thời cũng có những đặc điểm riêng trong nếp sống, đặc điểm lao động, sinh hoạt, điều kiện tự nhiên tùy từng dân tộc. Thêm vào đó những người kể truyện cổ tích thường mang vào các truyện họ kể những nét cá tính riêng, sự thêm thắt nội dung theo những ý đồ nhất định. Bắt đầu câu chuyện thường có câu mở màn “Ngày xửa ngày xưa”. Đôi khi, kết thúc có hậu như một đặc trưng của truyện cổ tích (với câu kết là: “… và họ sống hạnh phúc mãi mãi về sau“) cũng khiến khái niệm cổ tích trong tiếng Việt được tính từ hóa, mà những phát ngôn sau là ví dụ: cứ như cổ tích, đúng là cổ tích!.

Tùy thuộc vào đề tài của tác phẩm, truyện cổ tích hoàn toàn có thể được chia ra :

  • Cổ tích thần kỳ: Truyện cổ tích thần kỳ giai đoạn đầu thường gắn với thần thoại và có ý nghĩa ma thuật. Có thể bắt gặp các đề tài như dũng sĩ diệt trăn tinh (rắn, rồng v.v.) cứu người đẹp; quan hệ dì ghẻ và con riêng; đoạt báu vật thần thông; người con gái đội lốt thú kỳ dị bí mật giúp đỡ chồng; v.v.
  • Cổ tích sinh hoạt; Truyện cổ tích phiêu lưu thường trình bày các cuộc phiêu lưu kỳ lạ của nhân vật chính, và việc giải thích các cuộc phiêu lưu này thường mang tính giả tưởng.
  • Cổ tích loài vật: Có nhân vật chính là các loài vật hay muôn loài với thủ pháp nhân hóa, truyện cổ tích loài vật là một trong những thể loại truyện cổ tích phổ biến nhất, có ở hầu hết các dân tộc trên thế giới. Nhiều tác phẩm trong số đó xuất xứ từ giai đoạn xã hội chưa phân chia giai cấp, còn gắn với tín ngưỡng vật tổ. Truyện cổ tích loài vật, theo thời gian, dần dần mất đi tính chất thần thoại và ma thuật, tiệm cận với thể loại truyện ngụ ngôn giáo huấn ở giai đoạn về sau.
  • Thể loại khác: Ngoài 3 nhóm truyện cổ tích nói trên, có thể bắt gặp các truyện bịa, tức loại cổ tích mang tính chơi khăm, quấy đảo, trêu chọc, lường gạt và vu vơ.

Truyện cổ tích khi nào cũng khuyên nhủ, dạy bảo con người dưới hình thức lí thú và nhiều khi ý niệm một cách bóng bẩy .

Truyện cổ tích ca ngợi và bênh vực cho đạo đức con người thông qua nhân vật lí tưởng/kiểu mẫu. Nhân vật lí tưởng thường bao giờ cũng là người tài năng và có nhân cách vượt trội song là những con người nhỏ bé, số phận bất hạnh. Nhân vật lí tưởng mang đạo đức, tài năng của nhân dân, những giá trị đạo đức được thừa nhận nên họ nhận được sự giúp đỡ từ các thế lực thần kì. Nhân vật lí tưởng thường được các lực lượng thần kì thử thách về đạo đức và tài năng.Chính sự thử thách này là thước đo đánh giá nhân vật đồng thời tạo nên tình huống truyện. Ví dụ như các nhân vật được thử thách lòng tốt, sự trung thực, không tham lam: Cây khế; Sự tích con khỉ,…[3]

Để làm điển hình nổi bật phẩm chất của nhân vật lí tưởng, truyện cổ tích thường kiến thiết xây dựng diễn biến của hai tuyến thiện – ác, tốt – xấu, người anh – người em, hay nhân vật trá hình, … Từ sự trái chiều để từ đó làm điển hình nổi bật lên nhân phẩm và kĩ năng của nhân vật .

Nhân vật lí tưởng thường nhận được phần thưởng bởi đạo đức và tài năng. Nhân vật phản diện ở tuyến đối lập không nhận được thưởng, trái lại còn bị trừng phạt: người anh trong Cây khế (Việt Nam) bị ngã xuống biển chết bởi lòng tham lam, Lí Thông trong truyện Thạch Sanh (Việt Nam) bị sét đánh chết vì gian dối, giả mạo;…

Ranh giới cổ tích và thần thoại cổ xưa khá mơ hồ, mà đa phần điều tra và nghiên cứu đều cho cổ tích phát xuất từ thần thoại cổ xưa [ 2 ]. Những truyện cổ tích tiên phong thể hiện sự liên hệ về diễn biến so với những truyền thuyết thần thoại, nghi lễ và những tập tục của bộ lạc nguyên thủy. Đó là những mô tip đặc trưng cho truyền thuyết thần thoại tô tem ( tín ngưỡng vật tổ ) phản ánh trong loại truyện cổ tích loài vật ; là sự kết hôn giữa những sinh thể kỳ dị, trong thời điểm tạm thời bỏ lốt thú để mang mặt người, như người vợ ( và những dị bản truyện cổ tích muộn hơn là người chồng ), để trợ giúp một nửa yêu thương của mình một cách bí hiểm thường phát hiện trong truyện cổ tích thần kỳ ; là việc đi tới những quốc tế khác để giải thoát tù nhân, có sự tương đương với những thần thoại cổ xưa và truyền thuyết thần thoại nói về những phiêu du của những saman ( pháp sư ) trong truyện cổ tích phiêu lưu v.v.

Những thần thoại có cơ sở nghi lễ hoặc vốn là một phần của lễ thức có thể biến đổi thành truyện cổ tích, do sự đứt gãy những liên hệ trực tiếp của các thần thoại đó với sinh hoạt của bộ lạc. Việc bãi bỏ sự hạn chế đối tượng có thể kể lại thần thoại, việc cho phép cả phụ nữ và trẻ em (những người không hành lễ) được kể thần thoại đã dẫn đến sự phi thần thoại hóa nguyên bảncổ tích hóa thần thoại: sự từ bỏ, có thể không cố ý, các yếu tố linh thiêng và thay vào đó là những nội dung hấp dẫn khác, như quan hệ gia đình của các nhân vật, những chuyện đánh lộn, cãi cọ của họ v.v. đã thay đổi thần thoại cổ sơ thành cổ tích.

Những nhà điều tra và nghiên cứu và sưu tầm văn học dân gian từ thế kỷ 19 ở Đức, thuộc phe phái thần thoại cổ xưa học, như Schelling, đồng đội nhà Schlegel, đồng đội nhà Grimm xem truyện cổ tích là ” những mảnh vỡ của truyền thuyết thần thoại cổ ” [ 2 ]. Các nhà nghiên cứu so sánh quan tâm đến sự trùng hợp những sơ đồ diễn biến và motip riêng không liên quan gì đến nhau trong truyện cổ tích của những dân tộc bản địa khác nhau .Bên cạnh đó, những người theo phe phái quả đât học ( hay còn gọi là tiến hóa luận ) ở Anh nửa sau thế kỷ 19, như E. Tylor, A. Lang, J. Frazer kiến thiết xây dựng triết lý về cơ sở thế sự và tâm ý của cái mà họ gọi là ” những diễn biến tự sinh của truyện cổ tích ” [ 2 ], nhấn mạnh vấn đề rằng truyện cổ tích trùng hợp đồng thời với sự sống sót của hoang dã. Theo phe phái thần tượng học mà đại biểu là Mar Müller, Gaston Paris, Angelo de Gubarnatic, trong cổ tích có sự Viral của thần bí cổ đại, truyền thuyết thần thoại về mặt trời, truyền thuyết thần thoại về bình minh. Trường phái văn hóa truyền thống với những đại biểu như Benfey, Consquin lại đi tìm nguồn gốc cổ tích dân gian ở Ấn Độ. Bên cạnh đó, phe phái nghi thức chủ nghĩa gồm nhiều những nhà bác học Anh cho rằng cổ tích là những nghi thức truyền thống còn sống sót dấu vết đến ngày này [ 4 ] .Nhà điều tra và nghiên cứu Lazăn Săireanu người Rumani phân loại truyện cổ tích của những dân tộc bản địa Roman nói chung và truyện cổ tích Rumani nói riêng thành hai nhánh chính là truyện thần thoại cổ xưa hoang đường và truyện tâm ý [ 4 ]. Trong mỗi nhánh ông lại phân loại thành nhiều ngành và dưới những ngành lại là những thể loại, những kiểu, ví dụ điển hình ngành ” ba anh em trai “, gồm kiểu bạn bè sinh đôi và kiểu đồng đội kết nghĩa ; ngành ” đàn bà trong lốt cây xanh “, ngành ” quái vật trả nghĩa ” v.v.

  1. ^

    Thompson, Stith. Funk & Wagnalls Standard Dictionary of Folklore, Mythology & Legend, 1972 s.v. “Fairy Tale”

  2. ^ a b c d e f

    150 thuật ngữ văn học, Lại Nguyên Ân biên soạn, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội, H. 2003

  3. ^ Giáo trình Văn học Nước Ta [ GS. TS. Vũ Anh Tuấn chủ biên, nxb Giáo dục đào tạo Nước Ta, năm trước, trang 121 – 122 ]
  4. ^ a b

    Artur Gorvei, Những khái niệm về văn hóa dân gian T. 1, Lê Đình Cúc dịch từ trang 99 đến 141 cuốn “Văn học dân gian” Bucarét, Minerva, 1976 (Litetura populară, Editura Minerna, Bucareşti 1976). Bản dịch viết tay, 50 trang, 23 cm, được Khương Việt Hà đánh máy lại ngày 20 tháng 8 năm 2003. Ký hiệu Thư viện Viện Văn học là
    DL 406. Tóm lược từ trang 24-29 trên bản đánh máy.

  • Mục từ Truyện cổ tích trong 150 thuật ngữ văn học, Lại Nguyên Ân biên soạn, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội, H. 2003. Từ trang 349 đến trang 359.
  • E. M. Mê-lê-chin-xki, phần Dẫn luận, trong Nhân vật trong truyện cổ tích hoang đường, Nguyễn Văn Giao và Phan Hồng Giang dịch, Nhà xuất bản Văn hóa phương Đông, M. 1958.
  • Arturn Gorvei, phần Cổ tích, truyền thuyết và hoang đường, trong Những khái niệm về văn hóa dân gian; T. 1, Lê Đình Cúc dịch từ cuốn “Văn học dân gian” Bucarét, Minerva 1976 (Litetura populară, Editura Minerna, Bucareşti 1976).