Nhóm 6 | PDF

NHÓM 6

ĐỀ TÀI:

 “ẢNH HƯỞNG CỦA V

IỆC LÀM THÊM ĐẾN SINH

VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG HÀ N

ỘI”

 

PHẦN MỞ ĐẦU

1.

do

ch

ọn

đề

i

Theo báo Lao động và tuổi trẻ, đối tượng lao động tại Việt Nam hiện nay

chiếm số lượng đông đảo những người trẻ ở độ tuổi 18 – 23 tuổi, nhất là đối tượng

sinh viên theo học tại các trường Cao đẳng, Đại học trên toàn quốc. Sinh viên được

xem là lực lượng lao động vừa có sức khỏe tốt, vừa có tri thức và cả sức lao động

chân tay, do đó các em có thể làm thêm bất cứ ngành nghề nào phù hợp. Đây là

cách để sinh viên vừa có thể kiếm thêm thu nhập để phục vụ nhu cầu thiết yếu của

 bản

thân,

giảm

áp

lực

kinh

tế

cho

gia

đình

vừa

giúp

các

bạn

sinh

viên

thêm

những kinh nghiệm làm việc, thực hành thực tế. Tuy nhiên, nhóm tuổi sinh viên

cũng được cho rằng phải dành thời gian cho việc học tập để phục vụ cho lực lượng

lao động tri thức chất lượng cao của đất nước trong tương lai và không nên làm

thêm vì làm thêm ảnh hưởng rất lớn đến sức khỏe và khả năng tập trung của các

em vào các hoạt động tiếp thu thêm tri thức chuyên ngành cần thiết trên lớp cũng

như các thời gian tự trau dồi tri thức thêm tại

nhà.

Sinh viên Ngoại Thương từ trước đến nay vẫn được biết là những sinh viên

giỏi, hoạt bát, năng động, dễ thích ứng với các môi trường làm việc khác nhau nên

không khó để bắt gặp những bạn sinh viên Ngoại thương vừa đi học, vừa đi làm

trong trường. Tuy nhiên, liệu việc cùng một lúc làm cả hai việc có ảnh hưởng đến

kết quả học tập cũng như kết quả đầu ra của sinh viên Ngoại thương. Đây là vấn đề

được rất nhiều các bạn sinh viên, đặc biệt là sinh viên năm nhất của trường quan

tâm. Đó là lý do thôi thúc nhóm nghiên cứu chọn đề tài

“Ảnh hưởng của việc làm

thêm đến sinh viên trường đại học Ngoại thương Hà Nội” 

. Chúng tôi mong rằng

đề tài nghiên cứu này có thể giúp các bạn khóa mới có thể tham khảo để đưa ra

những quyết định sáng suốt để đạt được kết quả tốt nhất trong những năm Đại học

đầy kỷ niệm đáng nhớ.

2.

Tổn

g qu

an về

vấn

đề ng

hiê

n cứu

Việc làm thêm ảnh hưởng tốt hay xấu đến sinh viên là một đề tài không quá

mới mẻ nhưng chưa bao giờ hết

“hot” hay ngừng được quan tâm bởi giới trẻ

và các

 bậc

phụ

huynh.

thường

xuyên

được

đề

cập

trên

báo

dân

trí

hay

các

thời

báo

tuổi trẻ, các công trình nghiên cứu cả trong và ngoài nước với mong muốn

giúp các

 bạn sinh viên lựa chọn được những hướng đi đ

úng đắn để có thể phát triển tích cực

và thành công trong tương lai. Tuy nhiên, do hệ thống giáo dục và phương pháp

học tập của mỗi nước trên thế giới là khác biệt, vậy nên nghiên cứu này nhóm tác

giả xin phép được thu nhỏ phạm trù nguồn tài liệu nghiên cứu trong khuôn khổ

nước ta – Việt Nam để phù hợp với phạm trù sinh viên nghiên cứu và các bạn đọc

khi tìm hiểu về đề tài.

Việc làm thêm ở nước ta hiện nay được hiểu là việc làm bán thời gian (việc

 part-time), thường kéo

dài trong khoảng

thời gian

từ

3 đến

6 giờ

mỗi ngày hoặc

ít

hơn tùy vào tính chất của mỗi công việc. Hay một khái niệm khác do Công ước số

175, năm 1994 về việc làm bán thời gian của ILO (International Labour Office –

Tổ chức Lao động Quốc tế), người làm bán thời gian được định nghĩa là người có

số giờ làm việc bình thường ít hơn những người làm việc toàn thời gian. Công ước

cũng chỉ ra rằng, ngưỡng thông thường để chia công nhân

thành lao động toàn thời

gian hay bán thời gian thay đổi tùy thuộc vào mỗi quốc gia, nhưng thường trong

khoảng từ 30-35 giờ mỗi tuần.

Khác với hình thức việc làm toàn thời gian hay còn gọi là full-time thì các

công việc làm thêm thường không cố định, đôi khi cũng không bắt buộc bạn phải

đến công ty để làm, bạn có thể làm tại nhà, gia đình của bạn, bạn được lựa chọn

môi trường và cách thức việc làm cũng như thời gian để

bạn có thể làm việc.

Thông qua việc tham gia các hoạt động giao tiếp bắt buộc trong quá trình đi

làm thêm, sinh viên có thể tự học được những kỹ năng mềm thường không được

dạy trong trường. Đây là các yếu tố giúp các sinh viên tạo dựng mối quan hệ với

 bạn bè,

cũng như

hình thành được

kỹ năng phản

xạ giao tiếp

chuyên nghiệp, phục

vụ thiết yếu cho công việc của chúng ta

trong tương lai.

Hiện nay, kỹ năng mềm ngày càng được chứng minh có một vai trò to lớn

trong cuộc sống và công việc. Theo một số nghiên cứu gần đây, nhóm người lọt

top người giàu có nhất trên thế giới đều là những người có chỉ số EQ cao. Thực tế

cho thấy, những người thành đạt chỉ có 25% là do những kiến thức chuyên môn,

75% còn lại được quyết định bởi những kỹ năng mềm họ được trang

bị (

Theo tài

liệu:

 

https://nctu.edu

.vn/ky-nang-me

m-ky-nang-cua-su

-thanh-cong 

). Bên cạnh đó,

những người sử dụng lao động thường rất coi trọng các kỹ năng mềm, bởi đó là

một nhân tố quan trọng để đánh giá rất hiệu quả công việc cùng với trình độ

chuyên môn và kinh nghiệm làm việc. Khi bạn có khả năng xử lý tình huống tốt,

không chỉ dừng lại ở biết và làm được, mà nó đạt đến trình độ thuần

thục, linh hoạt

và chuyên nghiệp sẽ được các nhà tuyển dụng coi

trọng.

Theo nghiên cứu của tác giả

Trần Thu Hương 

 

về

Nữ sinh viên với việc

làm thêm

” ,ta thấy được

mặt tốt và mặt trái của việc

làm thêm đối với sinh viên nữ

của Đại học Khoa học Xã hội & Nhân văn nói riêng và toàn bộ sinh viên nói

chung. Nghiên cứu đã đưa ra những con số chính xác, những đối tượng nữ sinh

viên với tình trạng học lực cụ thể và những tác động của việc làm thêm đối với

từng đối tượng sinh viên đó như thế nào. Qua đó,

nhà nghiên cứu đã giúp sinh viên

có một cái nhìn bao quát và thực trạng của việc làm thêm và tác động của nó tới

từng đối tượng sinh viên để họ có thể nhìn vào, đối chiếu với bản thân thực tại và




cuối cùng có thể đưa ra quyết định sáng suốt nhất với việc nên hay không nên đi

làm thêm khi còn là sinh viên.

Hay một nghiên cứu khác của tác giả

 Đỗ Kiên Trung 

 về “

Sinh viên và việc

làm thêm”

 không chỉ ra nguyên nhân sinh viên đi làm thêm và bài học, ý nghĩa

triết lý mà trong nghiên cứu này tác giả còn cho ta thấy sự đa dạng của việc làm

thêm cho sinh viên hiện nay. Hiện nay, việc làm thêm cho sinh viên không còn chỉ

là những công việc đơn giản như làm gia sư

hay phát tờ rơi, mà ngày nay công việc

của sinh viên đã đa

dạng lên rất nhiều, rất nhiều nhà tuyển dụng đã

đưa ra những vị

trí phù hợp với sinh viên từng ngành nghề khác nhau, giúp họ không những kiếm

thêm được thu nhập mà còn bổ

sung được cả kỹ năng mềm

xã hội yêu cầu lẫn kiến

thức chuyên ngành cần thiết. Tuy nhiên, nghiên cứu chưa chỉ ra được sự lạm dụng

sức lạm lao động của sinh viên trong việc làm thêm hiện nay với mức mức lương

không phù hợp khi làm thêm ở các quán cà phê như The Coffee House. Nó là một

mặt tối cần được chính phủ quan

tâm và có những giải quyết nhanh chóng để

tránh

mất đi những lao động chất lượng cao quan trọng trong tương lai.

 Ngoài ra, còn có b

áo cáo của tác giả

 Bùi Bảo Ngọc

 -“

Sinh viên & việc làm

thêm

” và nghiên cứu của tác giả

 Nguyễn Thị Như Ý 

 (2012) – “

Khảo sát nhu cầu

làm thêm của sinh viên Đại học Cần Thơ 

” đã

phâ

n tích và

thố

ng kê

cho ta 10

nhân tố ảnh hưởng đến nhu cầu đi làm thêm của sinh viên giúp chúng ta hiểu một

cách rõ ràng nhất về lý

do đi làm thêm của sinh

viên và tâm lý của nhiều

đối tượng

sinh viên với việc làm thêm.

Các công trình nghiên cứu, báo cáo kể trên đã đưa ra góc nhìn đa chiều và

cách tiếp cận đa dạng về đề tài nghiên cứu. Phần đông nghiên cứu đến từ góc nhìn

của các Tiến sĩ, Thạc sĩ các trường Đại học giúp ích trong việc phát triển nguồn tài

liệu phù hợp xu hướng phát triển của xã hội và nhu cầu của độc giả. Ngoài ra,

những nghiên cứu còn lại chỉ ra tình hình sinh viên đi làm thêm có ảnh hưởng đến

kết quả học tập tại trường Đại học. Từ đó trở thành nguồn tài liệu tham khảo hữu

ích cho các cơ sở đào tạo tận dụng nhằm cải thiện và nâng cao chất lượng đào tạo,

công tác tư tưởng, dẫn đến nâng cao chất lượng đầu ra sinh viên. Ngoài ra, tất cả

những công trình nghiên cứu trước đều là tiền đề cho sự hoàn thiện của các nghiên

cứu sau này đã cung cấp những nguồn thông tin, tri thức có giá trị cho những

ngườ

i nghiên cứu

sau như chúng tôi

có điều

kiện triể

n khai

và hoàn thành nghiên

cứu của mình.

 Nhìn

chung, các

nghiên

cứu

trước

đó

đã

chỉ

ra

được

lợi

ích

tác

hại

của

việc làm thêm đối với sinh viên, tuy nhiên, các công trình nghiên cứu nêu trên vẫn

còn khoảng trống và khoảng trống lớn nhất nhóm tác giả nhận thấy và mong muốn

lấp đầy đó là đã có rất nhiều công trình đưa ra những ảnh hưởng tốt và xấu của

việc làm thêm đối với sinh viên, chia đối tượng cụ thể cho từng loại ảnh hưởng

nhưng chưa nghiên cứu nào đưa ra biện pháp để sinh viên khắc phục và cân bằng

giữa việc làm thêm và học tập để sinh viên khi ra trường vừa có thể có một lượng