5 tiến bộ y học đột phá trong thập kỷ

1. Xây dựng thành công xuất sắc map hệ gen người 5 tiến bộ y học đột phá trong thập kỷ - 1

Năm 2000, các nhà khoa học trong Dự án Hệ gen người quốc tế đã công bố phác thảo về toàn bộ các gen ở người và đăng tải trên internet. Lần đầu tiên, cả thế giới có thể download và đọc một cách đầy đủ nhất thông tin vào toàn bộ gen người.

Bản đồ gen người đã được góp vốn đầu tư thời hạn và tài lộc từ những năm 90 của thế kỷ 20 với 2 nhóm triển khai : Dự án Hệ gen người do chính phủ nước nhà hỗ trợ vốn, dự kiến hoàn thành xong trong 10 năm với số tiền lên tới 2,5 tỉ đô la và công ty Celera Genomics chi hơn 100 triệu đô la trong gần 1 thập kỷ để thực thi nghiên cứu và điều tra độc lập này. Cả 2 nhóm đều cùng công bố phác thảo về hệ gen người vào 26/6/2000 tại cuộc họp báo với sự tham gia của Tổng thống Bill Clinton và Thủ tướng Anh Tony Blair. “ Đó là một bước ngoặt lớn tương tự như như sự kiện con người bước tiến trên mặt trăng ”, tiến sỹ Francis Collins, Giám đốc Viện nghiên cứu và điều tra Gen người vương quốc cho biết khi map gen được hoàn thành xong. Năm 2004, phác thảo “ ở đầu cuối ” đã được công bố bởi những nhà nghiên cứu và năm 2007, đã có sự bổ trợ bởi tiến sỹ Craig Venter, giám đốc khoa học công ty Celera Genomics. Với việc kiến thiết xây dựng thành công xuất sắc map hệ gen người, tất cả chúng ta có quyền tin vào tương lai với những loại thuốc và những liệu pháp mới hiệu suất cao và ít độc với khung hình người hơn. 2. Sự ngoạn mục trong nghiên cứu tế bào gốc 5 tiến bộ y học đột phá trong thập kỷ - 2

Có lẽ chưa có nghành nào kích thích trí tưởng tượng và khơi gợi sự tranh luận trong hội đồng như việc nghiên cứu tế bào gốc. Mặc dù bị vướng phải những lệnh cấm nhưng những văn minh trong nghiên cứu tế bào gốc là không hề phủ nhận. Ví như những nhà nghiên cứu châu Âu đã tách những tế bào tủy xương từ 2 cậu bé 7 tuổi và rồi cấy tế bào đã được đổi khác vào khung hình 2 cậu bé này để điều trị bệnh ALD ( bệnh tương quan đến não gọi là link giới tính X ). Nhà nghiên cứu tế bào gốc tiến sỹ George Daley của bệnh viện Nhi Boston gọi quy trình nghiên cứu tế bào gốc ở cả phôi thai và người trưởng thành trong thập kỷ này là sự “ ngoạn mục ”. Mới đây nhất, những nhà khoa học Trung Quốc đã tạo ra 1 con chuột từ những tế bào da và điều này cho thấy khoa học trong thập kỷ qua đã thực sự tạo ra được điều kỳ diệu và tất cả chúng ta có quyền kỳ vọng trong thập kỷ mới này sẽ có những giải pháp điều trị mới sử dụng tế bào gốc.

3. Liệu pháp thuốc phối hợp trong điều trị AIDS

 

5 tiến bộ y học đột phá trong thập kỷ - 3

Kể từ khi Open liệu pháp điều trị kháng retroviral hoạt tính cao ( HAART ) năm 1996, HIV không còn là một căn bệnh chết người mà trở thành 1 căn bệnh mãn tính với thời cơ sống lê dài tới vài thập kỷ. Hơn thế, chiêu thức “ trộn lẫn tổng hợp ” này cũng trở thành một quy mô điều trị những bệnh khác, từ ung thư phổi đến ung thư tim. Trong suốt 1 thập kỷ qua, những nhà nghiên cứu vẫn không ngừng tinh lọc chiêu thức này để nâng cao hiệu suất cao điều trị. Nhờ đó, tỉ lệ tử trận do HIV đã giảm trên toàn quốc tế. 4. Kỹ thuật xâm nhập tối thiểu – Cuộc cách mạng trong phẫu thuật 5 tiến bộ y học đột phá trong thập kỷ - 4

Cách đây 10 năm, cứ phẫu thuật nội tạng là để lại một vết sẹo dài tới 15 cm nhưng công nghệ tiên tiến phẫu thuật mới – kỹ thuật xâm nhập tối thiểu – đã giúp người bệnh thoát khỏi nỗi ám ảnh từ những vết sẹo kinh khủng này. Vào cuối những năm 2000, những bác sĩ ở Bệnh viện Cleverland đã mở màn vận dụng kỹ thuật này trong việc lấy 1 quả thận đường rốn trong một ca phẫu thuật ghép thận. Ngày nay, kỹ thuật này được vận dụng nhiều trong những phẫu thuật tử cung, buồng trứng. Các bác sĩ phẫu thuật cũng sử dụng những rô-bốt để tăng độ đúng chuẩn của những thao tác khi phẫu thuật. Điều này đã giúp rút ngắn thời hạn nằm điều trị, giảm những rủi ro tiềm ẩn sức khỏe thể chất do mổ mở, người bệnh nhanh hồi sinh.

5. Phát minh ra máy ghi hình cộng hưởng từ ( MRI )

 

5 tiến bộ y học đột phá trong thập kỷ - 5

“ Đọc vị ” bộ óc qua từng chi tiết cụ thể ở những mô mềm, nghiên cứu và điều tra hoạt động giải trí của não bộ khi con người tâm lý, thao tác, nói ; xác lập những vùng liên hệ đến ý thức, trí nhớ, nghe nhạc, đọc sách, lái xe … ; chỉ rõ những điểm không bình thường liên hệ nhiều trộn lẫn thần kinh, MRI thực sự là một cuộc cách mạng trong y học. Ra đời vào đầu những năm 90 của thế kỷ trước nhưng mãi tới năm 2003, phát minh này mới được quốc tế công nhận và được trao giải Nobel. Uỷ ban Nobel ghi nhận đã có 22.000 MRI được sử dụng trên toàn thế giới với hơn 60 triệu lần khám trong vào năm 2002 và nhấn mạnh vấn đề tính vô hại vì không dùng tia X.

Với việc sử dụng công nghệ này, các nhà nghiên cứu hiện đã biết thêm nhiều thông tin giá trị về các bệnh như trầm cảm, ung thư não, tự kỷ, rối loạn trí nhớ và thậm chí là cả các bệnh ngoài da.

Nhân Hà Tổng hợp