Tổng ôn kiến thức Bài thơ về tiểu đội xe không kính

Tổng ôn kiến thức Bài thơ về tiểu đội xe không kính

“Bài thơ về tiểu đội xe không kính” là một tác phẩm nổi tiếng của nhà thơ Huy Cận, thể hiện tình cảm và tinh thần đoàn kết, sự hy sinh của những người lính trong cuộc chiến tranh. Dưới đây là một bài tổng ôn kiến thức về bài thơ này:

Tác Giả: Huy Cận

Thể Loại: Thơ chiến tranh

Nội Dung Bài Thơ:

“Bài thơ về tiểu đội xe không kính” miêu tả cuộc hành trình của một tiểu đội xe không kính, trải qua những khó khăn, thử thách trong cuộc chiến tranh. Ngôn ngữ thơ mạnh mẽ, hình ảnh sống động, đầy cảm xúc tạo nên một bức tranh chân thực về cuộc sống của những người lính trên chiến trường.

Bài thơ mang đậm tính biểu tượng khi mỗi chiếc xe không kính trở thành biểu tượng của sự hy sinh, kiên nhẫn và đoàn kết. Tác giả sử dụng hình ảnh chiếc “xe không kính” để thể hiện những nỗi lo sợ, khó khăn trong cuộc chiến tranh, nhưng cũng thể hiện tinh thần bất khuất, quyết tâm của những người lính.

Tình Cảm Và Tinh Thần:

Bài thơ truyền tải tình cảm yêu nước, tình đoàn kết giữa những người lính. Dưới bóng đêm đen tối, tiểu đội xe không kính không biết đi đâu, nhưng họ luôn tin tưởng vào hướng dẫn của đồng đội và tình đồng đội.

Tác phẩm thể hiện tinh thần quyết tâm, kiên trì, sẵn sàng hy sinh cho mục tiêu cao cả. Những đám sương mù đại bàng (tượng trưng cho nguy hiểm) không làm cho tâm hồn họ nao nức, họ luôn quyết tâm tiến về phía trước. Đây chính là tinh thần không kính, sự vượt qua khó khăn với lòng can đảm và đoàn kết của những người lính.

Ý Nghĩa Triết Học:

“Bài thơ về tiểu đội xe không kính” là một lời ca ngợi về tinh thần đoàn kết, sự hy sinh, và ý chí không khuất phục của con người trong cuộc chiến tranh. Bài thơ mang ý nghĩa triết học về khả năng vượt qua khó khăn, tập trung vào mục tiêu và niềm tin vào đồng đội.

Năm 1970, tập thơ Vầng trăng quầng lửa của Phạm Tiến Duậ t sinh ra. Tiếng thơ của người chiến sỹ hoạt động giải trí trên tuyến đường Trường Sơn cất lên hào hùng, trẻ tráng và hồn nhiên kì quặc. Thơ Phạm Tiến Duật bộc lộ tình cảm yêu nước và chí khí anh hùng của thế hệ người trẻ tuổi trong cuộc cuộc chiến tranh chống Mĩ qua những hình ảnh cô gái người trẻ tuổi xung phong và anh bộ đội trên tuyến đường Trường Sơn. Lửa đèn, Trường Sơn đông, Trường Sơn tây, Bài thơ về tiểu đội xe không kính, Gửi em, Cô người trẻ tuổi xung phong, … là những bài thơ rất nổi tiếng của chàng lính trẻ làm thơ này .

Khái quát chung về Bài thơ về tiểu đội xe không kính

Xuất xứ

Bài thơ về Tiểu đội xe không kính thuộc chùm thơ được tặng giải Nhất cuộc thi thơ báo Văn  nghệ năm 1969 – 1970, được đưa vào tập thơ Vầng trăng quầng lửa, NXB Văn học, Hà Nội, 1970.

Hoàn cảnh ra đời

Bài thơ được viết năm 1969, lúc cuộc kháng chiến chống Mỹ đang diễn ra ác liệt, tác giả khi đó cũng là chiến sỹ ở Trường Sơn, gắn bó với những cung đường và những chiến sỹ lái xe quân sự chiến lược. Đường Trường Sơn khi ấy là con đường huyết mạch nối hậu phương và tiền tuyến, là mặt trận quyết liệt. Thời đó, con người nâng mình lên khỏi mối quan hệ riêng tư, đồng ý hi sinh, toàn tâm toàn ý dâng hiến cho Tổ quốc, cho kháng chiến. Thơ chống Mỹ là bản hợp ca ca ngơi tính thần hi sinh góp sức đó. Trong đó nét nhạc ca tụng người lính là nét nhạc chủ yếu. Bài thơ về tiểu đội xe không kính đã sinh ra trong toàn cảnh tư tưởng, xúc cảm của dân tộc bản địa như vậy, trong âm hưởng sáng tác như vậy .

Đặc điểm nội dung, nghệ thuật:

  • Bài thơ khắc họa được nét độc đáo của những chiếc xe không kính và hình ảnh những người lính lái xe trên tuyến đường Trường Sơn trong thời kì kháng chiến chống Mỹ, hiên ngang, dũng cảm, sôi nổi, lạc quan, quyết chiến đấu giải phóng  miền Nam.
  • Bài thơ chủ yếu kết hợp thể thơ bảy chữ và tám chữ, có chất liệu hiện thực sinh động của cuộc sống ở chiến trường, sáng tạo những hình ảnh độc đáo, ngôn ngữ và giọng điệu giàu tính khẩu ngữ, tự nhiên, khỏe khoắn.

Định hướng tiếp cận bài thơ

Nhan đề

Bài thơ có nhan đề khá dài, tưởng như có chỗ thừa, nhưng cho nên vì thế mà độc lạ, lôi cuốn sự chú ý quan tâm. Nhan đề ấy làm điển hình nổi bật hình ảnh độc lạ : những chiếc xe không kính. Hình ảnh này là một sự phát hiện mê hoặc của tác giả, bộc lộ sự gắn bó và am hiểu hiện thực đời sống cuộc chiến tranh trên tuyến đường trường sơn. Hai chữ “ Bài thơ ” cho thấy rõ hơn cách nhìn, cách khai thác hiện thực của tác giả : không phải chỉ viết về những chiếc xe không kính hay là hiện thực quyết liệt của cuộc chiến tranh, mà hầu hết nhà thơ muốn nói về chất thơ của hiện thực ấy, chất thơ của tuổi trẻ hiên ngang, dũng mãnh, sáng sủa, vượt lên mọi khó khăn, nguy hiểm. Đó cũng là ý niệm thẩm mỹ và nghệ thuật của tác giả, tò mò chất thơ từ chính hiện thực thưởng tượng như thô giáp đó. “ Tiểu đội xe không kính ” cũng là một cái tên tự đặt – rất lính, rất tếu hóm, rất ấn tượng. Nhan đề này đã gợi mở chủ đề, tạo được giọng điệu, sắc điệu thẩm mỹ và nghệ thuật riêng của bài thơ và gây ấn tượng cho người đọc .

Hình ảnh độc đáo: Những chiếc xe không kính vẫn băng ra chiến trường.

Thời ấy, hình ảnh những chiếc xe xe hơi đi vào thơ ca còn hiếm. Xưa nay, hình ảnh xe cộ, tàu thuyền khi đi vào thơ thường được “ mỹ lệ hóa ”, “ lãng mạn hóa ” và thường mang ý nghĩa tượng trưng. Còn những chiếc xe không kính trong thơ Phạm Tiến Duật lại là hình ảnh thực, thực đến trần trụi. Tác giả lý giải nguyên do cũng rất thực “ Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi ”. Hai câu thơ mở màn đậm chất văn xuôi, giọng thản nhiên, càng gây sự quan tâm về vẻ khác lạ của xe. Đây là những chiếc xe đã đi qua bom đạn thử thách. Bom đạn cuộc chiến tranh còn làm cho những chiếc xe bị tàn phá biến dạng đi, trần trụi hơn nữa : “ Không có kính, rồi xe không có đèn – không có mui xe, thùng xe có xước ”. Nhưng, bộ não, linh hồn của xe có vẻ như không phải máy móc, mà là tấm lòng người chiến sỹ, nên “ Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước – Chỉ cần trong xe có một trái tim ” .

  • Những chiếc xe không kính không phải hiếm trong chiến tranh, nhưng phải có hồn thơ nhạy cảm, có nét ngang tàng, tinh nghịch, thích cái lạ như Phạm Tiến Duật mới nhận ra được và đưa nó vào thơ trở thành biểu tượng độc đáo của thơ thời chiến tranh chống Mỹ. Hình ảnh này tạo nên cái tứ lạ, độc đáo, vừa tạo nên cái ác liệt, dữ dội của chiến tranh, vừa bộc lộ được phẩm chất cao đẹp của người chiến sĩ trong cuộc chiến đấu khốc liệt chống đế quốc Mỹ.Hình tượng này góp phần khắc họa một nét tư thế, chân dung của một dân tộc anh hùng.

Hình ảnh những chiến sĩ lái xe Trường Sơn

  • Chủ nhân của những chiếc xe không kính được miêu tả gắn liền với những chiếc xe và nổi bật lên trong toàn bài thơ: can trường, quả cảm, bất chấp mọi gian nguy, thiếu thốn. Thiếu đi những điều kiện, phương tiện vật chất tối thiểu lại như phép để bộc lộ ra phẩm chất cao đẹp, sức mạnh tinh thần lớn lao của người chiến sĩ lái xe Trường Sơn – những người đã góp phần làm nên huyền thoại Trường Sơn một thời.
  • Người lính hiện ra với những ấn tượng, cảm giác cụ thể khi ngồi trên xe không kính. Qua khung cửa xe không còn kính chắn gió với tư thế “ nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng”, người chiến sĩ lái xe tiếp xúc trực tiếp với thế giới bên ngoài:

Nhìn thấy gió xoa vào mắt đắngNhìn thấy con đường chạy thẳng vào timNhìn sao trời và bất thần cách chimNhư sa như ùa cào buồng láiXe lao nhanh trên con đường, gió làm đắng mắt, cái nhìn của người lái xe vẫn hút chặt vào con đường – con đường tiến lên phía trước, con đường chạy thẳng vào tim – con đường của trái tim. Cái “ nhìn thấy ” có cả sự sáng soi của lý tưởng, tình cảm. Không chỉ mặt đất mà cả khung trời sao, cánh chim cũng như sa, như ùa vào buồng lái. Hình như cả vạn vật thiên nhiên, vạn vật cũng theo người lính ra mặt trận. Hình ảnh thật thi vị, đó là chất thơ của cuộc chiến đấu. Hiện thực thì quyết liệt, mọi thứ hoàn toàn có thể va đập, quăng quật vào buồng lái, nhưng người lính cảm nhận nó bằng một tâm hồn tươi tắn, lãng mạn, nhạy cảm với cái đẹp. Những câu thơ trên miêu tả cảm xúc rất thực của người lính nhưng cũng hé lộ diện mạo niềm tin thầm kín của họ .

  • Nổi bật lên vẫn là nét phẩm chất, tính cách cao đẹp của người lính.
  • Tư thế của họ thật ung dung, hiên ngang, tự tin, tự hào:

Ung dung buồng lái ta ngồiNhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳngHai câu sáu chữ nhịp 2/2/2 và chữ “ từ tốn ” hòn đảo lên đầu câu làm điển hình nổi bật lên tư thế ấy của người lính. “ Nhìn thẳng ” là cái nhìn đầy tự chủ, có vẻ như trang nghiêm, quật cường, không thẹn với đất trời, nhìn thẳng con đường phía trước, nhìn thẳng vào khó khăn, hi sinh, không lo âu, tránh mặt .

  • Xe không kính, biết bao gian khổ, người lính lái xe vẫn vượt lên với thái độ hiên ngang, bất chấp mọi gian khổ, hiểm nguy với tinh thần quả cảm:

Không có kính, ừ thì có bụiBụi phun tóc trắng như người giàChưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốcNhìn nhau mặt lấm cười ha ha .Không có kính ừ thì ướt áoMưa tuôn mưa xối như ngoài trờiChưa cần thay, lái trăm cây số nữaMưa ngừng, gió lùa mau khô thôi .Cấu trúc “ Không có kính, ừ thì … chưa cần … ” lặp lại và những cụ thể “ phì phèo châm điếu thuốc – Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha ”, “ lái trăm cây số nữa ” ( trăm cây số giữa đường Trường Sơn đầy bom đạn, đèo dốc ) đã thể hiện rõ cái ngang tàn, mặc kệ gian nan của người lính. Thực tế, gió, bụi, mưa, … hoàn toàn có thể gây bao khó khăn vất vả khi xe không có kính nhưng người lính đã thông thường hóa những cái không thông thường ấy vượt lên toàn bộ với sự cố gắng và ý thức nghĩa vụ và trách nhiệm rất cao. Họ đứng cao hơn thực trạng, gật đầu nó như một tất yếu. Hình ảnh họ vừa mang nét giản dị và đơn giản, dày dặn phong trần, vừa có nét kiêu hùng, lãng mạn .

  • Những chiến sĩ lái xe cũng là những chàng trai trẻ sôi nổi, vui nhộn, lạc quan và rất gắn bó với đồng đội. Cả bài thơ lấp lánh ánh cười khúc khích, cả tiếng cười “ha ha” sảng khoái, tự hào: “Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha”. Đó đúng là tiếng thơ, tiếng cười của tuổi trẻ, của tâm hồn lạc quan. Sự khốc liệt của chiến tranh đã tạo nên tiểu đội xe không kính. Sự gắn bó của những con người đã cùng qua bom đạn, thử thách càng bền chặt, sâu xa. Họ gặp nhau là đã thấy quen thân. Xe không kính,  họ có thể bắt tay qua cửa kính vỡ rồi mà không cần mở cửa xe, thật thoải mái, tự hào, thắm tình đồng đội. Trên đường Trường Sơn, con đường giải phóng miền Nam, con đường chính nghĩa, họ càng đi càng có thêm nhiều bè bạn: “Gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới”. Tình đồng đội đã hóa gia đình: “Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời – Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy”. Cách định nghĩa về gia đình thật “lính”, thật hóm mà cảm thì chân tình, sâu nặng. Gắn bó với nhau trong chiến đấu, họ càng gắn bó với nhau trong đời thường. Những phút nghỉ ngơi thoáng chốc, cái ăn, giấc ngủ thật giản dị, gian khó nhưng có đồng đội, người lính vẫn rất vui nhộn, lạc quan và lại hăm hở lên đường:

Võng mắc chông chênh đường xe chạy

Lại đi, lại đi, trời xanh thêm

Điệp ngữ “ Lại đi ” và nhịp 2/2/3 khẳng định chắc chắn đoàn xe không ngừng tiến tới, khẩn trương và kiên cường. Hình ảnh “ trời xanh thêm ” gợi lên tâm hồn sáng sủa của người chiến sỹ .

  • Động lực mạnh mẽ và sâu xa tạo nên sức mạnh tinh thần lớn lao, bất chấp mọi nguy nan, mọi sự hủy diệt, tàn phá của kẻ thù ở người chiến sĩ đó chính là ý chí chiến đấu giải phóng miền Nam, là tình yêu nước nồng nhiệt. Khổ thơ cuối kết tinh vẻ đẹp của hình tượng những chiếc xe không kính và những chiến sĩ lái xe.Sự đối diện giữa hai phương diện vật chất và tinh thần, vẻ bên ngoài và bên trong chiếc xe, giữa “không” và “có” làm nổi bât cái gan góc, kiên định, không thể hủy diệt của xe, của người. Bom Mỹ đã làm cho những chiếc xe bị phá hủy, bị biến dạng đến trơ trụi “Không có kính rồi xe không có đèn, Không có mui xe, thùng xe có xước” nhưng thật kì lạ, “Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước – Chỉ cần trong xe có một trái tim”. Điệp ngữ “không có”, lối nói liệt kê và nhịp thơ dồn dập như diễn tả những khó khăn chồng chất. Nhưng sức mạnh tinh thần thật lớn lao. Tác giả lí giải bất ngờ mà chí lí, nói lên chân lí sâu xa về sức mạnh của tình yêu nước. Mọi thứ của xe không còn nguyên vẹn, chỉ cần vẹn nguyên trái tim yêu nước, trái tim vì miền Nam thì xe vẫn băng ra chiến trường, vẫn tới đích. Đó là sự dũng cảm, ngoan cường, là sức mạnh của lòng yêu nước và ý chí chiến đấu, chiến thắng. Trái tim người lính khiến chiếc xe trở thành một cơ thể thống nhất với người chiến sĩ, không gì tàn phá, ngăn trở được. Những chiếc xe càng thêm độc đáo bởi đó là những chiếc xe trái tim cầm lái. Chân dung người chiến sĩ được hoàn thiện  với khí phách anh hùng và trái tim tha thiết yêu thương.

Bài thơ đã khắc tạc được những bức chân dung độc lạ về người chiến sỹ lái xe ở Trường Sơn thời chống Mỹ – can trường, quả cảm, đầy chất kiêu hùng trong vẻ đơn giản và giản dị nhất và tràn trề tình yêu thương. Đó cũng chính là hình ảnh tiêu biểu vượt trội của anh bộ đội Nước Ta, dân tộc bản địa Nước Ta thời chống Mỹ cứu nước .

Cảm nhận bài thơ từ nhiều góc nhìn

Lời tác giả

( … ) Không có kính, rồi xe không có đènKhông có mui xe, thùng xe có xướcXe vẫn chạy vì miền Nam phía trướcChỉ cần trong xe có một trái timHình ảnh ở đầu cuối tỏa lên bài thơ, làm bài thơ lộng lẫy một ý nghĩa, một tình yêu. Phải, chỉ cần có “ một trái tim ”, một trái tim yêu nước, một lòng khát khao giải phóng miền Nam thì những cái thiếu kia đâu có hề gì. Vậy đó, khí phách ngang tàng mà vẫn tha thiết yêu thương .Đó là anh lính lái xe của tôi .Bài thơ là một trong những hình mẫu tiêu biểu vượt trội cho thơ ca của tôi. Ngắn, khoảng chừng ba mươi dòng : ngôn từ mộc mạc ; những hình ảnh khỏe, chân thực như đời sống chân phương ùa vào thơ, sinh động mà không kém phần hấp dẫn. Tôi thích bài thơ, thích cái vẻ ngang tàng, khí phách, thích cái chất kiêu hùng trong vẻ giản dị và đơn giản nhất của nhân vật. Tứ “ không có kính ” là cách làm điển hình nổi bật lên tình yêu lớn của người lính lái xe so với Tổ quốc, với miền Nam .Tác giả nói về tác phẩm, Nguyễn Quang Thiều ( chủ biên ), NXB Trẻ, TP. Hồ Chí Minh, 2000 )

Giọng thơ Phạm Tiến Duật

Giọng thơ Phạm Tiến Duật rực rỡ không lẫn với ai ở góc nhìn sáng sủa, khúc khích của nó. Cái khúc khích là thuộc về tuổi trẻ, thuộc về người lính .( Nhà thơ Nước Ta tân tiến – NXB khoa học xã hội, 1984, tr. 541 )

Ý kiến của GS Trần Đình Sử

“ Cả bài thơ là lời nói, xúc cảm của người chiến sỹ lái xe trên con đường xe chạy liên tục. Thử thách này càng tăng nhưng vận tốc và hướng đi không đổi. Vẫn là khẳng định chắc chắn niềm tin quật cường quyết thắng của quân đội ta, nhưng Phạm Tiến Duật đã đem lại nhiều hình ảnh mới và giọng điệu mới : tươi tắn, tinh nghịch, ngang tàng mà kiên trì. Bài thơ đâu chỉ nói về tiểu đội xe không kính, nó phản ánh cả khí thế quyết tâm giải phóng miền Nam của toàn quân và toàn dân ta, chứng minh và khẳng định con người mạnh hơn sắt thép : .( Trần Đình Sử, Đọc văn học văn, NXB Giáo dục đào tạo, 2002 )

Ý kiến của Vũ Dương Quý

“ Khổ thơ ở đầu cuối, vẫn một giọng thơ mộc mạc, gần với giọng nói thường, như văn xuôi. Vậy mà nhạc điệu, hình ảnh, ngôn từ rất đẹp, rất thơ ; cảm hứng và suy tưởng vừa bay bổng, vừa thâm thúy để triển khai xong bức chân dung tuyệt vời của những chiến sỹ vận tải đường bộ Trường Sơn những năm đánh Mỹ. Bốn dòng thơ dựng lại hai hình ảnh trái chiều đầy kịch tính, rất giật mình, mê hoặc .Hai câu đầu dồn dập những mất mát, khó khăn vất vả do quân địch gieo xuống, do đường trường gây ra : xe không kính, không đèn, không mui, thùng xe xước vỡ … Điệp ngữ “ không có nhắc lại ba lần như nhân lên ba lần những thử thách quyết liệt ”. Hai dòng ngôn từ ngắt làm bốn khúc : “ Không có kính / rồi xe không có đèn / không có mui / thừng xe có xước ” như bốn chặng lồi lõm, khúc khuỷu, đầy chông gai, bom đạn, bốn khúc “ cua vòng, rẽ ngoặt ” … trêu ngươi, chọc tức đoàn xe .Hai câu cuối :Xe vẫn chạy vì miền nam phía trướcChỉ cần trong xe có một trái timÂm điệu đối chọi lại, trôi chảy, êm ru. Hình ảnh đậm nét. Vậy là đoàn xe đã thắng lợi, vượt lên bom đạn, hăm hở hướng ra phía trước, hướng ra tiền tuyến lớn với một tính cảm thiếng liêng vì miền Nam, vì cuộc chiến đấu giành độc lập, thống nhất cho cả nước. Đặc biệt tỏa sáng chói ngời cả đoạn thơ, bài thơ là hình ảnh “ trong xe có một trái tim ”. Thì ra cội nguồn sức mạnh của cả đoàn xe, gốc rẽ phẩm chất anh hùng của mỗi người cầm lái tích tụ, đọng kết lại ở những trái tim gan góc, kiên cường, giàu bản lĩnh và chứa chan tình yêu thương này. Phải chăng chính trái tim con người đã cầm lái ? Tình yêu Tổ quốc, tình thương đồng bào chiến sỹ ở miền Nam đau khổ, luôn sáng sủa, bình tĩnh, nắm chắc “ vô lăng ”, nhìn thật đúng hướng để đưa đoàn xe khẩn trương tới đích “ Ngữ điệu của câu thơ “ Chỉ cần trong xe có một trái tim ” thật nhẹ nhõm, tuy nhiên năng lực khắc họa hình tượng nhân vật và khơi gợi suy luận triết lí thật đắm sâu, trĩu nặng. Ẩn sâu ý nghĩa “ trái tim cầm lái ”, câu thơ còn muốn hướng người đọc về một chân lí của thời đại tất cả chúng ta : sức mạnh quyết định hành động thắng lợi không phải là vũ khí, là công cụ … mà là con người – con người mang trái tim nồng nàn yêu thương, ý chí kiên cường, dũng mãnh, niềm sáng sủa và niềm tin vững chãi. Có thể nói, cả bài thơ, hay nhất là câu thơ sau cuối này. Nó là “ nhãn tự ”, là “ con mắt của thơ ”, bật sáng chủ đề, tỏa sáng vẻ đẹp của hình tượng nhân vật trong thơ ” .( Vũ Dương Quỹ, Bình giảng văn học 9, NXB Giáo dục đào tạo, 1995 )

Ý kiến của Võ Minh

“Mạn phép nói thêm cái chất thực của bài thơ để chúng ta hiểu rằng, một bài thơ có nhiều khi vượt qua khỏi phạm trù cái đẹp văn chương thuần túy, dâng cho cuộc sống những giá trị thực tiễn lớn lao biết nhường nào. Bài thơ “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” có cái mãnh lực thần kì ấy, nó vừa mang tính chiến đấu nóng bỏng, tính thời sự tức thời vừa mang tầm vóc lịch sử! Tất nhiên bài thơ như thế phải là tiếng nói của cuộc sống thực hào hùng. Đó là tiengs nói chân thành, độc đáo của người trong cuộc. Nó như một tuyên ngôn về lẽ sống của một thế hệ người Việt Nam”.

( Võ Minh, Nói thêm về “ Tiểu đội xe không kính ”, Tài hoa trẻ, số 347 – 348, 2004 )