Mối quan hệ giữa triết học và khoa học tự nhiên là gì?

Triết học và Khoa học có những điểm khác biệt mặc dù chúng có một số điểm chung. Các nhà khoa học hiếm khi chú ý đến các nghiên cứu triết học và tham gia vào nghiên cứ của họ. Mặt khác, những phát hiện khoa học trong các lĩnh vực như siêu hình học, vật lý lượng tử, thuyết tiến hóa, tâm lý học thực nghiệm, thuyết tương đối,…có ý nghĩa sâu sắc đối với nghiên cứu và tư duy triết học. Hãy cùng Luật Minh Khuê tìm hiểu thêm về chủ đề trên trong bài viết dưới đây nhé!

1. Tổng quan về triết học

1.1 Triết học là gì?

Triết học là hệ thống tri thức lý luận chung nhất của con người về thế giới, về vị trí, vai trò của con người trong thế giới ấy. Triết học nghiên cứu về các câu hỏi chung và cơ bản về sự tồn tại, kiến thức, giá trị, lý trí, tâm trí và ngôn ngữ. Những câu hỏi như vậy thường được đặt ra là vấn đề cần nghiên cứu hoặc giải quyết. Phương pháp triết học bao gồm đặt câu hỏi, thảo luận phê bình, lập luận hợp lý và trình bày có hệ thống.

 

1.2 Nguồn gốc ra đời của Triết học

Về nguồn gốc, triết học ra đời ở cả phương Đông và phương Tây từ khoảng thế kỷ VIII đến thế kỷ XI TCN, tại các quốc gia văn minh cổ đại như: Hy Lạp, Ấn Độ, Trung Quốc.

Ở phương Tây, khái niệm triết học lần đầu tiên xuất hiện tại Hy Lạp với tên gọi (philosophia) có nghĩa là “Love if wisdom” – “tình yêu đối với sự thông thái” bởi nhà tư tưởng Hy Lạp cổ địa mang tên Pythagoras. Với người Hy Lạp, triết học mang tính định hướng đồng thời cũng nhấn mạnh khát vọng tìm kiếm chân lý của con người.

Ở Trung Quốc, thuật ngữ triết học được bắt nguồn từ chữ triết và được hiểu là sự truy tìm bản chất của đối tượng, là trí tuệ, sự hiểu biết sâu sắc của con người. Còn tại Ấn Độ, darshanas (triết học) lại mang hàm ý là tri thức dựa trên lý trí, là con đường suy ngẫm để dẫn dắt con người đến với lẽ phải.

Tóm lại, ngay từ đầu, dù cho ở phương Đông hay phương Tây, triết học cũng đều là hoạt động tinh thần biểu hiện khả năng nhận thức, đánh giá của con người. Tồn tại với tư cách là một hình thái ý thức xã hội.

 

1.3 Đối tượng nghiên cứu của Triết học

Khái niệm đối tượng nghiên cứu của Triết học: Là những mối liên hệ chung nhất của sự vật, hiện thực khách quan, mối liên hệ giữa thế giới vật chất với những sự vật hiện tượng do con người tưởng tượng ra và được phản ánh trong các khái niệm, phạm trù của triết học. Chẳng hạn như: đối tượng nghiên cứu của toán học được Ăngghen nhận định là những quan hệ về hình học không gian, về số lượng của sự vật, hiện tượng trong thực tế khách quan hay đối tượng nghiên cứu của hóa học là sự phân giải, hóa học các hợp chất vô cơ, hữu cơ, là các hình thức vận động hóa học…Đối tượng của triết học sẽ có nội dung khác nhau dựa theo những thay đổi của tình hình thực tễ xã hội qua từng gia đoạn phát triển.

Những quan niệm về đối tượng trong lịch sử:

  • Thời kỳ cổ đại: Trong thời kỳ này, khối lượng tri thức của loài người về thế giới và về chính bản thân mình còn rất hạn chế. Tại Trung Quốc, tri thức triết học chủ yếu giải quyết các vấn đề về đạo đức, tôn giáo, chính trị – xã hội. Tất cả các quan điểm về con người, về xã hội (Khổng giáo, Đạo giáo, Lão giáo) đều mang màu sắc triết học sâu sắc. Ở Ấn Độ, triết học hòa quyện với tôn giáo. Còn tại Hy Lạp cổ đại, triết học gắn liền với những hiểu biết ban đầu của con người về tự nhiên. Chưa có sự phân chia giữa tri thức triết học với tri thức của các khoa học chuyên ngành. Triết học bao hàm tất tri thức của tất cả các lĩnh vực. Vì vậy mới có quan niệm sai lầm “triết học là khoa học của mọi khoa học”.
  • Thời kỳ trung cổ: Trung cổ là thời kỳ thống trị của Đạo Thiên Chúa, quyền lực của giáo hội bao trùm mọi lĩnh vực đời sống xã hội. Triết học trong giai đoạn này chỉ có nhiệm vụ lý giải, chứng minh cho sự tồn tại của thượng đế, đức chúa trời và sự đúng đắn của các giáo điều trong kinh thánh. Trong khuôn khổ tôn giáo, triết học phát triển một cách chậm chạm, khó khăn. Đặc biệt là đối tượng với tư tưởng triết học duy vật.
  • Nửa sau thế kỷ XV – XVIII: sự ra đời của các bộ môn khoa học chuyên ngành (khoa học thực nghiệm) phục vụ cho hoạt động sản xuất công nghiệp. Triết học lúc này gắn bó với khoa học tự nhiên, khoa học thực nghiệm. Đối tượng nghiên cứu của triết học là tìm ra bản chất của các sự vật, hiện tượng có khả năng thực nghiệm được. Đến thế kỷ XVII – XVIII, triết học duy vật phát triển mạnh mẽ. Đỉnh cao là chủ nghĩa duy vật Pháp với các đại biểu : Đidro, Henvetiuyt; Hà Lan với đại biểu Xpinoda; Anh với các đại biểu: Ph.Becon, T.Hopxo…
  • Đầu thế kỷ XIX: Mâu thuẫn giai cấp trở nên gay gắt hơn bao giờ hết khi pương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa phát triển mạnh mẽ ở nhiều quốc gia Tây Âu như Anh, Pháp, Ý, Hà Lan…Đồng thời sự phát triển của sản xuất tư bản chủ nghĩa kéo theo sự phát triển của khoa học tự nhiên. Trước yêu cầu cảu sự phát triển khoa học tự nhiên và sự đòi hỏi của cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản, triết học Mác ra đời. Đánh dấu bước ngoặt mới: chấm dứt quan niệm sai lầm về đối tượng nghiên cứu của triết học “triết học là khoa học của mọi khoa học” và tiếp tục giải quyết vấn đề mối quan hệ giữa tư duy và tồn tại, giữa ý thức và vật chất trên lập trường duy vật cũng như những quy luật chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy.

 

1.4 Vai trò của Triết học trong đời sống xã hội

 Vai trò thế giới quan và phương pháp luận của Triết học

Chúng ta cần hiểu rằng những vấn đề Triết học đặt ra và giải quyết trước hết là những vấn đề thuộc về thế giới quan. Đó là một trong các chức năng cơ bản của Triết học. Thế giới quan là toàn bộ những quan điểm, quan niệm của con người về thế giới xung quanh, về bản thân con người, về cuộc sống và vị trí của con người trong thế giới đó. Thế giới quan được hình thành và phát triển trong quá trình sinh sống và nhận thức của con người. Đến lượt mình, thế giới quan lại trở thành nhân tố định hướng cho con người tiếp tục quá trình nhận thức bản thân mình và đặc biệt từ đó con người xác định được thái độ, cách thức hoạt động và sinh sống của mình. Thế giới quan đúng đắn là tiền đề hình thành nhân sinh quan tiến bộ, tích cực. Thế giới quan thì có nhiều trình độ khác nhau: thế giới quan huyền thoại, thế giới quan tôn giáo, thế giới quan triết học….Triết học ra đời với tư cách là hệ thống lý luận chung nhất về thế giới quan, là hạt nhân lý luận của thế giới quan, đã làm cho thế giới quan phát triển lên một trình độ tự giác dựa trên cơ sở tổng kết kinh nghiệm thực tiễn và tri thức khoa học mang lại. Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm là cơ sở lý luận của hai thế giới quan cơ bản đối lập nhau đó là thế giới quan khoa học, duy vật và thế giới quan duy tâm, tôn giáo. Cuộc đấu tranh giữa các giai cấp, các lực lượng xã hội đối lập nhau. Chủ nghĩa duy vật là thế giới quan của giai cấp, của các lực lượng xã hội tiến bộ, cách mạng góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh vì sự tiến bộ xã hội. Trong lịch sử, chủ nghĩa duy vật đã đóng vai trò tích cực trong cuộc đấu tranh của chủ nô dân chủ chống lại chủ nô quý tộc ở Hy Lạp thời cổ đại, trong cuộc đấu tranh của giai cấp tư sản chống lại giai cấp quý tộc phong kiến ở các nước phương Tây thời cận đại. Ngược lại, chủ nghĩa duy tâm được sử dụng làm công cụ biện hộ về lý luận cho giai cấp thống trị lỗi thời, lạc hậu, phản động. Đó là chức năng của thế giới quan.

Chức năng phương pháp luận: Chúng ta biết tăng phương pháp luận là lý luận về phương pháp, là hệ thống các quan điểm, các nguyên tắc chỉ đạo con người trong việc tìm tòi, xây dựng, lựa chọn và vận dụng phương pháp trong nhận thức và trong thực tiễn. Phương pháp luận có nhiều cấp độ khác nhau, có phương pháp luận ngành, có phương pháp luận chung và phương pháp luận chung nhất. Phương pháp luận của Triết học chính là phương pháp luận chung nhất. Trong Triết học, thế giới quan và phương pháp luận không tách rời nhau, bất cứ lý luận triết học nào khi lý giải về thế giới xung quanh và về bản thân con người đồng thời cũng thể hiện một phương pháp luận nhất định chỉ đạo cho việc xây dựng và vận dụng phương pháp. Mỗi hệ thống triết học không chỉ là một thế giới quan nhất định mà còn là phương pháp luận chung nhất trong việc xem xét thế giới. Mỗi quan điểm triết học đồng thời là một nguyên tắc, phương pháp luận, là lý luận về phương pháp với tính cách là phương pháp luận chung nhất, triết học đóng vai trò định hướng cho con người trong quá tình tìm tòi, xây dựng lựa chọn và vận dụng các phương pháp trong nhận thức và hoạt động thực tiễn. Do đó, nó có ý nghĩa quyết định đối với sự thành bại trong hoạt động nhận thức và thực tiễn của con người.

Vai trò của Triết học đối với các khoa học cụ thể và đối với tư duy lý luận

Trong nền kinh tế toàn cầu hóa, bên cạnh giải quyết những vấn đề muôn thở, triết học còn giúp cho con người tìm ra lời giải đối với những vấn đề hoàn toàn mới, phát sinh trong quá trình toàn cầu hóa. Không chỉ giúp con người nhìn nhận đúng đắn về thế giới quan, nhờ vào triết học, con người còn có khả năng đánh giá những biến động đang diễn ra, gợi mở hướng giải quyết “lối thoát” cho vấn đề mà con người đang gặp phải trong bối cảnh toàn cầu hóa. Nói tóm lại, dù là trong quá khứ hay ở kỷ nguyên toàn cầu hóa, triết học vẫn giữ nguyên vị thế của mình ở phạm vi một dân tộc và cả nhân loại.

 

2. Khoa học tự nhiên

2.1 Khoa học tự nhiên là gì?

Khoa học tự nhiên là một nhánh của khoa học liên quan đến mô tả, dự đoán và hiểu biết về các hiện tượng tự nhiên dựa trên bằng chứng thực nghiệm từ quan sát và thử nghiệm. Khoa học tự nhiên liên quan đến các hiện tượng và đối tượng của tự nhiên với thế giới vật chất. Khoa học tự nhiên bao gồm hai nhánh chính là khoa học đời sống và khoa học vật lý. Trong đó khoa học vật lý lại được chia thành vật lý, hóa học, thiên văn và khoa học trái đất. Những ngành này có thể được chia thành các lĩnh vực chuyên ngành hơn được gọi là các lĩnh vực.

Khoa học tự nhiên là một trong những ngành học chính của sinh viên trên toàn thế giới. Nhánh khoa học tự nhiên này thường được gọi đơn giản là khoa học hay nghiên cứu khoa học. Trong suốt quá trình tồn tại, nhân loại hiện nay đã chứng kiến rất nhiều sự ra đời của những phát minh lớn về khoa học tự nhiên, chẳng hạn:

  • Đầu thế kỷ XVII, Newton đã tìm ra thuyết vạn vật hấp dẫn.
  • Giữa thế kỷ XVIII, Lô-mô-nô-xốp (người Nga) tìm ra định luật bảo toàn vật chất và năng lượng, cùng nhiều phát minh lớn về vật lí, hóa học.
  • Năm 1837, Puốc-kin-giơ (người Séc) khám phá ra bí mật về sự phát triển của thực vật và đời sống của các mô động vật. Ông trở thành người đầu tiên chứng minh rằng đời sống của mô sinh vật là sự phát triển của tế bào và sự phân bào.
  • Năm 1859, Đác-uyn (người Anh) nêu lên thuyết tiến hóa và di truyền, đập tan quan niệm về nguồn gốc thần thánh của sinh vật.

 

2.2 Khoa học tự nhiên gồm những ngành nào?

Mối quan hệ giữa triết học và khoa học tự nhiên là gì?

Nhóm ngành khoa học tự nhiên bao gồm nhiều ngành khoa học tự nhiên khác nhau bao gồm: Sinh học, Hóa học, Vật lý và Thiên văn học. Mỗi ngành có một đặc trưng và lĩnh vực tìm hiểu riêng. Cụ thể:

Sinh học

Lĩnh vực tập hợp các ngành học kiểm tra hiện tượng liên quan đến các sinh vật sống. Quy mô nghiên cứu của lĩnh vực này có thể bao gồm từ sinh lý học thành phần phụ cho đến hệ sinh thái phức tạp. Một số phát triển quan trọng trong sinh học là phát hiện ra di truyền học, tiến qua thông qua chọn lọc tự nhiên; các lý thuyết về mầm bệnh và việc áp dụng các kỹ thuật hóa học và vật lý ở cấp độ của các tế bào hoặc phân tử hữu cơ.

Ngày nay sinh học hiện đại được chia thành các phân ngành theo loại sinh vật và theo quy mô đang được nghiên cứu là sinh học phân tử nghiên cứu về hóa học cơ bản của sự sống trong khi sinh học tế bào là kiểm tra tế bào. Còn ở cấp độ cao hơn trong sinh học là giải phẫu và sinh lý học xem xét được các cấu trúc bên trong của một cơ thể sống. Đối tượng nghiên cứu và trực tiếp thực hiện các nghiên cứu này được gọi là nhà sinh vật học.

Hóa học

Lĩnh vực nghiên cứu khoa học về vật chất ở quy mô nguyên tử và phân tử. Các quá trình hóa học có thể được nghiên cứu trực tiếp trong phòng thí nghiệm, sử dụng một loạt các kỹ thuật để thao tác với các vật liệu cũng như hiểu biết về các quy trình cơ bản. Hóa học thường được gọi là “khoa học trung tâm” vì vai trò của nó trong việc kết nối các ngành khoa học tự nhiên khác.

Vật lý

Vật lý là hiện thân của nghiên cứu về các thành phần cơ bản của vũ trụ, các lực và tương tác mà chúng tác động lên nhau và kết quả được tạo ra bởi các tương tác này. Trong khi các ngành khoa học tự nhiên khác sử dụng và tuân thủ theo các nguyên tắc và luật đã được định ra trong từng lĩnh vực thì vật lý lại phụ thuộc nhiều vào toán học như là khung logic để xây dựng và định lượng các nguyên tắc.

Thiên văn học

Bộ môn này là khoa học về các thiên thể và hiện tượng có nguồn gốc bên ngoài bầu khí quyển của Trái đất. Đó chính là các hiện tượng tự nhiên. Vậy hiện tượng tự nhiên là gì? Có thể hiểu đơn giản là các hiện tượng xảy ra trong thế giới vật chất và cũng nhắc đến sự sống nói chung. Thiên văn học bao gồm kiểm tra, nghiên cứu và mô hình hóa các ngôi sao, hành tinh, sao chổi, thiên hà và vũ trụ. Các thông tin về những vấn đề này nghiên cứu này sẽ được các nhà thiên văn học thu thập bằng cách quan sát từ xa hoặc một số tái tạo trong phòng thí nghiệm có thể được thực hiện.

 

3. Mối quan hệ giữa triết học và khoa học tự nhiên

Mối quan hệ giữa triết học và khoa học tự nhiên là gì?

  • Triết học được khoa học tự nhiên cung cấp cho những tài liệu nhận thức về tự nhiên và mỗi lần có một phát minh vạch thời đại, ngay cả trong lĩnh vực khoa học tự nhiên, thì chủ nghĩa duy vật không tránh khỏi thay đổi hình thức của nó…
  • Triết học đã đi trước khoa học tự nhiên trên nhiều lĩnh vực, và bằng những tư tưởng đúng đắn, bằng những dự kiến thiên tài, triết học đã không những vạch đường cho khoa học tự nhiên tiến lên và giúp cho khoa học tự nhiên phương hướng và những công cụ nhận thức để khắc phục những khó khăn trở ngại vấp phải trên đường đi của mình.

Vừa rồi Luật Minh Khuê đã trình bày nội dung về Mối quan hệ giữa triết học và khoa học tự nhiên? Hy vọng đây sẽ là những thông tin hữu ích đối với quý bạn đọc. Xin chân thành cảm ơn!