Kỹ thuật siêu âm ra đời như thế nào?

Bài viết được tư vấn chuyên môn bởi Thạc sĩ, Bác sĩ Nguyễn Viết Thụ – Bác sĩ Chẩn đoán hình ảnh và Y học hạt nhân – Khoa Chẩn đoán hình ảnh và Y học hạt nhân – Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec Times City.

Trong 40 năm qua, siêu âm đã trở thành một phương thức chẩn đoán quan trọng. Việc sử dụng siêu âm trong y học bắt đầu trong và ngay sau chiến tranh thế giới thứ 2. Bài viết này sẽ cho thấy kỹ thuật siêu âm ra đời như thế nào và một số đóng góp đáng chú ý trong lĩnh vực y học của kỹ thuật siêu âm.

1. Kỹ thuật siêu âm

Kỹ thuật siêu âm trong y học liên tục phát triển và đóng một vai trò quan trọng trong chẩn đoán và điều trị bệnh. Nhưng ít ai biết được kỹ thuật siêu âm có lịch sử ra đời và phát triển như thế nào? Để tìm hiểu điều này, hãy cùng nhìn lại lịch sử hơn 225 năm qua của siêu âm.

Năm 1942, nhà thần kinh học Karl Dussik sử dụng sóng siêu âm nhằm tìm kiếm vị trí của khối u trong não bệnh nhân của mình và ông được coi là người đầu tiên sử dụng siêu âm trong y học. Tuy nhiên những ứng dụng của sóng siêu âm thực ra đã được phát hiện và đưa vào thực tế từ rất lâu trước đó.

Năm 1794 nhà sinh lý học, giáo sư và là một linh mục có tên Lazzaro Spallanzani trong một nghiên cứu và điều tra về dơi đã phát hiện ra loài vật này có năng lực kiểm soát và điều chỉnh hướng bay để tránh vật cản bằng sóng âm thanh có tần số cao mà chúng phát ra chứ không phải bằng thị giác. Sóng phản xạ thu lại giúp chúng định hình được khoảng cách và kích cỡ của vật cản để đưa ra hướng bay tương thích. Đây được coi là nền móng bắt đầu đưa siêu âm vận dụng vào trong thực tiễn .Năm 1877, Pierre và Jacques Curie phát minh ra hiệu ứng điện áp, sau này được ứng dụng để tạo ra đầu dò siêu âm .
Siêu âm đầu dò
Năm 1915, nhà vật lý Paul Langevin tạo ra một đầu dò để dò tìm những vật thể dưới đáy biển được gọi là “ đầu dò siêu âm tiên phong ” .Trong những năm 1920 – 1940 sóng siêu âm được ứng dụng như một hình thức vật lý trị liệu để giảm đau và hồi sinh vận động cơ và khớp cho những cầu thủ bóng đá châu Âu .Năm 1948 George D. Ludwig bác sĩ nội khoa thuộc viện điều tra và nghiên cứu Y học thủy quân phát minh ra thiết bị siêu âm mà ông đặt tên là A-mode để phát hiện ra sỏi mật .

Năm 1945 – 1951 Douglas Howry và Joseph Holmes từ đại học Colorado phát triển thiết bị siêu âm B-mode. John Reid và John Wild đã cải tiến và sử dụng thiết bị này để chẩn đoán ung thư vú.

Năm 1953 bác sĩ Inge Edler và Hellmuth Hertz thực hiện thành công ca siêu âm tim đầu tiên, đánh dấu bước ngoặt cho việc áp dụng siêu âm vào y học sau này.

Năm 1966 Don Baker, Dennis Watkins và John Reid phát minh ra máy siêu âm Doppler giúp hiển thị hình ảnh của máu chảy trong những lòng mạch. Sau đó vào những năm 1970, kỹ thuật siêu âm Doppler liên tục tăng trưởng thành những dạng doppler sóng liên tục, doppler quang phổ và siêu âm doppler màu .Những năm 1980, Kazunori Baba của trường Đại học Tokyo đã tăng trưởng công nghệ tiên tiến siêu âm 3D và lần tiên phong chụp lại được hình ảnh siêu âm 3D của thai nhi vào năm 1986 .Năm 1989 giáo sư Daniel Lichtenstein khởi đầu phối hợp siêu âm nói chung và siêu âm phổi nói riêng vào chẩn đoán và điều trị .Từ đó đến nay, những kỹ thuật siêu âm liên tục nâng cấp cải tiến, tăng trưởng và được ứng dụng vào nhiều nghành nghề dịch vụ khác nhau trong y học. Xuất hiện siêu âm màu, siêu âm 4 chiều ( một dạng video diễn đạt hình dạng những cơ quan, hệ cơ quan và hoạt động của chúng trong khung hình ), … Siêu âm còn được vận dụng vào nhiều thủ pháp như sinh thiết hay nội soi .
Siêu âm thai 4D

2. Ứng dụng siêu âm trong ngành Y

Trong y học, siêu âm sử dụng sóng âm thanh tần số từ 3 – 10 MHz. Các tham số quan trọng nhất trong siêu âm là : Bước sóng, tần số, tốc độ, cường độ được link với nhau bởi công thức :

v = fl

Trong đó :v là tốc độ sóng âmf là tần số sóng âm tính bằng Hzl là bước sóngTrong chẩn đoán và điều trị, sóng âm thường sử dụng có bước sóng ngắn. Các mô, cơ quan của con người không như nhau nên sự tiếp đón, hấp thụ và phản xạ lại sóng âm cũng khác nhau .Sự phản xạ âm phụ thuộc vào nhiều vào kháng trở của từng mô hay cơ quan. Đối với siêu âm ổ bụng như gan, thận, tụy tần số sóng được sử dụng khoảng chừng 3MH z trong khi so với 1 số ít bộ phận khác như cổ, vú số lượng này cần đạt 5MH z hoặc thậm chí còn 7MH z mới thu được hình ảnh rõ ràng và đúng chuẩn .Ứng dụng của siêu âm trong ngành Y là rất lớn. Có nhiều chính sách siêu âm được vận dụng trong y học từ trước đến nay mà tiêu biểu vượt trội là 4 chính sách sau :● Chế độ A : Siêu âm chính sách A là loại siêu âm đơn thuần nhất. Đầu dò sẽ triển khai cắt một lát qua khung hình để biểu lộ hình ảnh của những mô, cơ quan, nội tạng. Ngoài ra siêu âm trị liệu cũng là một dạng của chính sách này .● Chế độ B : Thể hiện hình ảnh siêu âm 2 chiều trên màn hình hiển thị● Chế độ M : Có thể hiển thị hoạt động của những mô, cơ quan, nội tạng trên chính sách sử dụng siêu âm chính sách B những biến hóa thời hạn và vận tốc quét của đầu dò .● Siêu âm Doppler : Dùng để đo và hiển thị lưu lượng máu trong lòng mạch. Siêu âm doppler đóng một vai trò quan trọng trong chẩn đoán 1 số ít bệnh tương quan đến tim mạch .
Siêu âm Doppler động mạch cảnh
Ngoài ra, kỹ thuật siêu âm tim qua thực quản đã mở ra hướng đi mới trong nghành chẩn đoán hình ảnh tim mạch. Kỹ thuật này tương hỗ trong việc phẫu thuật và theo dõi thực trạng hậu phẫu của tim .Siêu âm từ khi Open đã liên tục tăng trưởng và ứng dụng thoáng rộng trong những nghành của y học. Các kỹ thuật, thiết bị siêu âm ngày càng được nâng cấp cải tiến, từ siêu âm màu, siêu âm 3D, siêu âm 4D, siêu âm Doppler, … Điều này giúp những ứng dụng của siêu âm trong ngành Y ngày càng trở lên đa dạng và phong phú hơn. Không chỉ đơn thuần là thu được hình ảnh những mô của khung hình giờ đây siêu âm còn hoàn toàn có thể bộc lộ những hình ảnh đó một cách chân thực nhất, tương hỗ cả trong quy trình hồi sinh tính năng lẫn những thủ pháp thực thi trong phẫu thuật .

Hiện nay, có rất nhiều cơ sở y tế áp dụng kỹ thuật siêu âm trong việc chẩn đoán và điều trị sớm bệnh. Hệ thống Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec đã và đang sử dụng các thế hệ máy siêu âm màu hiện đại nhất hiện nay trong thăm khám và điều trị cho bệnh nhân. Một trong số đó là máy siêu âm Logiq E9 của GE Healthcare có đầy đủ options, các đầu dò có độ phân giải HD cho hình ảnh rõ nét, đánh giá chính xác tổn thương. Bên cạnh đó, đội ngũ các y, bác sĩ giàu kinh nghiệm sẽ hỗ trợ phần nhiều trong việc chẩn đoán và phát hiện sớm những dấu hiệu bất thường của cơ thể nhằm đưa ra phương pháp điều trị kịp thời.

Ths.Bs Nguyễn Viết Thụ đã có hơn 20 năm kinh nghiệm làm việc trong lĩnh vực chẩn đoán hình ảnh, nguyên là Thư ký đầu ngành Chẩn đoán hình ảnh Hà Nội, chỉ đạo tuyến dưới về chuyên ngành Chẩn đoán hình ảnh. Hiện tại, bác sĩ đang làm việc tại Khoa Chẩn đoán hình ảnh và Y học hạt nhân – Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec Times City.

Khách hàng có thể trực tiếp đến hệ thống Y tế Vinmec trên toàn quốc để thăm khám hoặc liên hệ hotline tại đây để được hỗ trợ.

Nguồn: ultrasoundschoolsinfo.com