Nghiên cứu khoa học Thực Trạng Ô Nhiễm Môi Trường Ở Việt Nam Hiện Nay – Đề Tài : Thực Trạng Ô Nhiễm – Studocu

Đề Tài : Thực Trạng Ô Nhiễm Môi Trường Ở Việt Nam Hiện Nay.

I. Xác định đối tượng nghiên cứu :
 Đố i tượng nghiên cứu ở đây là “ Môi Trường Việt Nam hiện nay “

**II. Các yêu cầu cần đáp ứng :

  1. Tính cấp thiết của đề tài :**
  • Ngày nay, vấn đề ô nhiễm môi trường đã và đang ngày càng trở nên nghiêm
    trọng hơn ở Việt Nam. Trên các phương tiện thông tin đại chúng hằng ngày,
    chúng ta có thể dễ dàng bắt gặp những hình ảnh, những thông tin về việc môi
    trường bị ô nhiễm. Bất chấp những lời kêu gọi bảo vệ môi trường, tình trạng ô
    nhiễm càng lúc càng trở nên trầm trọng. Điều này khiến nọi người ai cũng phải
    suy nghĩ…

2. Mục đích nghiên cứu :

  • Bài nghiên cứu sẽ làm rõ những thực trạng về vấn đề ô nhiễm môi trường ở
    Việt Nam hiện nay,đồng thời phân tích các nguyên nhân dẫn đến thực trạng đó
    để từ đó đưa ra được các giải pháp nhằm khắc phục tình trạng ô nhiễm môi
    trường ở Việt Nam hiện nay

3. Nhiệm vụ nghiên cứu :

  • Tìm kiếm và xử lý thông tin về vấn đề ô nhiễm môi trường Việt Nam hiện nay.
  • Thực trạng ô nhiễm môi trường việt nam hiện nay.
  • Đưa ra một số giải pháp khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường Việt Nam.

4. Phạm vi nghiên cứu :

  • Môi trường Việt Nam ( Đất,Nước,Không Khí,….).

  • Thời Gian : Đầu thế kỉ XXI trở lại đây.

III. Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu :

  • Thu thập tài liệu qua Internet,qua sách báo,thực trạng hiện tại của môi trường
    bằng quan sát.
  • Sử dụng phương pháp tổng hợp,phân tích,xử lý số liệu,đánh giá,so sánh…

IV. Nội Dung :
Ô nhiễm môi trường đang là vấn đề đáng lo ngại không những đối với các nước
phát triển mà còn là sự thách thức đối với các nước đang phát triển trong đó có
Việt Namực trạng diễn ra ngành càng cấp bách và nan giải,chính vì vậy
chúng ta cần có cái nhìn tổng quan hơn về thực trạng ô nhiễm môi trường hiện
nay ở nước ta.

1. Ô nhiễm môi trường nước :

 Hiện nay ở Việt Nam, mặc dù các cấp, các ngành đã có nhiều cố gắng trong
việc thực hiện chính sách và pháp luật về bảo vệ môi trường, nhưng tình trạng
ô nhiễm nước là vấn đề rất đáng lo ngại. Tốc độ công nghiệp hoá và đô thị hoá
khá nhanh và sự gia tăng dân số gây áp lực ngày càng nặng nề dối với tài
nguyên nước trong vùng lãnh thổ. Môi trường nước ở nhiều đô thị, khu công
nghiệp và làng nghề ngày càng bị ô nhiễm bởi nước thải, khí thải và chất thải
rắn. ở các thành phố lớn, hàng trăm cơ sở sản xuất công nghiệp đang gây ô
nhiễm môi trường nước do không có công trình và thiết bị xử lý chất thải. Ô
nhiễm nước do sản xuất công nghiệp là rất nặng. Ví dụ: ở ngành công nghiệp
dệt may, ngành công nghiệp giấy và bột giấy, nước thải thường có độ pH trung
bình từ 9-11; chỉ số nhu cầu ô xy sinh hoá (BOD), nhu cầu ô xy hoá học (COD)
có thể lên đến 700mg/1 và 2/1; hàm lượng chất rắn lơ lửng… cao gấp
nhiều lần giới hạn cho phép. Hàm lượng nước thải của các ngành này có chứa

hoà tan, các chất NH4, NO2, NO3 ở các sông, hồ, mương nội thành đều vượt
quá quy định cho phép.

  • Thành phố Hồ Chí Minh thì lượng rác thải lên tới gần 4 tấn/ngày; chỉ có
    24/142 cơ sở y tế lớn là có xử lý nước thải; khoảng 3 cơ sở sản xuất gây ô
    nhiễm thuộc diện phải di dời.

 Không chỉ ở Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh mà ở các đô thị khác như Hải
Phòng, Huế, Đà Nẵng, Nam Định, Hải Dương… nước thải sinh hoạt cũng
không được xử lý độ ô nhiễm nguồn nước nơi tiếp nhận nước thải đều vượt quá
tiểu chuẩn cho phép (TCCP), các thông số chất lơ lửng (SS), BOD; COD; Ô xy
hoà tan (DO) đều vượt từ 5-10 lần, thậm chí 20 lần TCCP.

 Về tình trạng ô nhiễm nước ở nông thôn và khu vực sản xuất nông nghiệp, hiện
nay Việt Nam có gần 76% dân số đang sinh sống ở nông thôn là nơi cơ sở hạ
tầng còn lạc hậu, phần lớn các chất thải của con người và gia súc không được
xử lý nên thấm xuống đất hoặc bị rửa trôi, làm cho tình trạng ô nhiễm nguồn
nước về mặt hữu cơ và vi sinh vật ngày càng cao. Theo báo cáo của Bộ Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn, số vi khuẩn Feca coliform trung bình biến đổi
từ 1.500-3/100ml ở các vùng ven sông Tiền và sông Hậu, tăng lên tới
3800-12/100ML ở các kênh tưới tiêu. Trong sản xuất nông nghiệp, do
lạm dụng các loại thuốc bảo vệ thực vật, các nguồn nước ở sông, hồ, kênh,
mương bị ô nhiễm, ảnh hưởng lớn đến môi trường nước và sức khoẻ nhân dân.
Theo thống kê của Bộ Thuỷ sản, tổng diện tích mặt nước sử dụng cho nuôi
trồng thuỷ sản đến năm 2001 của cả nước là 751 ha. Do nuôi trồng thuỷ
sản ồ ạt, thiếu quy hoạch, không tuân theo quy trình kỹ thuật nên đã gây nhiều
tác động tiêu cực tới môi trường nước. Cùng với việc sử dụng nhiều và không
đúng cách các loại hoá chất trong nuôi trồng thuỷ sản, thì các thức ăn dư lắng
xuống đáy ao, hồ, lòng sông làm cho môi trường nước bị ô nhiễm các chất hữu
cơ, làm phát triển một số loài sinh vật gây bệnh và xuất hiện một số tảo độc;

thậm chí đã có dấu hiệu xuất hiện thuỷ triều đỏ ở một số vùng ven biển Việt
Nam.

Nguyên Nhân : Có nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan dẫn đến tình
trạng ô nhiễm môi trường nước, như sự gia tăng dân số, mặt trái của quá trình
công nghiệp hoá, hiện đại hoá, cơ sở hạ tầng yếu kém, lạc hậu: nhận thức của
người dân về vấn đề môi trường còn chưa cao… Đáng chú ý là sự bất cập trong
hoạt động quản lý, bảo vệ môi trường. Nhận thức của nhiều cấp chính quyền,
cơ quan quản lý, tổ chức và cá nhân có trách nhiệm về nhiệm vụ bảo vệ môi
trường nước chưa sâu sắc và đầy đủ; chưa thấy rõ ô nhiễm môi trường nước là
loại ô nhiễm gây nguy hiểm trực tiếp, hàng ngày và khó khắc phục đối với đời
sống con người cũng như sự phát triển bền vững của đất nước. Các quy định về
quản lý và bảo vệ môi trường nước còn thiếu (chẳng hạn như chưa có các quy
định và quy trình kỹ thuật phục vụ cho công tác quản lý và bảo vệ nguồn
nước). Cơ chế phân công và phối hợp giữa các cơ quan, các ngành và địa
phương chưa đồng bộ, còn chồng chéo, chưa quy định trách nhiệm rõ ràng.
Chưa có chiến lược, quy hoạch khai thác, sử dụng và bảo vệ tài nguyên nước
theo lưu vực và các vùng lãnh thổ lớn. Chưa có các quy định hợp lý trong việc
đóng góp tài chính để quản lý và bảo vệ môi trường nước, gây nên tình trạng
thiếu hụt tài chính, thu không đủ chi cho bảo vệ môi trường nước. Ngân sách
đầu tư cho bảo vệ môi trường nước còn rất thấp (một số nước ASEAN đã đầu
tư ngân sách cho bảo vệ môi trường là 1% GDP, còn ở Việt Nam mới chỉ đạt
0,1%). Các chương trình giáo dục cộng đồng về môi trường nói chung và môi
trường nước nói riêng còn quá ít. Đội ngũ cán bộ quản lý môi trường nước còn
thiếu về số lượng, yếu về chất lượng (Hiện nay ở Việt Nam trung bình có
khoảng 3 cán bộ quản lý môi trường/1 triệu dân, trong khi đó ở một số nước
ASEAN trung bình là 70 người/1 triệu dân)

Diễn biến nồng độ bụi PM 10 trung bình năm trong không khí xung quanh một số
đô thị từ năm 2005 đến 2009

Ghi chú : – Tp. Hồ Chí Minh: số liệu trung bình của 9 trạm tự động liên tục trong
thành phố

  • Hà Nội, Đà Nẵng: số liệu từ một trạm tự động liên tục tại 1 vị trí của mỗi
    thành phố

Nguồn: TTKTTV Quốc gia, 2010; Chi cục BVMT Tp. Hồ Chí Minh, 2010

 Nồng độ bụi trong không khí ở các thành phố lớn như Hà Nội, thành phố Hồ
Chí Minh, Hải Phòng, Đà Nẵng trung bình lớn hơn trị số tiêu chuẩn cho phép
từ 2 đến 3 lần, ở các nút giao thông thuộc các đô thị này nồng độ bụi lớn hơn
tiêu chuẩn cho phép từ 2 đến 5 lần, ở các khu đô thị mới đang diễn ra quá trình
thi công xây dựng nhà cửa, đường sá và hạ tầng kỹ thuật thì nồng độ bụi
thường vượt tiêu chuẩn cho phép từ 10 – 20 lần.

 Trên Hình V giới thiệu diễn biến nồng độ bụi trong không khí từ năm 1995
đến hết năm 2002 ở các khu dân cư bên cạnh các khu công nghiệp.

 Xét Hình V ta thấy, tuy công nghiệp và đô thị trong thời gian qua phát triển
nhanh, nhưng ô nhiễm bụi trong không khí ở các khu dân cư gần một số khu
công nghiệp cũ trong các năm gần đây (từ năm 1995 đến nay) có chiều hướng
giảm dần, có thể đây là kết quả của việc kiểm soát các nguồn thải công nghiệp
ngày càng tốt hơn. Riêng ở gần Cụm Công nghiệp Tân Bình (thành phố Hồ Chí
Minh) và Khu Công nghiệp Biên Hoà I thì có chiều hướng tăng lên. Ngược lại
ô nhiễm bụi ở khu dân cư thông thường trong đô thị ngày càng tăng hơn, có thể
là do hoạt động giao thông và xây dựng trong đô thị ngày càng gia tăng.

Ô nhiễm khí SO 2 : Nói chung, nồng độ khí SO 2 trung bình ở các đô thị và khu
công nghiệp nước ta còn thấp hơn trị số tiêu chuẩn cho phép các thành
phố, thị xã đã quan trắc thì ở các thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Biên Hoà,
Thủ Dầu Một, Vũng Tàu, Long An có nồng độ khí SO2 lớn nhất, nhưng vẫn
thấp hơn trị số tiêu chuẩn cho phép tới 2 lần, ở các thành phố khác còn lại, như

(Quảng Ninh), nồng độ khí SO2 xấp xỉ trị số tiêu chuẩn cho phép.

Ô nhiễm các khí CO, NO 2 : Ở các thành phố lớn như Hà Nội, thành phố Hồ
Chí Minh, Đà Nẵng, Hải Phòng, nồng độ khí CO trung bình ngày dao động từ
2 – 5 mg/m 3 , nồng độ khí NO 2 trung bình ngày dao động từ 0,04 – 0,09mg/m 3 ,
chúng đều nhỏ hơn trị số tiêu chuẩn cho phép, tức là ở các đô thị và khu công
nghiệp Việt Nam, nói chung chưa có hiện tượng ô nhiễm khí CO và khí NO 2.
Tuy vậy, ở một số nút giao thông lớn trong đô thị nồng độ khí CO và khí NO 2
đã vượt trị số tiêu chuẩn cho phép, như ở ngã tư Đinh Tiên Hoàng – Điện Biên
Phủ (thành phố Hồ Chí Minh) trị số trung bình ngày của năm 2001: 0,19, gấp
1,9 lần trị số tiêu chuẩn cho phép, nồng độ CO năm 2001: 15,48 gấp 3,1 lần trị
số tiêu chuẩn cho phép; tương tự, năm 2002 nồng độ khí NO 2 = 0,191mg/m 3 và
khí CO = 12,67mg/m 3.

Biểu đồ : Diễn biến nồng độ CO tại các tuyến đường phố của một số đô thị
2002-

Nguồn: Chi cục BVMT TP. Hồ Chí Minh, Cục BVMT, 2007

Ô nhiễm chì (Pb) trong không khí đô thị : Thực hiện chỉ thị 24/2000/CT-TTg
của Thủ tướng Chính phủ, ở nước ta đã sử dụng xăng không pha chì từ ngày 1-
7-2001. Số liệu quan trắc ô nhiễm giao thông cho thấy nồng độ chì trong không
khí Hà Nội trung bình năm 2002 giảm đi khoảng 40 – 45% so với cùng thời kỳ
năm trước; tương tự, ở thành phố Hồ Chí Minh nồng độ chì giảm đi khoảng
50%.

Nguyên Nhân gây ô nhiễm không khí :

Nguồn ô nhiễm không khí từ hoạt động công nghiệp

 Công nghiệp hóa càng mạnh thì nhu cầu tiêu thụ năng lượng càng lớn,
nguồn ô nhiễm không khí càng tăng. Ta thấy nhu cầu tiêu thụ xăng dầu
trong nước ngày càng tăng và dự báo trong 25 năm tới còn tiếp tục tăng cao
(Biểu đồ 3). Nếu các Tiêu chuẩn về chất lượng xăng dầu không được thắt
chặt thì chúng ta sẽ phải đối mặt với vấn đề ô nhiễm không khí đô thị rất
nghiêm trọng. Tiêu thụ xăng dầu là một trong những nguyên nhân phát thải
các chất độc hại như CO, hơi xăng dầu (HmCn, VOC), SO 2 , chì, BTX. Phát
thải những chất này liên quan chặt chẽ đến chất lượng xăng dầu. Trong cơ
cấu tiêu thụ xăng dầu của quốc gia thì GTVT chiếm tỷ trọng lớn nhất (Biểu
đồ 4), là nguồn phát thải khí ô nhiễm lớn nhất trong đô thị.

Nguồn ô nhiễm không khí do hoạt động giao thông vận tải

  • Hoạt động giao thông vận tải, các ngành công nghiệp, thủ công nghiệp và hoạt
    động xây dựng là những nguồn chính gây ô nhiễm không khí ở các khu đô thị.
    Theo đánh giá của các chuyên gia, ô nhiễm không khí ở đô thị do giao thông
    gây ra chiếm tỷ lệ khoảng 70%. Xét các nguồn thải gây ra ô nhiễm không khí
    trên phạm vi toàn quốc (bao gồm cả khu vực đô thị và khu vực khác), ước tính
    cho thấy, hoạt động giao thông đóng góp tới gần 85% lượng khí CO, 95%
    lượng VOCs.

  • Theo báo cáo môi trường quốc gia năm 2007, ô nhiễm không khí ở đô thị do
    giao thông gây ra chiếm 70%. Xét theo các nguồn thải gây ô nhiễm trên toàn
    quốc, hoạt động giao thông đóng góp khoảng 85% lượng CO, 95% VOCs.

  • Mô tô, xe máy là phương tiện giao thông phổ biến nhất, chiếm 95% về số
    lượng và đáp ứng 90% nhu cầu đi lại tại các thành phố lớm. Hàng năm có
    khoảng 3 triệu mô tô, xe máy và 150 ô tô mới tham gia giao thông. Mô tô,

xe máy lưu hành chưa được kiểm soát khí thải. Đa số mô tô, xe máy không
được bảo dưỡng, sửa chữa trong quá trình sử dụng nên mức phát thải và tiêu
hao lớn. Ý thức bảo vệ môi trường kém. Đa số dân không hiểu rõ tác hại của
khí thải và tác dụng của bảo dưỡng, sửa chữa đến giảm khí thải độc hại và tiết
kiệm tiêu hao nhiên liệu. Tính đến 2010 có 1.394 xe ô tô đang lưu hành
trong đó xe ô tô con 617, ô tô khách 163 và ô tô tải 660. Tổng số
xe mô tô, xe máy đang lưu hành xấp xỉ 33.000 chiếc.

Bảng 3. Ước tính thải lượng các chất gây ô nhiễm từ các nguồn thải chính của Việt
Nam năm 2005 (Đơn vị: tấn/năm)

TT Ngành sản xuất CO NO2 SO2 VOCs

1 Nhiệt điện 4 57 123 1.

3 Sản xuất công nghiệp, dịch vụ, sinh hoạt 54,004 151,031 272,497 854

4 Giao thông vận tải 301 92 18 47.

gây ô nhiễm bụi rất trầm trọng đối với môi trường không khí xung quanh, đặc biệt là ô
nhiễm bụi, nồng độ bụi trong không khí ở các nơi có hoạt động xây dựng vượt trị số
tiêu chuẩn cho phép tới 10 – 20 lần.

Nguồn ô nhiễm không khí từ sinh hoạt đun nấu của nhân dân

Nhân dân ở nông thôn nước ta thường đun nấu bằng củi, rơm, cỏ, lá cây và một tỷ lệ
nhỏ đun nấu bằng than. Nhân dân ở thành phố thường đun nấu bằng than, dầu hoả,
củi, điện và khí tự nhiên (Gas). Đun nấu bằng than và dầu hoả sẽ thải ra một lượng
chất thải ô nhiễm đáng kể, đặc biệt nó là nguồn gây ô nhiễm chính đối với môi trường
không khí trong nhà, ảnh hưởng trực tiếp đến sức khoẻ của người dân. Trong những
năm gần đây nhiều gia đình trong đô thị đã sử dụng bếp gas thay cho bếp đun bằng
than hay dầu hoả.

Theo báo cáo hiện trạng môi trường của các tỉnh thành năm 2002, và năm 2003, ở các
đô thị lớn như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Đà Nẵng, đặc biệt là ở các
thành phố và thị xã của các tỉnh phía Nam, một số gia đình có mức sống cao chuyển
từ đun nấu bằng than, dầu sang đun nấu bằng bếp gas ngày càng nhiều. Bếp gas gây ô
nhiễm không khí ít hơn rất nhiều so với đun nấu bằng than, dầu. Ngược lại, do giá dầu
hoả và giá điện tăng lên đáng kể, rất nhiều gia đình có mức thu nhập thấp đã chuyển
sang dùng bếp than tổ ong với số lượng lớn, bình quân mỗi gia đình tiêu thụ khoảng
2kg than/ngày, gây ra ô nhiễm không khí cục bộ nặng nề, nhất là lúc nhóm bếp và ủ
than.

3. Ô nhiễm môi trường đất :

 Không chỉ có môi trường nước mà môi trường không khí và môi trường đất
cũng bị ô nhiễm nghiêm trọng. Về môi trường đất, kết quả của một số khảo sát

cho thấy hàm lượng kim loại nặng trong đất gần các khu công nghiệp đã tăng
lên trong những năm gần đây. Như tại cụm công nghiệp Phước Long (Bình
Phước) hàm lượng Cr cao gấp 15 lần so với tiêu chuẩn, Cd cao từ 1,5 đến 5 lần,
As cao hơn tiêu chuẩn 1,3 lần. (Cr,Cd,As: các chất hoá học độc hại) Thuốc bảo
vệ thực vật cũng gây ảnh hưởng đến đất. Mặc dù khối lượng thuốc bảo vệ thực
vật được sử dụng ở Việt nam còn ít, trung bình từ 0,5-1,0 kg/ha/năm, tuy nhiên,
ở nhiều nơi đã phát hiện dư lượng thuốc bảo vệ thực vật trong đất.

 Theo Báo cáo Hiện trạng môi trường quốc gia 2005 :

  • Ô nhiễm do sử dụng phân hóa học: sử dụng phân bón không đúng kỹ thuật
    trong canh tác nông nghiệp nên hiệu lực phân bón thấp, có trên 50% lượng
    đạm, 50% lượng kali và xấp xỉ 80% lượng lân dư thừa trực tiếp hay gián tiếp
    gây ô nhiễm môi trường đất. Các loại phân vô cơ thuộc nhóm chua sinh lý như
    K2SO4, KCl, super photphat còn tồn dư axit, đã làm chua đất, nghèo kệt các
    cation kiềm và xuất hiện nhiều độc tố trong môi trường đất như ion Al3+,
    Fe3+, Mn2+ giảm hoạt tính sinh học của đất và năng suất cây trồng.

  • Ô nhiễm thuốc bảo vệ thực vật: Thuốc bảo vệ thực vật có đặc điểm rất độc đối
    với mọi sinh vật; tồn dư lâu dài trong môi trường đất- nước; tác dụng gây độc
    không phân biệt, nghĩa là gây chết tất cả những sinh vật có hại và có lợi trong
    môi trường đất. Theo các kết quả nghiên cứu, hiện nay, mặc dù khối lượng
    thuốc bảo vệ thực vật được sử dụng ở Việt nam còn ít, trung bình từ 0,5-1,0 kg
    ai/ha/năm, tuy nhiên, ở nhiều nơi đã phát hiện dư lượng thuốc bảo vệ thực vật
    trong đất.

  • Ô nhiễm chất thải vào môi trường đất do hoạt đọng công nghiệp: kết quả của
    một số khảo sát cho thấy hàm lượng kim loại nặng trong đất gần các khu công
    nghiệp đã tăng lên trong những năm gần đây. Như tại cụm công nghiệp Phước

Lợi thị xã Thủ Dầu Một, cổng Bệnh viện Quân đoàn 4 (Bình Dương). Đa số
các đường phố còn lại có mức ồn từ 65 đến 75dBA.

Ô Nhiễm Ánh Sáng : Ô nhiễm ánh sáng là hiện tượng lạm dụng ánh sáng trên
mức cần thiết so với khả năng chịu đựng ánh sáng của con người và môi
trường. Ô nhiễm ánh sáng đang là nguy cơ đối với cuộc sống hiện đại.
Xã hội công nghiệp phụ thuộc khá nhiều vào ánh sáng nhân tạo vì nó là một
yếu tố quan trọng góp phần đắc lực trong quá trình phát triển kinh tế – xã hội.
Ánh sáng được dùng để chiếu sáng tại các địa điểm công cộng, văn phòng, nhà
máy, khu dân cư… nhằm đáp ứng và phục vụ cho các hoạt động của xã hội như
học tập, làm việc, an ninh, vui chơi, giải trí… Tuy nhiên, khi ánh sáng được sử
dụng không hiệu quả, gây ra hiện tượng sáng quá mức lại chính là nguyên nhân
của vấn đề ô nhiễm ánh sáng
Ô nhiễm ánh sáng gây ra các tác hại ở các dạng như: Lãng phí năng lượng và
tác động đến môi trường toàn cầu. Gây rối loạn các hệ sinh thái (Các loài sinh
vật vốn thích nghi với ánh sáng và bóng tối tự nhiên ),..v…

………

Biện Pháp Cải Tạo và Hạn Chế Ô nhiễm môi trường :

  • Sau đây là một số biện pháp chính giúp cải tạo cũng như hạn chế nhất ảnh hưởng
    xấu đối với môi trường hiện nay :

1. Giáo dục nhận thức của mọi người :

  • Truyền thông nâng cao nhận thức và xây dựng văn hóa, đạo đức môi trường cho mọi
    người dân đô thị, đặc biệt là đối với những người lái xe ô tô, xe máy và chủ các cơ sở

sản xuất. Chỉ bằng cách sử dụng các nguồn năng lượng có thể tái tạo lại một cách hiệu
quả, chúng ta có thể biến mình thành những người bảo vệ môi trường tốt nhất.

2. Phát triển công nghiệp xanh

  • Phát triển công nghệ sản xuất sạch hơn ở tất cả các khu công nghiệp và cơ sở công
    nghiệp ở xung quanh thành phố (phát triển công nghiệp xanh);

3. Cải tạo, nâng cấp giao thông đô thị trở thành giao thông đô thị xanh

  • Cải tạo quy hoạch hệ thống giao thông đô thị sao cho đáp ứng các chỉ tiêu: Tỷ lệ
    diện tích giao thông động đạt 15-20% tổng diện tích xây dựng đô thị, tỷ lệ diện tích
    giao thông tĩnh đạt 3-6%, mật độ đường đạt khoảng 6km/1km 2 ;

  • Phát triển giao thông công cộng (đạt trên 40%), giao thông đi bộ và đi xe đạp trong
    thành phố;

  • Thắt chặt các tiêu chuẩn môi trường có liên quan (tiêu chuẩn xăng dầu, tiêu chuẩn
    khí thải của các phương tiện giao thông cơ giới);

  • Tiến hành kiểm soát nguồn thải của các loại xe và cấm vận hành đối với các xe
    không đạt tiêu chuẩn EURO2 về khí thải.

  • Khuyến khích xe cộ sử dụng nhiên liệu sạch hơn (xe chạy bằng khí hóa lỏng (LPG),
    khí tự nhiên nén (CNG), ethanol, dầu sinh học) và xe điện.

  • Cấm hoặc giảm lượng xe cá nhân chạy ở khu vực trung tâm thành phố, chỉ dành cho
    người đi bộ và xe công cộng.

4. Sử dụng năng lượng ánh sáng
Năng lượng ánh sáng là năng lượng tự nhiên thừa mứa nhất trên hành tinh của chúng
ta. Bằng việc sử dụng công nghệ thích hợp, con người sẽ có thừa năng lượng từ ánh
sáng mặt trời để sử dụng.