Một số biện pháp giúp học sinh lớp 2 học tốt môn Luyện từ và câu

Bạn đang xem tài liệu “Một số biện pháp giúp học sinh lớp 2 học tốt môn Luyện từ và câu”, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

PHỤ LỤC
Phần thứ nhất:
ĐẶT VẤN ĐỀ
2
1.
Lý do chọn SKKN:
2
2.
Thời gian thực hiện và triển khai SKKN.
2
Phần thứ hai:
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ (NỘI DUNG CỦA SKKN)
3
1. 
Cơ sở lý luận của vấn đề:
3
2.
Thực trạng của vấn đề:
4
3.
Các biện pháp đã tiến hành để giải quyết vấn đề.
4
4.
Hiệu quả của SKKN.
13
Phần thứ ba:
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
14
Tài liệu tham khảo.
15
Phần thứ nhất:
ĐẶT VẤN ĐỀ
	1. Lý do chọn SKKN:
Lâu nay học sinh chỉ ham thích học các môn Tự nhiên và xã hội mà quên đi phần quan trọng của môn Tiếng Việt, dẫn đến một số học sinh mặc dù đã đạt đến trình độ tốt nghiệp Phổ thông trung học mà không biết cách hành văn, viết sai chính tả, sai cấu trúc câu trong bài thi của mình. Đây là một nỗi băn khoăn trăn trở của những người làm công tác giáo dục, đặc biệt là ở những lớp đầu cấp. 
Thật vậy, Trường Tiểu học là nơi nhằm cung cấp cho học sinh một số ngữ pháp cơ bản cần thiết, vừa sức với các em. 
Ở tiểu học Luyện từ và câu được dạy trong tất cả các phân môn Tiếng Việt, ở đâu có dạy tiếp nhận và sản sinh lời nói thì ở đó có dạy Luyện từ và câu. 
Ngoài ra việc Luyện từ và câu còn trang bị cho học sinh một hệ thống khái niệm, sự hiểu biết về cấu trúc ngôn ngữ, về quy tắc cấu tạo từ, dùng từ đặt câu và tạo văn bản để sử dụng trong giao tiếp. Đồng thời Luyện từ và câu còn có nhiệm vụ rèn luyện tư duy và giáo dục thẩm mỹ cho học sinh.
Ông bà ta có câu: “Trẻ em như tờ giấy trắng”. Là giáo viên, nhất là giáo viên tiểu học khi truyền thụ kiến thức cho học sinh phải đúng, chuẩn và chính xác. Vì đây là những cơ sở ban đầu mà học sinh có được để làm nền tảng cho các lớp sau.
Khác với các bậc học trên, ở bậc Tiểu học, học sinh chưa thể hiện, chưa phân biệt được khái niệm từ một cách chính xác mà hoàn toàn phụ thuộc vào kiến thức cũng như cách truyền đạt của người đứng lớp.
Xuất phát từ những trăn trở trên, là giáo viên lớp 2, tôi cố gắng đem hết khả năng của mình tìm những biện pháp hữu hiệu nhất để giúp các em học tốt môn Luyện từ và câu.
Chính vì lẽ đó tôi mạnh dạn chọn sáng kiến kinh nghiệm “Một số biện pháp giúp học sinh lớp 2 học tốt môn Luyện từ và câu” nhằm mục đích trao đổi, học hỏi để tìm ra hướng mới hơn trong việc truyền thụ kiến thức cho học sinh tiểu học.
	2. Thời gian thực hiện và triển khai SKKN.
	 TỪ ĐẦU NĂM HỌC ĐẾN CUỐI THÁNG 9 NĂM HỌC 2012-2013.
Phần thứ hai:
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ (NỘI DUNG CỦA SKKN)
	1. Cơ sở lý luận của vấn đề:
Nhằm đạt được trọng tâm bộ môn, khi dạy người GV cần chú ý những đặc điểm sau:
- Nắm rõ nội dung cấu trúc của chương trình môn học.
- Xác định mục tiêu cần đạt của những bài tập và mục tiêu của tiết học để lựa chọn phương pháp cho phù hợp.
- Phải chính xác hóa vốn từ; giúp HS hiểu nghĩa của từ một cách chính xác - nhất là những từ ngữ thu nhận được thông qua cách học tự nhiên, đồng thời giúp HS nắm được nghĩa của từ mới.
- Phải tích cực hóa vốn từ, giúp HS luyện sử dụng từ ngữ vào trong nói, viết. Nghĩa là giúp các em chuyển hóa những từ đã tiếp nhận và phát ngôn một cách “chuẩn mực” nhằm phát triển kĩ năng, kĩ xảo sử dụng từ. Đây được coi là nhiệm vụ trọng tâm trong dạy học từ ngữ.
Trên thực tế kiến thức về lí thuyết và kĩ năng, kĩ xảo luôn có sự liên quan chặt chẽ với nhau, bổ trợ cho nhau. Tuy nhiên với khả năng nhận thức của HS lớp 2 , SGK đã lựa chọn hình thức thông qua hệ thống bài tập để hình thành những cơ sở ban đầu cho kiến thức về từ được xây dựng sau này. Trong quá trình dạy học GV cần chú ý đặc điểm này để lựa chọn hình thức, phương pháp lên lớp cho phù hợp, đảm bảo tính liên thông của môn học giữa các lớp học, bậc học.
Về phía học sinh:
- Học khoảng 300 đến 350 từ mới (kể cả thành ngữ và tục ngữ) thuộc các chủ điểm trong SGK: HS, bạn bè, trường học, thầy cô, ông bà, cha mẹ, anh em, các con vật nuôi, các mùa trong năm, chim chóc, muông thú, sông biển, cây cối, Bác Hồ, nhân dân. Thực chất các từ này bổ sung cho vốn từ về thế giới xung quanh gần với các em và vốn từ về chính bản thân các em.
Nội dung luyện câu chủ yếu yêu cầu HS nói và viết thành câu trên cơ sở những hiểu biết sơ giản sau:
- Nhận biết câu trong lời nói và trong văn bản dựa trên tính tương đối trọn vẹn về ý nghĩa của câu, dựa trên dấu hiệu mở đầu kết thúc câu trong văn bản (viết hoa chữ cái đầu câu, dấu chấm, dấu chấm hỏi, dấu chấm than ở chỗ kết thúc câu).
- Nhận biết các bộ phận chính trong những kiểu câu phổ biến có mô hình Ai (con gì, cái gì) – làm gì?, Ai – là gì?, Ai – thế nào? Qua việc đặt câu hỏi cho từng bộ phận chính của câu.
- Nhận biết các bộ phận phụ của câu trả lời cho các câu hỏi Khi nào?, Ở đâu?, Vì sao?, Để làm gì? Trong những kiểu câu phổ biến nói trên.
- Nhận biết các dấu kết thúc câu kể, câu hỏi, câu cầu khiến, câu cảm (dấu chấm, dấu chấm hỏi, dấu chấm than) và dấu phẩy đặt ở giữa câu để tách ý.
	2. Thực trạng của vấn đề:
Môn Tiếng việt lớp 2 của chương trình Tiểu học mới không có bài học lý thuyết như phân môn Từ ngữ -Ngữ pháp trước đây. Do vậy việc giải quyết các bài tập không phải chỉ để rút ra một, hai đơn vị kiến thức sơ giản mà bên cạnh đó cần cung cấp cho HS học thuộc và ghi nhớ những kiến thức về từ, ngữ, câu thông qua các bài tập thực hành.
Nội dung bài học của phân môn Luyện từ và câu được thiết kế bằng hệ thống bài tập. Mỗi tiết dạy GV đều hướng dẫn HS thực hiện từ 3 đến 4 bài tập nhằm giúp cho các em nhận diện các kiến thức sơ giản về từ và câu Tiếng Việt.
Thực trạng hiện nay việc dạy và học phân môn Luyện từ và câu đang đặt ra nhiều vấn đề đáng quan tâm. Khi dạy phân môn, giáo viên còn gặp nhiều khó khăn trong việc tìm ra những biện pháp để giúp học sinh tiếp thu những kiến thức mới một cách năng động và tích cực.
Bên cạnh đó, những khó khăn khi gặp phải là việc giải nghĩa từ, sử dụng từ và mở rộng vốn từ (vốn từ của các em quá ít).
Bởi vì học sinh hiện nay mắc lỗi lớn là nói, viết không thành câu. Các em không kiểm soát được lời nói của mình. Khi hành văn cũng thế, các em viết câu không đúng cấu trúc, sai ngữ pháp, dùng từ không phù hợp.Theo tôi nghĩ vấn đề này do ảnh hưởng trong giao tiếp hằng ngày, ảnh hưởng của việc xem truyện tranh, việc ít đọc sách báomà ra.
Vì vậy khi dạy tôi luôn tập trung tổ chức cho HS các hoạt động mang tính thực hành là chính. Rèn kĩ năng thực hành là yêu cầu cơ bản trong quá trình hướng dẫn HS làm bài tập. Đây chính là nét mới, là vấn đề đặt ra đòi hỏi người GV phải có sự suy nghĩ, tìm tòi đầu tư nhiều thời gian và công sức mới thực hiện có hiệu quả một tiết lên lớp.
	3. Các biện pháp đã tiến hành để giải quyết vấn đề.
Hình thức bài tập trong SGK mới của phân môn Luyện từ và câu lớp 2 rất đa dạng về kiểu loại, phong phú về hình thức nhưng nét chung nhất là nhằm mở rộng vốn từ và rèn kĩ năng dùng từ, đặt câu cho HS. Để chuẩn bị cho tiết lên lớp, GV cần tập trung một số nội dung chủ yếu sau: 
a. Lựa chọn hình thức học tập thích hợp:
Phân môn Luyện từ và câu được thiết kế thông qua hệ thống bài tập, do vậy nếu GV không chuẩn bị hình thức, biện pháp dạy học thích hợp thì tiết học sẽ rập khuôn và trở nên nhàm chán, không kích thích hứng thú học tập của HS.
Căn cứ vào các loại bài tập, GV có thể chọn lựa hình thức trình bày từng bài tập cho phù hợp: làm miệng, viết, làm cá nhân, làm theo nhóm hoặc tổ chức trò chơi học tập. 
Ví dụ: Bài tập 1/ 44 TV 2 tập 1.
Cách viết các từ ở nhóm (1) và nhóm (2) khác nhau như thế nào? Vì sao?
	sông	(sông) Cửu Long
	núi	(núi) Ba Vì
	thành phố	(thành phố) Huế
	học sinh	 	(học sinh) Trần Phú Bình
Đối với bài tập này, vấn đề ở đây HS không phải chỉ so sánh 2 cột mà nói lên sự khác nhau giữa 2 nhóm từ (viết thường, viết hoa). Để tiết học sinh động tôi chọn hình thức tổ chức lớp bằng cách: Cho HS xem tranh vẽ (tranh chụp) về sông, núi hay về một thành phố nào đó HS quan sát và trả lời câu hỏi của GV. Chính điều này sẽ gây hứng thú cho HS ham học, HS hiểu biết thêm về phong cảnh giàu đẹp của đất nước ta. Ngoài ra các em còn phân biệt được các từ chỉ sự vật nói chung và tên riêng của từng sự vật.
Bài tập 3: Đặt câu theo mẫu.
Giới thiệu trường em
Giới thiệu một môn học em yêu thích
Giới thiệu làng ( xóm, bản, ấp, buôn, sóc, phố) của em
Thay vì gọi HS đặt câu theo mẫu, sau đó HS khác nhận xét thì để hấp dẫn và hứng thú HS, GV tổ chức trò chơi: “ phóng viên”. Phóng viên báo Nhi Đồng đến thăm lớp ta. Thì tiết học vui, sinh động và lôi cuốn hơn. Ngoài ra điều này còn tập cho các em tự tin, mạnh dạn hơn trong lời nói của mình, trong giao tiếp với bạn bè, với khách lạ.
Nói tóm lại, tôi luôn cố gắng chọn hình thức học tập thích hợp cho lớp tôi nhất là dùng phương pháp trực quan sẽ giúp cho HS có khả năng trừu tượng hóa dấu hiệu khái niệm, nhận diện từ một cách khái quát như: sông, núi, thành phố, học sinh.
b. Giúp học sinh nắm vững yêu cầu bài tập:
Xét theo mục đích của bài tập, SGK có những bài tập Luyện từ và câu sau:
- Bài tập nhận diện từ và câu.
- Bài tập tạo lập từ và vâu.
- Bài tập sử dụng dấu câu.
Thông thường mỗi tiết học, HS làm từ 3 - 4 bài tập, mỗi bài tập đều nhằm mục đích rèn luyện một số kỹ năng nhất định. Do tính chất phong phú về hình thức, kiểu loại bài tập nên tùy theo loại bài tập, tôi hướng dẫn cho HS nắm yêu cầu một cách thích hợp.
Có loại bài tập HS có thể đọc và tự xác định yêu cầu, sau đó cùng nhau trao đổi cả lớp, nhưng cũng có loại bài tập tôi cần dành thời gian để hướng dẫn cho cả lớp nắm vững yêu cầu trước khi thực hành. 
Loại bài tập HS đọc và tự xác định yêu cầu là những bài tập thuộc dạng bài đã được làm ở các tiết trước hoặc những bài tập yêu cầu thực hiện nhiệm vụ một cách đơn giản.
Đối với loại bài tập này, tôi chỉ cần cho HS tự xác định yêu cầu bài tập sau đó trao đổi với các bạn để tiến hành làm bài.
Loại bài tập dành thời gian hướng dẫn cho HS nắm vững yêu cầu là những bài tập có yêu vầu cao hơn về mặt kiến thức và kĩ năng hoặc cần xác định trong quan hệ giữa đề bài và lời giải. Tuy nhiên cũng có bài tập mặc dù không khó nhưng HS chưa gặp, chưa quen thì tôi hướng dẫn kĩ hoặc làm mẫu cho các em.
Đối với loại bài tập này, tôi cho cả lớp làm việc chung để giúp cho HS xác định yêu cầu trước khi tiến hành làm bài.
c. Hướng dẫn HS nắm vững kiến thức qua các dạng bài tập cơ bản:
Sách Tiếng việt 2 thường thiết kế 4 loại bài tập cơ bản: mở rộng vốn từ theo chủ điểm; nắm nghĩa của từ; phân loại nhóm từ; luyện tập sử dụng từ. Do vậy, để giải quyết tốt bài tập, GV cần nắm vững yêu cầu về kiến thức, mục đích v ... g hiểu được.
Ví dụ: Cô nói: “Quyển vở này” 
Vậy các em có hiểu ý cô nói gì không? (HS sẽ không hiểu).
Lúc đó tôi mới gọi 1 em nói tiếp ý của câu tôi vừa nói: “Quyển vở này rất đẹp”.
Khi đó các em mới hiểu. Vậy bản chất của câu là diễn đạt một ý trọn vẹn. Đây là dấu hiệu quan trọng nhất của khái niệm câu. Về hình thức, câu được mở đầu bằng một chữ viết hoa và kết thúc bằng một dấu chấm câu.
Từ sự hướng dẫn trên, HS sẽ đặt câu đúng và áp dụng đặt câu trong 2 bức tranh ở bài tập 3/9 như sau:
Tranh 1: Các bạn dạo chơi trong vườn hoa. (Hà và các bạn đi dạo giữa vườn hoa.)
Tranh 2: Hà vui vẻ ngắm hoa. ( Hà đang say sưa ngắm khóm hoa hồng.)
	Thông thường tôi hướng dẫn HS kiểm tra lại xem cấu trúc câu đã đúng chưa có thiếu bộ phận nào không bằng cách đặt câu hỏi, dùng từ Ai ( con gì? Cái gì?) để xác định bộ phận chính. Đặt câu hỏi là gì? làm gì?, thế nào? Để xác định bộ phận còn lại.
Ví dụ: Xác định câu sau thành câu chưa?
Em quét nhà.
Đặt câu hỏi để tìm bộ phận chính: Ai quét nhà? - Trả lời: Em ( vậy “Em” là bộ phận trả lời cho câu hỏi Ai?
Đặt câu hỏi để tìm bộ phận còn lại: Em làm gì? –Trả lời: quét nhà ( vậy “quét nhà” là bộ phận trả lời cho câu hỏi làm gì?
Suy ra câu trên đã thành câu.
Nhưng không phải việc đặt câu hỏi Ai - là gì?, Ai - làm gì?, Ai - thế nào?... để kiểm tra lại là việc đơn giản với các em. Đôi khi các em còn lúng túng không biết đặt câu hỏi như thế nào để tìm bộ phận trả lời cho câu hỏi trong câu và không biết câu đó thuộc loại mẫu câu gì.
Ở chương trình lớp 2, môn Luyện từ và câu gồm có các mẫu câu phổ biến sau:
	Ai ( con gì, cái gì?) - là gì? 
	Ai ( con gì, cái gì?) - làm gì?
	Ai ( con gì, cái gì?) - thế nào?
Để nhận dện được các mẫu câu này và thực hiện một số bài tập dạng:
* Đặt câu hỏi cho bộ phận được in đậm
* Câu trên thuộc mẫu câu gì?...
Tôi hướng dẫn HS xác định như sau: Nếu mẫu câu Ai- là gì? Thì trong câu luôn luôn có từ “ là”
Ví dụ: 
Cá heo là bạn của người đi biển.
Mẹ em là công nhân.
HS hay đặt câu như sau:
Ví dụ: 
Mẹ em là hiền.	
Bạn Nam là thân với em.
Mặc dầu trong câu có từ “là” nhưng đó là câu sai.
Chính vì thế cần lưu ý HS ở mẫu câu này như sau: Sau từ “là” phải là từ chỉ sự vật.
Sửa lại câu sai như sau: Mẹ em là người mẹ hiền.
	Bạn Nam là bạn thân của em.
(Từ “người mẹ”, “bạn thân” đều là từ chỉ sự vật)
Nếu mẫu câu Ai- làm gì? Thì trong câu thường có từ “đang” hoặc sau bộ phận trả lời cho câu hỏi Ai là cụm từ chỉ hoạt động, trạng thái.
Ví dụ:
Con mèo mướp đang nằm lì bên đống tro. 
Mẹ em đang nấu bếp.
- Nếu mẫu câu Ai- thế nào? Thường thì trong câu có từ “rất” hoặc bộ phận trả lời cho câu hỏi thế nào là cụm từ chỉ đặc điểm, tính chất.
Ví dụ:
Tính tình của bố em rất điềm đạm. (điềm đạm- chỉ đặc điểm,tính chất)
Em bé ngoan ngoãn . (ngoan ngoãn- chỉ đặc điểm,tính chất)
Khi HS xác định được mẫu câu phổ biến trên thì việc giải các bài tập có liên quan đến mẫu câu không khó đối với các em.
Ví dụ: Đặt câu hỏi cho bộ phận được in đậm trong các câu sau:
1. Em Nụ ngoan lắm.
HS thay từ “ Em Nụ” thành “Ai” Vì “Em Nụ” là chỉ người nên dùng từ Ai để hỏi: Ai ngoan lắm?
2. Bé Mai ngoan lắm.
Lúc này HS phải xác định “ ngoan lắm” là cụm từ chỉ đặc điểm. 
Kết luận ta dùng cụm từ thế nào? để hỏi: Bé Mai thế nào?
Sau khi đã đặt câu hỏi, HS cần kiểm tra lại xem mình đã đặt câu hỏi đúng chưa bằng cách trả lời câu hỏi em đã đặt. Nếu câu trả lời khớp với bộ phận in đậm thì em đã giải đúng, nếu câu trả lời sai lệch với bộ phận in đậm thì em giải sai
* Dạng bài tập nhận diện các bộ phận phụ của câu trả lời cho câu hỏi Khi nào? Ở đâu? Như thế nào? Vì sao? Để làm gì?
Thường thì tôi hướng dẫn như sau: 
*Cần phải xác định nội dung câu, yêu cầu của đề bài.
Nếu muốn hỏi về thời gian, ta dùng câu hỏi “ Khi nào”.
Ví dụ: Đặt câu hỏi cho bộ phận được in đậm.
Mùa xuân trăm hoa đua nở, tiết trời ấm áp.
“Mùa xuân” là từ chỉ thời gian vì thế ta dùng cụm từ “Khi nào” thay cho từ “ mùa xuân” để hỏi:
Khi nào trăm hoa đua nở, tiết trời ấm áp?
Muốn hỏi về địa điểm ta dùng cụm từ “Ở đâu” để hỏi và thường trong câu có từ “ở”
Ví dụ:
Trong vườn trường, mấy tốp học sinh đang vun xới cây.
“Trong vườn trường” chỉ địa điểm. Tương tự ta thay “trong vườn trường” thành cụm từ “Ở đâu” để hỏi:
Ở đâu mấy tốp học sinh đang vun xới cây?
Hoặc: Mấy tốp học sinh đang vun xới cây ở đâu?
Muốn hỏi nguyên nhân của sự việc ta dùng câu hỏi “ Vì sao?” và thường trong câu có từ “vì”.
Ví dụ:
Không được bơi ở đoạn sông này vì có nước xoáy.
“ Vì có nước xoáy” chính là nguyên nhân của sự việc nên ta dùng câu hỏi “Vì sao?”
Không được bơi ở đoạn sông này vì sao?
Nếu muốn hỏi về đặc điểm, tính chất ta dùng cụm từ “như thế nào” để hỏi
Ví dụ: Hoa phượng đỏ rực .(Hoa phượng như thế nào?)
Nếu muốn hỏi ý nghĩa của việc làm ta dùng cụm từ để làm gì? để hỏi và thường thì trong câu có từ “để”.
Ví dụ: Bạn Thắng tưới cây để cho cây tươi tốt.(Bạn Thắng tưới cây để làm gì?)
Sau khi nhận biết các bộ phận phụ của câu của lời cho các câu hỏi là gì? làm gì?, thế nào?, vì sao?.....Tôi hệ thống lại toàn bộ cách nhận diện các dạng câu trên cho HS nắm và để khắc sâu kiến thức hơn. 
* Dạng bài tập sử dụng dấu câu:
- Để điền đúng dấu câu ta phải hiểu nghĩa của câu thì mới sử dụng dấu câu phù hợp.
Ví dụ: Điền dấu câu thích hợp vào các câu sau.
Nam mới về đến cửa đã nghe thấy tiếng ông:
- Cháu đã về đấy ư.
- Thưa ông, vâng ạ.
- Rửa chân tay đi rồi vào ăn cơm cháu nhé.
(Nếu là câu hỏi thì phải trả lời được Cháu đã về đấy ư là câu hỏi của ông, nên dùng dấu chấm hỏi.
Thưa ông, vâng ạ lời đáp của cháu là lời kể sự việc tóm tắt, kết thúc câu dùng dấu chấm.
Rửa chân tay đi rồi vào ăn cơm cháu nhé là câu sai khiến, kết thúc câu bằng dấu chấm than.
Nói tóm lại, để đạt được hiệu quả như mong muốn thì khi giáo viên tổ chức cho HS làm việc cá nhân, theo nhóm, làm việc cả lớp, tổ chức trò chơi học tậpphải chú ý, tùy vào điều kiện cụ thể mà có biện pháp thích hợp nhằm tạo điều kiện cho tất cả các em đều làm việc, đều được hoạt động, đều được bộc lộ và phát triển.
Đối với bài tập cho HS làm cá nhân: yêu cầu về kiến thức không khó, đa số các em có khả năng làm được vì thế tôi luôn tạo điều kiện cho nhiều em được trình bày, nhất là những em tiếp thu bài chậm trình bày trước để các bạn khác có cơ hội bổ sung, sữa chữa.
Thường thì những em học chậm không dám giơ tay, ngại nói, sợ nói sai.. nên còn e dè, rụt rè. Khi đó, tôi thường xuyên mời các em đó đứng lên bày tỏ ý kiến của mình. HS nói sai, GV không nên trách mắng các em. Vì có nói sai GV mới biết được sự tiếp thu bài của các em. Từ đó, GV mới có thể điều chỉnh cách dạy của mình và dạy như thế nào để em dễ hiểu hơn.
Để động viên các em, cuối tuần tôi tuyên dương và thưởng cho các em về sự cố gắng học tập của em, em sẽ thích học, tự tin và mạnh dạn hơn.
Đối với bài tập làm việc cả lớp: thường là các dạng bài tập cần phải suy nghĩ, tôi luôn quan tâm đến tất cả các đối tượng HS. Tuyên dương những em Giỏi có câu trả lời đúng, có ý tưởng hay, các em Khá, TB nên học tập theo. Ngoài ra tôi còn động viên các em Giỏi, Khá nên mở rộng kiến thức nhiều hơn nữa bằng cách tìm đọc sách báo, thơ, truyện ngắn về thiếu nhi, tham gia dự thi giải Lê Quý Đôn
	4. Hiệu quả của SKKN:
Đa số các em thích học, lớp học sôi nổi hào hứng vì tôi luôn thay đổi hình thức học tập. Tiết học không khô khan mà rất nhẹ nhàng, thoải mái. Đa phần các em tiếp thu bài rất tốt, nắm vững kiến thức qua các bài tập. Tôi không áp đặt HS, mà ngược lại tôi luôn khuyến khích các em để các em mạnh dạn và tự tin hơn.
Qua khảo sát thực tế lớp học do tôi phụ trách tôi thấy kết quả sau khi vận dụng sáng kiến vào thực tế qua một thời gian ngắn kết quả có sự chuyển biến rõ rệt so với đầu năm học như sau:
THỜI GIAN
Giỏi
Khá 
Trung bình
Yếu
ĐẦU NĂM
0
3
12
8
CUỐI THÁNG 9 
0
5
11
7
Những nội dung Luyện từ và câu không chỉ được trình bày trong các bài Luyện từ và câu mà còn thể hiện qua các bài Chính tả và một số bài Tập làm văn. Điều này thể hiện quan điểm tích hợp của SGK. Từ Luyện từ và câu HS biết dùng từ, câu vận dụng vào làm văn. Câu văn đúng nhờ nắm được cấu trúc câu. Ngoài ra còn sử dụng dấu câu phù hợp. Làm văn hay nhờ có một số vốn từ được GV cung cấp thêm. Vì lẽ đó tôi thấy việc dạy của mình giúp cho HS rất nhiều điều bổ ích. 
Phần thứ ba:
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
1. Mặt tích cực và hạn chế:
a. Mặt tích cực:
- Lớp học nhẹ nhàng thoải mái học sinh tham gia tích cực các mặt hoạt động học tập do giáo viên tổ chức.
- Các em mạnh dạng, tích cực tham gia phát biểu, tiết học không khô khan nhàm chán.
- Những em nhút nhát, khả năng diễn đạt kém có điều kiện học tập khẳng định bản thân trong giao tiếp.
b. Mặt hạn chế:
- Những bài học đầu, học sinh còn e dè, chưa mạnh dạn vì thế giáo viên phải mất nhiều thời gian và phải làm việc nhiều.
2. Những bài học khi vận dụng sáng kiến kinh nghiệm:
Trên là các biện pháp giúp học sinh học tốt môn Luyện từ và câu ở lớp 2. Ngoài việc tạo điều kiện cho HS học và thực hành, GV còn phải rất khó khăn trong việc lựa chọn phương pháp phù hợp với đối tượng của HS lớp mình. Bản thân tôi luôn suy nghĩ, sáng tạo, tìm đủ mọi hình thức, mọi biện pháp để sao cho HS hứng thú học, tiếp thu kiến thức để áp dụng vào thực tiễn. Để đáp ứng được điều này đòi hỏi GV phải hết sức lưu ý, tạo điều kiện cho tất cả mọi thành viên trong lớp đều hoạt động, tham gia một cách tích cực. Tổ chức trò chơi học tập gây hứng thú cho HS để lớp học sinh động hấp dẫn, lôi cuốn các em tham gia học. Tuy nhiên không phải bài tập nào cũng có thể tổ chức trò chơi.
Thực tế qua việc dạy Luyện từ và câu ở lớp 2 theo chương trình mới, tôi thiết nghĩ sẽ có rất nhiều điều cần bổ sung. Tôi nghĩ các biện pháp mà tôi nêu trên sẽ giúp ích một phần không nhỏ cho các em HS ở lớp tôi.
Mong rằng bản thân tôi sẽ được học tập, trao đổi thêm những kinh nghiệm của các bạn đồng nghiệp để giúp cho việc học sinh được học tốt hơn môn Luyện từ và câu để đạt hiệu quả cao hơn.
Tài liệu tham khảo.
TT
Tên tác phẩm
Tên tác giả
Nhà xuất bản
1
Phương pháp dạy học môn Tiếng Việt ở Tiểu học
- Giáo trình đào tạo GV - TH hệ cao đẳng Sư phạm 12 + 2
Nhà xuất bản giáo dục
2
Sách giáo khoa Tiếng Việt 2
Nhà xuất bản giáo dục
3
Sách giáo viên Tiếng Việt 2
Nhà xuất bản giáo dục
Lương thịnh ngày 28 tháng 9 năm 2012
Phạm Thị Hiền
ĐÁNH GIÁ CỦA HỘI ĐỒNG KHOA HỌC TRƯỜNG
ĐÁNH GIÁ CỦA HỘI ĐỒNG KHOA HỌC CẤP TRÊN