Mầu Nhiệm Thánh Thể trong đời sống Giáo Hội

Tài liệu Mầu nhiệm Thánh Thể trong đời sống Giáo hội được phát triển bởi Ủy ban Giáo lý của Hội đồng Giám mục Công giáo Hoa Kỳ (USCCB). Tài liệu này đã được phê duyệt bởi toàn bộ cơ quan của USCCB tại Đại hội toàn quốc vào tháng 11 năm 2021 và được phép xuất bản

sssss

 

MẦU NHIỆM THÁNH THỂ TRONG ĐỜI SỐNG GIÁO HỘI

HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC CÔNG GIÁO HOA KỲ

 

Người dịch: Giuse Bùi Xuân Trường (Giáo xứ Kẻ Sặt)

 

Tài liệu Mầu nhiệm Thánh Thể trong đời sống Giáo hội được phát triển bởi Ủy ban Giáo lý của Hội đồng Giám mục Công giáo Hoa Kỳ (USCCB). Tài liệu này đã được phê duyệt bởi toàn bộ cơ quan của USCCB tại Đại hội toàn quốc vào tháng 11 năm 2021 và được phép xuất bản bởi người ký tên dưới đây.

Linh mục Michael J. K. Fuller
Tổng thư ký, USCCB

 
MẦU NHIỆM THÁNH THỂ TRONG ĐỜI SỐNG GIÁO HỘI

 

1. Vào ngày 27 tháng 3 năm 2020, tại thời điểm đại dịch mới bùng phát trên toàn cầu, Đức Thánh Cha Phanxicô đã bước đi một mình trong cơn mưa ở Quảng trường Thánh Phêrô trống trải để cầu nguyện cho một thế giới đang rơi vào khủng hoảng. “Đức tin”, ngài nói, “bắt đầu khi chúng ta biết mình cần được cứu độ. Chúng ta không tự mãn, chỉ tự mình thôi thì chúng ta sẽ bị chìm; chúng ta cần đến Chúa như những người hải hành xưa kia cần những vì sao.” [1] Gợi lại khoảnh khắc Chúa Giêsu ngủ trên thuyền khi cơn bão đang hoành hành (Mc 4, 35-41), Đức Thánh Cha nói: “Thiên Chúa tỉnh thức để đánh thức và làm sống lại đức tin Phục Sinh của chúng ta.” [2] Vào ngày đó, Đức Thánh Cha Phanxicô đã chủ sự nghi thức Cung nghinh và Chầu Thánh Thể để giúp chúng ta tập trung vào sự hiện diện của Chúa Kitô trong Bí tích này. Đức Thánh Cha đã nhắc nhở chúng ta rằng ngay cả trong thời kì của sóng gió và khủng hoảng, Chúa Giêsu đang hiện diện giữa chúng ta, hiện diện như cách mà năm xưa Ngài đã có mặt trên con thuyền ở Biển hồ Galilê.

2. Theo cách tương tự, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã nhắc nhớ cho chúng ta về sự hiện diện liên tục này khi ngài lặp lại những lời của Chúa Kitô: Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế (Mt 28, 20). Vị Giáo hoàng tuyên bố: “Lời hứa này của Đức Kitô không bao giờ thôi âm vang trong Giáo hội như là bí mật làm phong phú đời sống của Giáo Hội và là mạch nguồn hy vọng của Giáo hội. Cũng như ngày Phục Sinh, mỗi Chúa Nhật chẳng những là việc tưởng nhớ một biến cố quá khứ, mà còn là một cử hành sự hiện diện sống động của Đấng Phục Sinh giữa Dân của Người.” [3]

3. Chúng tôi nêu lên những lời đầy cảm hứng này của Thánh Gioan Phaolô II để rồi đưa ra những suy tư về tầm quan trọng của Bí tích Thánh Thể trong đời sống Giáo hội. Chúng tôi rất lưu tâm đến việc làm thế nào đại dịch đã buộc chúng ta phải xa cách nhau về thể lí và, trong một thời gian, phải theo dõi Thánh lễ trên màn hình tivi hoặc máy vi tính. Nhiều người trong số các tín hữu dường như đã được củng cố đức tin và lòng khao khát của họ đối với Bí tích Thánh Thể bởi sự xa cách lâu dài như vậy. Đồng thời, với sứ vụ mục tử, chúng tôi cảm thấy rằng những người khác, vì sống mà không có Thánh lễ quá lâu, có thể trở nên chán nản hoặc quen với lối sống thiếu đi Bí tích Thánh Thể. Theo nhiều cách, chúng ta vẫn sống trong thời đại dịch.

4. Là Kitô hữu, chúng ta biết rằng mình cần Đức Kitô hiện diện trong đời sống của chúng ta. Ngài là lương thực nuôi sống chúng ta như Ngài đã nhắc nhớ rằng: nếu các ông không ăn thịt và uống máu Con Người, các ông không có sự sống nơi mình (Ga 6, 53).

5. Chúa đồng hành với chúng ta bằng nhiều cách, nhưng không gì sâu xa bằng khi chúng ta gặp Người trong Bí tích Thánh Thể. Trên hành trình hướng tới sự sống vĩnh cửu, Chúa Kitô nuôi dưỡng chúng ta bằng chính thân mình của Ngài. Một lần nọ, khi được một người cho biết rằng cô ấy không còn quan tâm đến việc đi lễ hàng ngày nữa, Tôi tớ Chúa Dorothy Day đáp lại: “Chúng ta đi ăn trái của cây sự sống này bởi vì Chúa Giêsu đã bảo chúng ta làm như vậy…Ngài đã tự nhận lấy nhân tính của chúng ta để chúng ta có thể chia sẻ thần tính với Ngài. Chúng ta được nuôi dưỡng bởi Mình Ngài để chúng ta có thể trở thành những Kitô khác. Tôi tin điều này theo nghĩa đen, cũng như tôi tin rằng đứa trẻ được nuôi dưỡng bởi sữa từ bầu ngực của mẹ.” [4]

6. Tuy nhiên, chúng ta cũng biết rằng Ngài hiện diện với chúng ta theo cách liên kết chúng ta lại với nhau như một thân thể, khi chúng ta tuyên xưng bằng tiếng “Amen” để đáp lại lời mời gọi: Mình Thánh Chúa Kitô. Một lần nữa, chúng tôi nói lên những lời của vị Giáo hoàng Ba Lan kính yêu: “Để cho sự hiện diện này được công bố và sống một cách xứng hợp, thì việc môn đệ Chúa Kitô cầu nguyện riêng tư và tưởng niệm đến cái chết cùng Sự Phục Sinh của Chúa Kitô, một cách thầm kín trong lòng mình mà thôi cũng chưa đủ. Những ai lãnh nhận ân sủng từ Bí tích Rửa Tội không được cứu độ với tư cách cá nhân, nhưng với tư cách là phần tử của Thân Thể Mầu Nhiệm, trở thành thành viên của Dân Chúa.” [5]

7. Khi chúng tôi đón tiếp mọi người trở lại cử hành Thánh lễ chung, cần phải thừa nhận rằng không có tài liệu nào có thể kín múc hết huyền nhiệm của ơn ban là Bí tích Thánh Thể. Tuy vậy, vào những thời điểm khác nhau, thật chính đáng khi suy tư về những khía cạnh nhất định của huyền nhiệm ấy, phù hợp với các vấn đề cũng như thách thức đương đại để giúp chúng ta đánh giá sâu sắc hơn món quà của ân sủng đã được ban cho chúng ta. Vào thời điểm cụ thể này đối với Giáo hội ở Hoa Kỳ, đang đối diện nhiều thách đố, chúng tôi muốn suy ngẫm về sự tặng ban chính mình của Đức Kitô trong Bí tích Thánh Thể và phản ứng của chúng ta đối với hồng ân đó.

 

I. HỒNG ÂN

8. Trong Thánh Lễ Tiệc Ly được cử hành vào Thứ Năm Tuần Thánh, linh mục dâng lời cầu nguyện:

 

Vì Ngài là Linh mục đích thực và vĩnh cửu,
đã thiết lập hy tế cho đến muôn đời
và là người đầu tiên tự hiến mình như Của lễ hy sinh cứu độ,
truyền lệnh cho chúng con dâng của lễ này để tưởng nhớ đến Ngài.
Khi chúng con ăn Mình Ngài đã được hiến tế vì chúng con,
chúng con được trở nên mạnh mẽ,
và, khi chúng con uống Máu của Ngài đã đổ ra cho chúng con,
chúng con được trở nên thanh sạch.

Những lời của phụng vụ trong đêm mà Giáo hội tưởng nhớ việc thiết lập Bí tích Thánh Thể nói với chúng ta về Thánh lễ như là sự tái hiện hy tế độc nhất của Đức Kitô trên Thập giá, việc đón nhận Chúa Kitô thực sự hiện diện trong Bí tích Thánh Thể, và những tác động kỳ diệu của sự hiệp thông nơi những người nhận lãnh hồng ân này. [6]

9. Sứ mệnh trong suốt cuộc đời của Chúa trên trần thế là làm sáng danh Chúa Cha bằng cách dẫn chúng ta đến sự cứu rỗi. Trong Kinh Tin Kính Nicêa được đọc lên khi cử hành Thánh Lễ, chúng ta tuyên xưng “Vì loài người chúng ta và để cứu độ chúng ta, Người đã từ trời xuống thế; bởi phép Đức Chúa Thánh Thần, Người đã nhập thể trong lòng Trinh Nữ Maria, và đã làm người.” Sự cứu rỗi được ban tặng trong Sự Sống, Sự Chết và Sự Phục Sinh của Đức Kitô không gì hơn là chia sẻ sự sống của Thiên Chúa, trong tình yêu hiệp thông giữa Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Chẳng còn món quà nào lớn hơn mà Thiên Chúa có thể ban cho chúng ta. Trong Đức Kitô, chúng ta là những người được thông phần bản tính Thiên Chúa (2 Pr 1, 4). Các Giáo phụ gọi sự tham dự vào đời sống thần linh này là “thần hóa.” Con Thiên Chúa vĩnh cửu đã làm cho điều này khả dĩ bằng cách trở thành con người và hợp nhất nhân loại nơi nhân tính thánh thiêng của Ngài. Thánh Augustinô giải thích, “Đấng tạo thành con người đã trở thành người, để con người có thể nhận lãnh Thiên Chúa.” [7] Trên thực tế, Đức Thánh Cha Phanxicô nhắc nhở chúng ta rằng “trong hình bánh của Bí tích Thánh Thể, ‘cả sáng tạo hướng đến việc thần hoá, đến các tiệc thánh, đến sự kết hợp với chính Đấng Tạo Hoá.’” [8]

 

A) Hy tế của Đức Kitô

10. Để bắt đầu thấu hiểu hồng ân to lớn do Đức Kitô ban tặng qua sự Nhập thể của Ngài, Sự Chết và Sự Phục Sinh, món quà được hiện diện cho chúng ta trong Bí tích Thánh Thể, trước hết chúng ta phải nhận ra sự xa lánh sâu sắc biết bao của chúng ta khỏi Nguồn mạch của mọi sự sống do hậu quả của tội lỗi. Chúng ta có nhiều kinh nghiệm về những điều xấu xa, nhưng rất nhiều người trong chúng ta phủ nhận nguyên nhân của phần lớn những điều xấu xa đó – sự ích kỉ của chính chúng ta, tội lỗi của chính chúng ta. Như Thánh Gioan đã viết trong lá thư đầu tiên của mình, Nếu chúng ta nói là chúng ta không có tội, chúng ta tự lừa dối mình, và sự thật không ở trong chúng ta (1 Ga 1, 8).

11. Tội lỗi là sự xúc phạm đến Thiên Chúa, là sự thất bại trong hành động yêu Chúa và anh chị em mình, làm tổn thương bản chất con người và tình liên đới nhân loại. [9] Những khả năng, tài năng và hồng ân mà chúng ta đã nhận lãnh từ Thiên Chúa là để sử dụng cho mục tích tốt – không phải là thứ tốt lành giả tạo và hão huyền mà chúng ta tự lấy mình là trung tâm với ước muốn tạo ra cho chính mình, nhưng là điều thiện hảo thật sự tôn vinh Cha nhân lành và được hướng đến vì lợi ích của người khác và cuối cùng, cũng trở thành điều thiện cho chúng ta. Khi chúng ta lạm dụng những ơn ban của Tạo Hóa, khi ích kỷ tập trung vào bản thân, chúng ta chọn con đường của nết xấu thay vì con đường của đức hạnh. Tính tự cho mình là trung tâm này là một di sản thừa kế từ sự Sa ngã của nguyên tổ chúng ta. Không có ân sủng của Đức Kitô được lãnh nhận qua Bí tích Rửa Tội, được củng cố trong Bí tích Thêm Sức, và được nuôi dưỡng bằng Bí tích Thánh Thể, sự ích kỷ này thống trị chúng ta. [11]

12. Tuy nhiên, trong Đức Kitô, những gì đã mất do tội lỗi đã được phục hồi và đổi mới một cách kỳ diệu bởi hơn nữa ân sủng. [12] Chúa Giêsu, Ađam mới, [13] đã “chịu đóng đinh thời quan Phongxiô Philatô,” dâng chính mình làm của lễ để chúng ta có thể nhận lại gia nghiệp đã bị đánh mất bởi tội lỗi. Bằng cách tự do hiến mạng sống mình trên Thập giá, Chúa Kitô cho chúng ta trở thành con cái Thiên Chúa (Ga 1, 12) và thừa hưởng Vương quốc của Ngài. [14] Thánh Phêrô nhắc nhở rằng, tội lỗi của chúng ta, chính Người đã mang vào thân thể mà đưa lên cây thập giá, để một khi đã chết đối với tội, chúng ta sống cuộc đời công chính. Vì chính Người phải mang những vết thương mà anh em đã được chữa lành (1 Pr 2, 24).

13. Trong Bữa Tiệc Ly, kỉ niệm Lễ Vượt Qua, Chúa Giêsu khẳng định dứt khoát rằng cuộc tử nạn của Ngài, được tự do bao bọc bởi tình yêu, là của lễ: Cũng trong bữa ăn, Đức Giêsu cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, rồi bẻ ra, trao cho môn đệ và nói: “Anh em cầm lấy mà ăn, đây là mình Thầy.” Rồi Người cầm lấy chén, dâng lời tạ ơn, trao cho các môn đệ và nói: “Tất cả anh em hãy uống chén này, vì đây là máu Thầy, máu Giao Ước, đổ ra cho muôn người được tha tội” (Mt 26, 26-28). Qua những lời nói và cử chỉ trong Bữa Tiệc Ly, Chúa Giêsu làm rõ thêm rằng vì yêu chúng ta, Ngài được tự do hy sinh mạng sống chính mình để tha tội cho chúng ta. Khi làm như vậy, Ngài vừa là tư tế dâng của lễ, vừa là chính của lễ được dâng hiến. Với tư cách là tư tế, Đức Giêsu đang dâng của lễ cho Thiên Chúa là Cha, một của lễ được báo trước bằng việc dâng bánh và rượu bởi Menkixêđê, tư tế của Thiên Chúa Tối Cao (St 14, 18; x. Tv 110, 4; Dt 5-7). Tiên liệu cuộc Khổ nạn của Ngài trong khi thiết lập Bí tích Thánh Thể, Chúa Kitô đã chỉ ra những hình thức mà sự tự hiến của Ngài sẽ được thể hiện một cách bí tích cho chúng ta tới tận cùng của thời gian.

14. Điều quan trọng là tại sao chúng ta hiểu Thánh Thể như một hy lễ? Đó là bởi tất cả những điều Chúa Giêsu đã làm cho sự cứu rỗi nhân loại được thể hiện trong việc cử hành Bí tích Thánh Thể, bao gồm cả cái chết hy sinh và Sự Phục Sinh của Ngài. Sự hiến tế chính mình của Đức Kitô dâng lên Chúa Cha có hiệu lực và có tính cứu độ vì tình yêu cao cả mà Ngài đã đổ máu của mình ra làm giá chuộc chúng ta, và đã dâng chính mình cho Chúa Cha nhân danh chúng ta. [15] Máu của Ngài, đổ ra cho chúng ta, là dấu chỉ vĩnh cửu của tình yêu đó. Như một sự tưởng niệm, Bí tích Thánh Thể không phải là một hy tế khác, nhưng là sự tái trình bày hiến tế của Đức Kitô, nhờ đó chúng ta được hòa giải với Chúa Cha. [16] Đó là con đường mà chúng ta đang được dẫn vào sự dâng hiến hoàn hảo của tình yêu Chúa Giêsu, để sự hiến dâng của Ngài trở thành hy lễ của Giáo hội. [17] Như Đức Biển Đức XVI đã viết,

 

Việc cử hành tưởng niệm hồng ân tuyệt hảo của Người không cốt ở việc lập lại cách đơn thuần Bữa Tiệc Ly, nhưng là ở chính Bí tích Thánh Thể, điều mới mẻ triệt để của phụng tự Kitô giáo. Chúa Giêsu để lại cho chúng ta sứ vụ bước vào “giờ” của Người: “Bí tích Thánh Thể đưa chúng ta vào hành vi dâng hiến của Chúa Giêsu. Chúng ta không chỉ lãnh nhận Ngôi Lời nhập thể cách thụ động, nhưng chúng ta còn được tích cực lôi cuốn vào sự tự hiến của Người” [18]

15. Bí tích Thánh Thể là bữa tiệc hy sinh, “yến tiệc thiêng liêng của sự hiệp thông trong Mình và Máu Chúa.” [19] Những hình thái căn bản của nó được tìm thấy trong việc cử hành Lễ Vượt Qua của người Do Thái, bao gồm cả một bữa tiệc và một hy lễ. Bữa ăn Vượt Qua được cử hành để tưởng nhớ biến cố Xuất hành, khi dân Ítraen được chỉ định phải sát tế một con chiên cho Đức Chúa và đánh dấu trên cửa nhà của họ bằng máu chiên, để thiên thần tàn sát sẽ đi qua nhà của họ mà không hề hấn gì. Điều này là dấu chỉ của một dân tộc được tách biệt và được Chúa chọn làm dân riêng. Sau đó, mỗi gia đình ăn thịt chiên với bánh không men như một lời nhắc nhở về sự vội vàng khi dân Ítraen chuẩn bị cho việc rời khỏi Ai Cập và kèm theo những loại thảo mộc có vị đắng như một lời nhắc nhở về sự giải thoát họ khỏi thân phận nô lệ. Trong Bữa Tiệc Ly, Chúa Giêsu tự tỏ mình là Chiên Vượt Qua (“Đây Chiên Thiên Chúa”) mà sự hiến tế mang lại sự giải thoát khỏi cảnh nô lệ cho tội lỗi và máu của Ngài đánh dấu một dân tộc mới thuộc về Thiên Chúa. Tất cả các của lễ trong Cựu Ước đã định hình trước và tìm thấy sự kiện toàn của chúng trong hy tế hoàn hảo duy nhất của Chúa Giêsu.

16. Công nghiệp cứu độ của Chúa Giêsu Kitô, đã làm ứng nghiệm điều đã được loan báo trong hình tượng của Lễ Vượt Qua, nay được tái hiện trong việc cử hành Bí tích Thánh Thể. Bí tích Thánh Thể “trình bày hy tế độc nhất của Đức Kitô Cứu Thế.” [20] Như Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã dạy: “Giáo Hội liên tục sống nhờ hy tế cứu độ, và đạt đến hy tế đó không phải bằng một kỷ niệm đơn thuần đầy niềm tin mà thôi, nhưng còn bằng một tiếp xúc hiện tại, vì hy tế này trở nên hiện diện, hiện diện luôn mãi cách bí tích, trong mọi cộng đoàn hiến dâng nó, qua tay của thừa tác viên được thánh hiến.” [21]

17. Cuối cùng, Tiệc Thánh này cũng là việc thông phần vào sự thờ phượng trên Thiên đàng, trong và qua Chúa Kitô, bởi các thiên thần và các thánh. Đức Biển Đức XVI giải thích rằng mọi cử hành Thánh Thể hoàn thành một cách bí tích sự tập hợp cánh chung của Dân Chúa. Đối với chúng ta, bữa tiệc Thánh Thể là một sự nếm trải yến tiệc cuối cùng đã được các tiên tri báo trước (x. Is 25, 6-9) và được mô tả trong Tân Ước là “hôn lễ Con Chiên” (Kh 19, 7-9), được cử hành trong niềm vui hiệp thông của chư thánh. [22]

 

B) Sự hiện diện thực sự của Đức Kitô

18. Ngay từ thuở sơ khai, Hội Thánh đã tin và cử hành theo lời dạy của chính Chúa Giêsu: Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết, vì thịt tôi thật là của ăn, và máu tôi thật là của uống. Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì ở lại trong tôi, và tôi ở lại trong người ấy (Ga 6, 54-56). Đây không phải là “bánh và rượu thông thường” mà chúng ta lãnh nhận trong Bí tích Thánh Thể, nhưng là Mình và Máu của Chúa Kitô, Đấng đã đến để nuôi dưỡng và biến đổi chúng ta, để phục hồi mối tương quan của chúng ta với Thiên Chúa và với nhau. [23]

19. Trong Bí tích Thánh Thể, với con mắt đức tin, chúng ta nhìn thấy trước mặt chúng ta Đức Giêsu Kitô, Đấng trong biến cố Nhập thể đã trở nên người phàm (Ga 1, 14) và Đấng trong Mầu nhiệm Vượt qua đã tự hiến vì chúng ta (Tt 2, 14), bằng lòng cho đến nỗi chết trên cây thập tự (Pl 2, 8). Thánh Gioan Kim Khẩu đã giảng rằng khi ta nhìn thấy Mình Thánh của Đức Kitô “đặt trước mặt ta [trên bàn thờ], hãy nói với chính mình: Bởi vì Mình Thánh này, tôi không còn là bụi đất, không còn là tù nhân, nhưng được tự do: vì điều này, tôi hi vọng vào thiên đàng, và nhận được điều thiện hảo từ nơi đó, cùng sự bất tử, với các thiên thần, [và sự gần gũi] với Đức Kitô.” [24]

20. Làm sao Chúa Giêsu Kitô có thể hiện diện thực sự trong thứ vẫn có vẻ là bánh và rượu? Bên trong hành động phụng vụ được gọi là khẩn cầu, giám mục hoặc linh mục, nhân danh Chúa Giêsu Kitô, kêu cầu Chúa Cha ban Thánh Thần xuống để biến bánh và rượu thành Mình và Máu của Đức Kitô, và sự biến đổi này xảy ra thông qua quyền lực phát xuất từ việc lặp lại những lời của Chúa Kitô được tuyên bố bởi chủ tế. [25]

21. Thực tế là trong Bí tích Thánh Thể, bánh và rượu trở thành Mình và Máu, Linh hồn và Thần tính của Đức Kitô không ngừng xuất hiện như bánh và rượu đối với năm giác quan của chúng ta là một trong những mầu nhiệm trung tâm của đức tin Công giáo. Đức tin này là một cánh cửa mà qua đó chúng ta, giống như các thánh và các nhà thần bí trước đây, có thể đi vào nhận thức sâu sắc hơn về lòng thương xót và tình yêu được biểu lộ trong và qua sự hiện diện bí tích của Đức Kitô ở giữa chúng ta. Trong khi thực tại được nhìn thấy bằng con mắt thể lí, một thực tại khác được nhìn nhận qua con mắt của đức tin. Sự hiện diện thực sự, chân thực và liên tục của Chúa Kitô trong Bí tích Thánh Thể là thực tại sâu xa nhất của bí tích. “Sự biến đổi huyền nhiệm này được Hội Thánh đặt tên cách rất xứng hợp là biến đổi bản thể.” [26] Mặc dù Đức Kitô hiện diện với chúng ta trong nhiều cách thức trong phụng vụ, kể cả trong khi nhóm họp, qua thừa tác viên chủ sự, và lời được công bố, Giáo hội cũng khẳng định rõ ràng rằng “phương thức hiện diện của Đức Kitô dưới các yếu tố của Thánh Thể là duy nhất.” [27] Như Thánh Phaolô VI đã viết, “Sự hiện diện này được gọi là ‘thực’ không loại trừ ý niệm rằng những điều khác cũng là ‘thực’, nhưng là để chỉ ra sự siêu việt của sự hiện diện ấy, bởi vì nó là quan trọng và nhờ đó, Chúa Kitô hiện diện toàn bộ và toàn thể, với thiên tính và nhân tính.” [28] Trong sự tái hiện cách bí tích của hy lễ này, Đức Kitô không giữ lại gì, nhưng hiến dâng chính mình, toàn bộ và toàn thể. Việc sử dụng từ “liên tục” để nhấn mạnh sự hiện diện duy nhất của Chúa Kitô trong Bí tích Thánh Thể là nhằm truyền đạt toàn bộ hồng ân mà Ngài dành tặng cho chúng ta.

22. Khi Thánh Thể được phân phát và thừa tác viên công bố, “Mình Thánh Chúa Kitô”, chúng ta không chỉ nhìn vào những gì hữu hình trước mắt chúng ta, nhưng nhìn vào những gì bánh đã biến thành bởi những lời của Đức Kitô qua quyền năng của Chúa Thánh Thần – Thân Thể của Đức Kitô. [29] Lời đáp “Amen” của người lãnh nhận là một cách tuyên xưng đức tin vào sự Hiện diện thực sự của Đức Kitô và phản ánh cuộc gặp gỡ cá nhân thân mật với Ngài, thông qua hành động rước lễ.

23. Niềm tin vững chắc của Giáo hội vào sự Hiện diện thực sự của Đức Kitô được phản ánh trong sự thờ phượng mà chúng ta dâng Mình Thánh Chúa bằng nhiều cách khác nhau, bao gồm Cung nghinh, Thờ lạy, và Chầu Thánh Thể; Kiệu Thánh Thể; và Hai tư giờ Tận hiến. Ngoài ra, các hoạt động cúi đầu cung kính trước Thánh Thể được đặt trong nhà tạm, cúi đầu trước khi rước lễ, và không ăn uống trong ít nhất một giờ trước khi rước lễ là những biểu hiện rõ ràng của đức tin về Thánh Thể của Giáo Hội. [30]

 

C) Hiệp thông với Chúa Kitô và Hội Thánh

24. Khi chúng ta rước lễ, Chúa Kitô đang hiến mình cho chúng ta. Ngài đến với chúng ta với tất cả sự khiêm nhường, như khi Ngài đến với chúng ta trong biến cố Nhập thể, để chúng ta đón nhận Ngài và nên một với Ngài. Chúa Kitô tự hiến chính mình cho chúng ta để chúng ta có thể tiếp tục con đường lữ hành hướng tới sự sống cùng Ngài trong sự viên mãn của Nước Thiên Chúa. Nhà thần học Chính thống giáo thế kỷ mười bốn Nicholas Cabasilas đã mô tả bí tích này bằng cách nói, “không giống như bất kỳ bí tích nào khác, huyền nhiệm [của Thánh Thể] hoàn hảo đến mức đưa chúng ta đến đỉnh cao của mọi điều tốt đẹp: đây là mục tiêu cuối cùng ước muốn của mọi con người, bởi vì ở đây chúng ta đạt được Thiên Chúa và Thiên Chúa kết hợp với chúng ta trong sự liên đới hoàn hảo nhất.” [31] Qua Bí tích này, Giáo hội lữ hành được nuôi dưỡng, đào sâu sự hiệp thông của mình với Thiên Chúa Ba Ngôi và sau đó là với nhau. [32]

25. Bí tích Thánh Thể được gọi chính xác là Tiệc Thánh bởi vì, bằng cách đặt chúng ta hiệp thông mật thiết với hy tế của Chúa Kitô, chúng ta được kết hợp mật thiết với Ngài và, qua Ngài, với nhau. Thật vậy, Bí tích Thánh Thể được gọi là Tiệc Thánh bởi vì nó là “dấu hiệu hữu hiệu và là nguyên nhân cao cả của sự hiệp thông trong sự sống thiêng liêng và sự hiệp nhất của Dân Chúa, nhờ đó Giáo hội được duy trì.” [33] Làm thế nào chúng ta có thể hiểu điều này? Tin Mừng Gioan kể lại rằng, khi Chúa Giêsu chết trên thập giá, máu cùng nước chảy ra (Ga 19, 34), tượng trưng cho Phép Thanh Tẩy và Thánh Thể. Công đồng Vatican II dạy, “Nguồn gốc và sự phát triển của Giáo hội được tượng trưng bằng máu và nước chảy ra từ cạnh sườn của Chúa Giêsu bị đóng đinh,” [34] và rằng “vì chính từ cạnh sườn Chúa Kitô chịu chết trên thập giá, đã phát sinh bí tích nhiệm lạ là Giáo Hội.” [35] Trong hình ảnh này từ Phúc âm Gioan, chúng ta thấy rằng Giáo hội, Hiền thê của Con Chiên, được sinh ra từ của lễ tình yêu của Chúa Kitô trong sự hiến thân của Người trên thập giá. Bí tích Thánh Thể tái hiện hy tế này để chúng ta được đặt trong sự hiệp thông và với tình yêu thiêng liêng tuôn chảy từ đó. Chúng ta được đặt trong sự hiệp thông với nhau qua tình yêu đã được ban cho chúng ta. Đó là lý do tại sao chúng ta có thể nói, “Bí tích Thánh Thể làm nên Giáo hội.” [36]
 
26. Trước tiên, chúng ta được hợp nhất vào Thân Thể của Đức Kitô, là Giáo hội, thông qua nước của Bí tích Rửa Tội. [37] Tuy nhiên, phép Rửa Tội, giống như các bí tích khác, được đặt để quy hướng về Thánh Thể. [38] Công đồng Vatican II dạy, cả những Bí Tích khác cũng như các thừa tác vụ trong Giáo Hội và các hoạt động tông đồ đều gắn liền với Bí Tích Thánh Thể và qui hướng về đó. Thật vậy, Phép Thánh Thể Chí Thánh chứa đựng tất cả của cải thiêng liêng của Giáo Hội, đó chính là Chúa Kitô; Người là mầu nhiệm Phục Sinh của chúng ta; Người là Bánh Hằng Sống, ban sự sống cho nhân loại bằng chính Thịt của Người, Thịt đã được sống động nhờ Thánh Thần và làm cho người ta được sống. Như thế, Người mời gọi và dẫn đưa con người hiến dâng chính mình, dâng những vất vả của mình và mọi tạo vật làm một với Người.

Bởi vậy, Phép Thánh Thể là nguồn mạch và tuyệt đỉnh của toàn thể công việc rao giảng Phúc Âm; vì người dự tòng được dẫn đưa dần dần đến việc tham dự Phép Thánh Thể; còn các tín hữu, những người đã mang ấn tín Rửa Tội và Thêm Sức, sẽ được kết hợp trọn vẹn với Thân Thể Chúa Kitô nhờ rước Thánh Thể. [39]

Đó là lý do tại sao Công đồng gọi hy tế Thánh Thể là “nguồn gốc và chóp đỉnh của đời sống Kitô hữu.” [40]

27. Thánh Phaolô nhấn mạnh rằng sự hiệp thông này không chỉ tồn tại giữa chúng ta, mà còn với những người thời trước chúng ta. Khi nói với Hội thánh tại Côrintô, thánh nhân ca ngợi họ vì đã nắm giữ các truyền thống tôi đã để lại cho anh em (1 Cr 11, 2). Sau đó, ngài nêu bật Bí tích Thánh Thể như một truyền thống thiêng liêng được Đức Kitô truyền lại cho các tông đồ, và bây giờ chúng ta chia sẻ: điều tôi đã lãnh nhận từ nơi Chúa, tôi xin truyền lại cho anh em (1 Cr 11, 23). Trong mỗi Thánh lễ, chúng ta hiệp nhất với tất cả người nam và người nữ thánh thiện, chư thánh, là những người tới trước chúng ta.

28. Luật buộc tham dự Thánh lễ vào mỗi Chúa nhật, ngày của Chúa, ngày mà chúng ta tưởng niệm Sự Phục Sinh của Chúa Giêsu, và vào các Lễ buộc khác, là một biểu hiện quan trọng của sự hiệp nhất của chúng ta với tư cách là chi thể của Nhiệm thể Chúa Kitô, là Giáo hội. [41] Đó cũng là một biểu hiện của chân lý rằng chúng ta hoàn toàn phụ thuộc vào Thiên Chúa và ân sủng của Ngài. Một chỉ dẫn của thế kỷ thứ ba về đời sống của Giáo hội chỉ ra một trong những hậu quả của việc cố ý vắng mặt trong Thánh lễ: “Đừng ai tước đoạt Giáo hội bằng cách xa lánh; nếu họ làm vậy, họ tước đoạt Thân Thể Đức Kitô từ một trong những chi thể của nó!” [42] Thánh Gioan Phaolô II, viết về Chúa nhật là “một ngày ở ngay chính cốt lõi của đời sống Kitô hữu”, hơn nữa ngài khẳng định “Thời gian được hiến cho Chúa Kitô sẽ không bao giờ là một thời gian bị mất đi, mà là một thời gian chiếm hữu, nhờ đó, các mối liên hệ của chúng ta, đúng hơn cả đời sống của chúng ta càng trở nên nhân bản thực sự hơn nữa.” [43] Chúng ta đã được tái sinh trong Bí tích Rửa Tội và được nuôi dưỡng bằng Bí tích Thánh Thể để chúng ta sống hiệp thông với Thiên Chúa và với nhau, không chỉ hiện tại mà còn trong sự viên mãn của Nước Trời. Thờ phượng Chúa trên vào các Chúa nhật không chỉ là việc tuân thủ một quy tắc mà là sự hoàn thiện bản tính của chúng ta, vì chúng ta là chi thể của Thân Thể Đức Kitô. Tham dự Thánh lễ là một hành động yêu thương.

II. LỜI ĐÁP TRẢ CỦA CHÚNG TA

29. Trong Kinh tiền tụng chung thứ tư của Sách lễ Rôma, linh mục cầu nguyện những điều sau:

Tuy Chúa không cần chúng con ca tụng, nhưng việc chúng con cảm tạ Chúa lại là một hồng ân Chúa ban, vì những lời chúng con ca tụng chẳng thêm gì cho Chúa, nhưng đem lại cho chúng con ơn cứu độ…

Những lời này nói về ân sủng của Thiên Chúa, hồng ân được trao ban một cách tự do, gợi hứng cho chúng ta để cảm tạ và thờ phượng Ngài, giúp chúng ta biến đổi trở nên giống Chúa Kitô, giúp chúng ta lãnh nhận ơn tha thứ khi chúng ta phạm tội, và thúc đẩy chúng ta ra đi và làm chứng cho Đức Kitô trong thế giới.

 

A) Hy lễ tạ ơn và Thờ phượng

30. Được thánh hóa nhờ hồng ân Thánh Thể và tràn đầy đức tin, hy vọng và bác ái, các tín hữu được kêu gọi để đáp lại ơn ban này. Thật vậy, một cách tự nhiên chúng ta cảm tạ Chúa vì tất cả những gì Ngài đã ban cho chúng ta. Biết lấy chi đền đáp CHÚA bây giờ, vì mọi ơn lành Người đã ban cho? Tôi xin nâng chén mừng ơn cứu độ và kêu cầu thánh danh ĐỨC CHÚA (Tv 116, 12-13). Từ “Thánh Thể” nghĩa đen có nghĩa là “tạ ơn.” Ngay cả cách cảm tạ của chúng ta cũng đến từ Thiên Chúa, vì chúng ta làm như vậy bằng cách làm theo mệnh lệnh của Chúa: hãy làm việc này, mà tưởng nhớ đến Thầy (Lc 22, 19).

31. Công Đồng Vaticano II đã dạy rằng, để tạ ơn một cách đúng đắn trong việc cử hành Thánh lễ, chúng ta nên “tham gia đầy đủ, có ý thức và tích cực vào việc cử hành phụng vụ.” [44] Chúng ta cần phải ý thức về món quà mà chúng ta đã nhận được, một món quà không gì khác hơn là chính Chúa trong hành động tự hiến của mình. Chúng ta trở nên ý thức về món quà này khi chúng ta tích cực thu hút tâm trí của mình, trái tim và thân xác cho mọi phần của phụng vụ, để cho Thiên Chúa qua lời nói, hành động, cử chỉ, và cả những khoảnh khắc im lặng nói chuyện với chúng ta. Chúng ta tham gia nhiệt thành và có ý thức bằng cách hoàn toàn chú ý đến những từ được công bố trong lời cầu nguyện và Kinh Thánh, ngay cả khi chúng ta đã nghe chúng hàng trăm lần trước đây. Chúng ta cũng làm như vậy bằng cách lắng nghe bài giảng và suy ngẫm về việc Chúa có thể nói với chúng ta như thế nào qua thừa tác viên được phong chức của Ngài. Chúng ta đang tích cực tạ ơn khi chúng ta tham gia hát và đáp ca; khi chúng ta quỳ, đứng, và ngồi; và khi chúng ta chú ý đến các Mùa Phụng vụ trong đó toàn bộ lịch sử về những gì Thiên Chúa đã làm cho chúng ta, trong và qua Con của Ngài, được tỏ bày cho chúng ta.

32. Tâm tình tạ ơn thôi thúc chúng ta cảm tạ và thờ phượng Thiên Chúa khi cử hành Bí tích Thánh Thể cần được nuôi dưỡng và làm phong phú bởi vẻ đẹp của chính hoạt động phụng vụ. Giám mục và các linh mục có nhiệm vụ cụ thể là đảm bảo rằng Thánh lễ được cử hành theo cách thức phù hợp với sự thiêng liêng của thực tại đang diễn ra. Như Đức Thánh Cha Phanxicô gần đây đã gửi thư cho các giám mục trên thế giới, “tôi cũng xin anh em cẩn trọng để bảo đảm là từng nghi lễ phụng vụ phải được cử hành cách trang nghiêm và theo đúng các sách phụng vụ được ban hành sau Công đồng Vaticanô II, tránh những kiểu cách lệch lạc dễ đưa đến lạm dụng.” [45] Các vị chủ tế của Thánh Lễ phải có sự hiểu biết cầu nguyện về các sách phụng vụ, cũng như các Lễ và các Mùa, và trung thành với các bản văn và câu chữ được ấn định bởi Giáo hội. [46] Làm như vậy, họ sẽ dẫn dắt dân chúng sâu sắc và cung kính hơn vào cuộc trao đổi vốn là cuộc đối thoại của Chúa Cha và Chúa Con trong Chúa Thánh Thần. [47]

33. Tâm tình tạ ơn của chúng ta cũng được bày tỏ trong việc chúng ta thờ phượng Mình Thánh Chúa ngoài Thánh lễ. Tất cả các hình thức thờ phượng này về bản chất đều liên quan đến việc cử hành Thánh Thể.

Trong Bí tích Thánh Thể, Con Thiên Chúa đến thăm chúng ta và khao khát trở nên một với chúng ta; Chầu Thánh Thể đơn giản là hiệu quả tự nhiên của cử hành Thánh Thể, và chính Thánh lễ là hành vi thờ phượng tối cao của Hội Thánh. Rước Lễ là thờ lạy Đấng chúng ta đón nhận. Duy chỉ bằng cách này chúng ta trở nên một với Người, và một cách nào đó được ban cho nếm hưởng trước vẻ đẹp của phụng vụ thiên quốc. [48]

Chúng tôi vui mừng về số lượng ngày càng tăng của các tín hữu cầu nguyện trong các buổi Chầu trước Thánh Thể, một minh chứng của niềm tin vào sự Hiện diện thực sự của Chúa trong Bí tích Thánh Thể. Chúng tôi khuyến khích lòng sùng kính này giúp tất cả chúng ta được hình thành bởi tình yêu tự hiến mà chúng ta nhìn thấy qua việc Chúa tự trao ban chính mình trong Bí tích Thánh Thể. (Mẹ) Thánh Têrêsa thành Calcutta đã từng nói: “Khi bạn nhìn vào cây thánh giá, bạn hiểu Chúa Giêsu đã yêu bạn đến nhường nào. Khi bạn nhìn vào Mình Thánh Chúa, bạn hiểu Chúa Giêsu đang yêu bạn đến nhường nào.”

 

B) Biến đổi trong Đức Kitô

34. Người chia sẻ cách xứng đáng trong Bí tích Thánh Thể ngày càng được trợ giúp để sống giới luật tình yêu do Chúa Kitô đã truyền, chính vì Chúa Kitô thông ban chính mình trong Bí tích trên bàn thờ. Nền tảng của sự biến đổi cá nhân và đạo đức của chúng ta là sự hiệp thông với chính Chúa Kitô, thiết lập trong Bí tích Rửa tội và đào sâu trong Bí tích Thánh Thể. Trong việc cử hành Thánh lễ, chúng ta được thấy tình yêu thương thực sự là gì, và chúng ta nhận được ân sủng cho phép chúng ta bắt chước tình yêu mà Đức Kitô đã tỏ lộ cho chúng ta. Thánh Gioan Phaolô II lưu ý rằng đời sống luân lý của Kitô hữu bắt nguồn từ và được nuôi dưỡng bởi “nguồn vô tận của sự thánh hiến và tôn vinh Thiên Chúa” được tìm thấy trong các Bí tích, đặc biệt là Bí tích Thánh Thể: “khi thông phần vào hy lễ của Thập giá, Kitô hữu kết hợp với tình yêu hiến dâng của Đức Kitô, Kitô hữu đủ sức và được nhập cuộc để sống cùng một tình yêu ấy qua mọi thái độ và mọi hành vi ứng xử trong đời mình.” [49]

35. Sự biến đổi cá nhân và luân lý được duy trì bởi Bí tích Thánh Thể chạm đến mọi phương diện của đời sống con người. Tình yêu của Đức Kitô có thể thấm nhuần vào tất cả các mối quan hệ của chúng ta: với gia đình, bạn bè của chúng ta và người lân cận. Nó cũng có thể định hình lại xã hội của chúng ta như một toàn thể. Mối tương quan của chúng ta với Đức Kitô không bị giới hạn trong phạm vi cá nhân; nó không chỉ dành cho một mình chúng ta. Tình liên đới hoặc hiệp thông trong tình yêu tự hiến của Đức Kitô tạo nên Giáo hội và làm cho chúng ta trở thành chi thể của Giáo hội ra lệnh cho chúng ta vượt ra ngoài cộng đồng đức tin hữu hình để đến với tất cả mọi người, những người chúng ta phải yêu bằng chính tình yêu tạo nên sự hiệp thông của chúng ta với Chúa. Ngược lại, nếu chúng ta không yêu tất cả mọi người theo cách này, sự hiệp thông của chúng ta với Chúa bị suy yếu hoặc thậm chí mâu thuẫn. Tình yêu này đặc biệt mở rộng và “ưu tiên” cho những người nghèo và những người dễ bị tổn thương. Tất cả chúng ta cần phải nhất quán trong việc mang tình yêu của Đức Kitô không chỉ đến với đời sống của cá nhân mình, mà còn cho mọi khía cạnh của đời sống xã hội chúng ta.

36. Đặc biệt, vai trò của giáo dân là biến đổi các mối quan hệ xã hội cho phù hợp với tình yêu của Chúa Kitô, được thực hiện cụ thể bằng những hành động vì lợi ích chung. Giáo dân “ý thức về lời mời gọi nên thánh nhờ ơn gọi rửa tội của họ, phải hành động như men trong bột để xây dựng xã hội đương thời, phù hợp với kế hoạch của Thiên Chúa. [Tính nhất quán] giữa đức tin và đời sống trong [các] lĩnh vực chính trị, kinh tế và xã hội đòi hỏi sự hình thành nhận thức, nghĩa là hiểu biết học thuyết xã hội của Giáo hội.” [50] Giáo dân tham gia vào chính quyền có trách nhiệm đặc biệt để hướng lương tâm của họ phù hợp với đức tin của Giáo hội và luật đạo đức, và để phục vụ gia đình nhân loại bằng cách duy trì sự sống và phẩm giá của con người.

37. Sách Giáo lý của Giáo hội Công giáo cho chúng ta biết rằng “Bí tích Thánh Thể liên kết chúng ta với người nghèo. Để nhận biết trong chân lý, Mình và Máu của Đức Kitô đã hiến mình vì chúng ta, chúng ta phải nhận biết Đức Kitô. trong những người nghèo nhất, chính là anh chị em của Ngài.” [51] Đang khi rao giảng về Tin mừng Mátthêu chương 25, Thánh Gioan Kim Khẩu đã nhận xét: “Bạn có muốn tôn vinh thân thể của Đức Kitô? Đừng phớt lờ Ngài khi Ngài trần truồng. Đừng chỉ tôn kính trong Ngài trong nhung lụa ở đền thờ rồi bỏ mặc Ngài bên ngoài, nơi Ngài phải chịu đựng sự lạnh lẽo và trần truồng. Người nói: ‘Đây là mình Thầy’ cũng chính là Người đã nói: ‘Ngươi thấy ta đói và ngươi đã không cho ăn.’” [52] Thánh Têrêsa thành Calcutta là một tấm gương nổi bật trong thời gian gần đây vì đã học cách nhận ra Đức Kitô trong những người nghèo. Đó là niềm tin sâu sắc của ngài vào Bí tích Thánh Thể và hành động Rước lễ đã thúc đẩy ngài yêu thương và chăm sóc những người nghèo nhất trong số những người nghèo cũng như sự dấn thân cho sự nên thánh của toàn thể nhân loại. Khi nhìn thấy khuôn mặt của Chúa Kitô trong Bí tích Thánh Thể, ngài đã học được cách nhận ra khuôn mặt của Đấng ấy trong những người nghèo và đau khổ. Mẹ Têrêsa được cho là đã khẳng định: “Chúng ta phải cầu xin Chúa Giêsu ban cho chúng ta sự dịu dàng của Bí tích Thánh Thể. Trừ khi chúng ta tin và thấy Chúa Giêsu trong sự xuất hiện của bánh trên bàn thờ, chúng ta sẽ không thể nhìn thấy Người trong lớp áo ngụy trang đau buồn của sự nghèo khổ.”

38. Đức Thánh Cha Phanxicô đã cảnh báo rằng trong “nền văn hóa vứt bỏ” của chúng ta, chúng ta cần phải chống lại khuynh hướng xem mọi người là “dùng một lần”: “Dường như một số thành phần trong gia đình nhân loại của chúng ta có thể bị hy sinh bất cứ lúc nào vì ích lợi của những người khác vốn được xem là có quyền sống một cách vô tư. Cuối cùng, “nhân vị không còn được xem là một giá trị cao nhất phải được quan tâm và kính trọng, nhất là khi người ta nghèo khổ và tàn tật, ‘chưa có ích’ – như các thai nhi, hay ‘không còn cần đến nữa’ – như những người già.” [53] Là Kitô hữu, chúng ta có trách nhiệm thúc đẩy sự sống và phẩm giá của con người, và để yêu thương và bảo vệ những người dễ bị tổn thương nhất ở giữa chúng ta: những đứa trẻ chưa sinh ra, những người di cư và những người tị nạn, những nạn nhân của sự phân biệt về chủng tộc, người bệnh và người già.

39. Công đồng Vatican II nhấn mạnh tầm quan trọng của sự tôn trọng đối với con người. “Vậy mỗi người đều phải coi người đồng loại không trừ một ai như “cái tôi thứ hai”, cho nên trước hết phải quan tâm đến sự sống của họ và quan tâm đến những phương tiện cần thiết giúp họ sống một đời sống xứng đáng, chứ đừng bắt chước người giàu có kia đã không săn sóc gì tới người nghèo Ladarô.” [54] Công đồng tiếp tục nói rằng tất cả những gì đi ngược với chính sự sống, như giết người dưới bất cứ hình thức nào, diệt chủng, phá thai, trợ tử, hoặc tự tử trực tiếp; tất cả những gì xâm phạm sự toàn vẹn của con người, như cắt bỏ một phần thân xác, hành hạ thân xác hoặc tâm trí, làm áp lực tâm lý; tất cả những gì xúc phạm đến nhân phẩm, như những cảnh sống thấp kém dưới mức độ phải có của con người, giam cầm vô cớ, lưu đày, nô lệ, mại dâm, buôn bán phụ nữ và trẻ con; kể cả những tình trạng làm việc nhục nhã khiến cho công nhân hoàn toàn trở thành dụng cụ cho lợi lộc, chứ không được coi như con người tự do và có trách nhiệm: tất cả những điều nói trên và những điều tương tự đều thực sự ô nhục. Và trong khi làm thối nát nền văn minh nhân loại, thì tất cả những điều trên lại càng bôi nhọ chính những kẻ chủ động hơn là bôi nhọ những người phải chịu sự nhục mạ. [55]

40. Cũng như chúng ta được Thánh Thể thúc đẩy để nghe tiếng kêu của người nghèo, và đáp lại trong tình yêu thương, chúng ta cũng được mời gọi để nghe tiếng kêu của trái đất và tương tự như vậy, đáp lại bằng sự quan tâm yêu thương. [56] Giáo hoàng Phanxicô, giống như Đức Thánh Cha Biển Đức XVI tiền nhiệm, đã rút ra một cách hùng hồn mối liên hệ giữa cử hành Thánh Thể và chăm sóc môi trường. [57] Mọi tạo vật đều tôn vinh Thiên Chúa, và hướng tới sự thần hóa, hướng tới sự kết hợp với Đấng Tạo Hóa.

41. Chúng tôi mong chờ ngày mà tất cả những tội ác sẽ bị loại bỏ, khi Vương quốc của Thiên Chúa được thiết lập trong sự viên mãn của nó. Sau đó, sẽ có Trời mới và Đất mới, và cộng đồng nhân loại sẽ sống trong một Giêrusalem mới, nơi mà chính Thiên Chúa sẽ ở với dân Ngài (Kh 21, 1-3). Không ai phải chịu cảnh nghèo đói, bất công hay bạo lực. Chúng ta sẽ nhìn thấy nhau như Thiên Chúa nhìn thấy chúng ta, không có bất kỳ sự biến dạng nào gây ra bởi tội lỗi hoặc bởi cơ cấu của tội lỗi, chẳng hạn như phân biệt chủng tộc hoặc các biểu hiện khác nhau của nền văn hóa vứt bỏ. Không ai sẽ bị coi là “dùng một lần.” Chúng ta sẽ có thể yêu nhau theo cách phản chiếu tình yêu của Chúa dành cho chúng ta.

42. Đang khi tất cả đều quá rõ ràng rằng trong thế giới hiện tại của chúng ta, Vương quốc vẫn chưa được thiết lập cách hoàn thiện, thì sự hiệp thông của chúng ta với Chúa cho thấy rằng Nước Thiên Chúa không chỉ là một thứ gì đó chúng ta đang chờ đợi ở tận cùng thời gian. Vương quốc đã hiện diện, nếu không muốn nói là trọn vẹn: “Vương quốc đã đến trong con người của Đức Kitô và phát triển một cách huyền nhiệm trong lòng của những người được kết hợp vào Ngài,” [58] cho đến khi thành toàn vào lúc Ngài tái lâm trong vinh quang. Huyền nhiệm về Vương quốc vẫn còn hiện diện trong Hội Thánh vì Hội thánh được kết hợp với Chúa Kitô như các chi thể của một Thân Thể với Đầu. Trong sự hiệp thông là Giáo hội, “Nước thiên đàng, Triều đại Thiên Chúa, đã tồn tại và sẽ được hoàn thành vào tận cùng thời gian.” [59]

43. Thiên Chúa đã không chỉ kêu gọi chúng ta thoát khỏi sự thờ ơ tội lỗi để làm bất cứ điều gì chúng ta có thể, để Vương quốc mau đến; qua Đức Kitô, Ngài đã ban cho chúng ta ân sủng mà chúng ta cần để làm điều này. Các Bản tóm tắt Học thuyết Xã hội của Giáo hội giải thích:

Những người đã được tình thương Thiên Chúa “đổi mới” có thể thay đổi các luật lệ và chất lượng của các mối quan hệ, thậm chí chuyển biến cả các cấu trúc xã hội. Họ trở thành người có khả năng đem hoà bình đến nơi xung đột, xây dựng và nuôi dưỡng các mối tương quan huynh đệ ở nơi có hận thù, đi tìm công lý ở nơi còn đầy cảnh người bóc lột người. Chỉ có tình thương mới có khả năng thay đổi tận gốc những mối quan hệ đang có giữa con người với nhau. [60]

 

C) Sự hoán cải

44. Đức Kitô đã bắt đầu sứ vụ công khai của mình bằng cách kêu gọi mọi người ăn năn hoán cải: Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng (Mc 1, 15; x. Mt 4, 17). Do đó, thật là phù hợp, khi bắt đầu mọi Thánh lễ, chúng ta được mời gọi nhìn nhận tội lỗi của mình để chuẩn bị cử hành huyền nhiệm thánh thiêng. Chúng ta thú nhận rằng chúng ta đã phạm tội, và chúng ta cầu xin lòng thương xót của Chúa. Điều này là cần thiết vì tất cả chúng ta đều là tội nhân và đôi khi không sống đúng với ơn gọi của mình là môn đệ của Chúa Giêsu và những lời hứa lúc lãnh nhận Phép Thanh Tẩy của chúng ta. Chúng ta cần liên tục chú ý đến lời kêu gọi hoán cải của Đức Kitô. Chúng ta tin trong lòng lân tuất của Người, lòng thương xót mà chúng ta tìm thấy nơi thân thể Người đã bị hủy hoại vì chúng ta và máu của Người đã đổ ra vì chúng ta để tha thứ tội lỗi chúng ta. Chúng ta phải đến gần Chúa với tấm lòng khiêm tốn và cương nghị để thành thật nói: “Lạy Chúa, con chẳng đáng Chúa ngự vào nhà con, nhưng xin Chúa phán một lời thì linh hồn con sẽ lành mạnh. “

45. Khi tất cả những thất bại của chúng ta trong việc làm điều đúng đắn gây tổn hại đến sự hiệp thông của chúng ta với Thiên Chúa và với nhau, chúng được chia thành các loại riêng biệt, phản ánh mức độ nghiêm trọng khác nhau. Điều này đưa chúng ta đến sự phân biệt giữa tội nhẹ và tội trọng. Tội nhẹ là những thiếu sót và lỗi lầm hàng ngày, mặc dù chúng phản ánh một mức độ ích kỷ, nhưng không phá vỡ giao ước với Thiên Chúa. Chúng không tước bỏ nơi đương sự một tương quan bạn hữu với Thiên Chúa hoặc ân sủng thánh hóa. [61] Nói như vậy không phải là làm giảm nhẹ mức độ của những tội này, mà cho thấy chúng không phá bỏ sự hiệp thông bởi vì chúng không phá hủy nguyên lý của sự sống thần linh trong chúng ta. Thật vậy, việc đón nhận Bí tích Thánh Thể củng cố lòng bác ái của chúng ta và xóa sạch các tội nhẹ, trong khi cũng giúp chúng ta tránh được những tội lỗi nghiêm trọng hơn. [62] Đức Thánh Cha Phanxicô đã chú ý đến tính chữa lành này của Bí tích Thánh Thể khi ngài chỉ ra rằng đó “không phải là phần thưởng cho những người hoàn hảo nhưng là một phương thuốc và dưỡng chất cho người yếu.” [63] Ngài cũng cảnh báo chúng ta chống lại lạc thuyết Pelagiô về việc lãng quên nhu cầu thường xuyên về ân sủng của chúng ta và cho rằng sống một cuộc sống thánh thiện phụ thuộc vào sức mạnh của ý chí từ chính chúng ta. [64]

46. ​​Tuy nhiên, có một số tội lỗi phá vỡ sự hiệp thông mà chúng ta chia sẻ với Thiên Chúa và Hội Thánh, và điều đó gây ra sự xúc phạm nghiêm trọng đến phẩm giá con người. Chúng được gọi là tội đưa đến cái chết, hoặc trọng tội (x. 1 Ga 5, 16-17). Một người phạm trọng tội bằng cách tự do, cố ý và sẵn sàng lựa chọn làm điều gì đó liên quan đến những vấn đề nghiêm trọng và trái với lòng bác ái, trái với tình yêu của Thiên Chúa và tha nhân. [65]

47. Một người không được cử hành Thánh lễ hoặc Rước Lễ trong tình trạng tội trọng cho đến khi nhận được ân xá hoàn toàn nơi Bí tích Giải Tội. [66] Như Giáo hội luôn chỉ dạy một cách nhất quán, một người rước lễ đang khi mắc tội trọng không chỉ không nhận được ân sủng mà bí tích diễn tả; đương sự còn mắc tội phạm thánh bởi không thể hiện được sự tôn kính dành cho Mình và Máu Thánh của Đức Kitô. Thánh Phaolô cảnh báo chúng ta rằng bất cứ ai ăn Bánh hay uống Chén của Chúa cách bất xứng, thì cũng phạm đến Mình và Máu Chúa. Ai nấy phải tự xét mình, rồi hãy ăn Bánh và uống Chén này. Thật vậy, ai ăn và uống mà không phân biệt được Thân Thể Chúa, là ăn và uống án phạt mình (1 Cr 11, 27-29). Rước Mình và Máu của Đức Kitô khi đang trong tình trạng tội lỗi trọng là biểu trưng cho một mâu thuẫn. Đương sự, bằng chính hành động của mình, đã phá vỡ sự hiệp thông với Đức Kitô và Giáo hội của Người khi lãnh nhận Mình Thánh Chúa, hành động cách không nhất quán, vừa tuyên bố vừa từ chối hiệp thông cùng một lúc. Do đó, nó là một phản-dấu hiệu, một lời nói dối – nó thể hiện một sự hiệp thông trong thực tế đã bị phá vỡ.

48. Chúng ta cũng cần ghi nhớ rằng “việc cử hành Bí tích Thánh Thể giả định rằng sự hiệp thông đã tồn tại, một sự hiệp thông mà nó tìm cách củng cố và đưa đến sự hoàn thiện.” [67] Bí tích Thánh Thể là bí tích của sự hiệp thông trong Giáo hội, vì nó vừa có ý nghĩa vừa có tác dụng một cách trọn vẹn nhất vào sự hiệp thông với Chúa Kitô bắt đầu trong Phép Rửa. Điều này bao gồm sự hiệp thông nơi “chiều kích hữu hình đòi hỏi sự hiệp thông trong  giáo huấn của các Tông Đồ, trong các bí tích và trong phẩm trật.” [68] Tương tự như vậy, việc rước lễ đòi hỏi một người hiệp thông với Giáo hội trong chiều kích hữu hình này. Chúng tôi lặp lại những lời mà các Giám mục Hoa Kỳ đã tuyên bố trong năm 2006:

Nếu một người Công giáo trong đời sống cá nhân hoặc nghề nghiệp của mình cố ý và cố chấp bác bỏ các học thuyết đã xác định của Giáo hội, hoặc cố ý và cố tình từ chối sự dạy dỗ dứt khoát về các vấn đề đạo đức Giáo hội, người đó sẽ làm giảm sút nghiêm trọng mối dây hiệp thông với Giáo hội. Rước lễ trong tình huống như vậy sẽ không phù hợp với bản chất của việc cử hành Thánh Thể, vì vậy người đó nên dừng lại. [69] Rước Lễ trong hoàn cảnh như vậy cũng dễ làm cớ vấp phạm cho người khác, làm suy yếu quyết tâm trung thành của họ với những đòi hỏi của Tin Mừng. [70]

49. Sự hiệp thông của một người với Đức Kitô và Giáo hội của Ngài, do đó, bao hàm cả hai việc “hiệp thông vô hình” (ở trong tình trạng ân sủng) và “hiệp thông hữu hình”. Thánh Gioan Phaolô II giải thích:  Lẽ dĩ nhiên, phán quyết về tình trạng ân sủng thuộc quyền của chính đương sự, vì đó là một phán quyết của lương tâm. Tuy nhiên, trong trường hợp một hành vi bên ngoài vi phạm nghiêm trọng, công khai và liên tục luật luân lý, Giáo hội trong sự lo lắng mục vụ về trật tự cộng đồng và vì lòng tôn kính Bí tích, không thể không cảm thấy liên quan. Tình trạng mâu thuẫn luân lý công khai này đã được đề cập đến trong Bộ Giáo luật về việc từ chối không cho rước lễ những ai đang “ngoan cố ở trong tội trọng tỏ tường.” [71]

Giám mục giáo phận có trách nhiệm đặc biệt là làm việc để khắc phục các tình huống liên quan đến các hành động công khai khác với sự hiệp thông hữu hình của Giáo hội và luật luân lý. Thực vậy, ngài phải bảo vệ tính toàn vẹn của bí tích, sự hiệp thông hữu hình của Giáo hội, và sự cứu rỗi của các linh hồn.

50. Trước khi Rước Lễ, chúng ta nên kiểm tra lương tâm kỹ càng để đảm bảo rằng mình đã được chỉnh đốn đúng cách để rước Mình và Máu của Chúa. [72] Nếu chúng ta nhận thấy rằng chúng ta đã phá vỡ sự hiệp thông với Chúa Kitô và Giáo hội của Người, chúng ta không được lãnh nhận Bí tích Thánh Thể. Tuy nhiên, chúng ta không nên tuyệt vọng vì Chúa trong lòng nhân từ đã ban cho chúng ta một phương pháp khắc phục. Ngài yêu thương chúng ta và vô cùng mong muốn tha thứ cho chúng ta để khôi phục sự hiệp thông của chúng ta với Ngài. Trong đêm thứ nhất Phục Sinh, Chúa Giêsu Phục Sinh đã ban cho các tông đồ và những người kế vị họ năng quyền để tha thứ tội lỗi và để hòa giải tội nhân với Giáo hội. Ngài đã ban cho Giáo hội Bí tích Sám hối và Hòa giải khi Ngài thổi hơi vào các tông đồ và nói với các ông: Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ (Ga 20, 22-23). Bất cứ khi nào chúng ta phạm tội, chúng ta có cơ hội tuyệt vời này để được Chúa đổi mới và củng cố bằng ân sủng. Nếu chúng ta đã phạm tội trọng, Bí tích tạo cho chúng ta cơ hội để phục hồi món quà của ân sủng thánh hóa và nhận lại sự hiệp thông trọn vẹn với Thiên Chúa và Giáo hội. Tất cả Bí tích đòi hỏi chúng ta với tư cách là hối nhân phải ăn năn về tội lỗi của mình, quyết tâm không tái phạm một lần nữa, thú nhận tội lỗi của chúng ta, lãnh nhận Bí tích Hòa giải, và thực hiện việc đền tội được chỉ định. Chúng tôi khuyến khích tất cả những người Công giáo hãy làm mới lại đánh giá của mình đối với bí tích tuyệt vời này, trong đó chúng ta nhận được sự tha thứ và bình an của Chúa. Theo lời của Đức Thánh Cha Phanxicô, chúng tôi nói với tất cả những người Công giáo trong đất nước này: “Đừng ngại đến với Bí tích Giải tội, nơi bạn sẽ gặp Chúa Giêsu, Đấng tha thứ cho bạn.” [73]

 

D) Lương thực cho cuộc lữ hành

51. Cuộc đời của các thánh và các chân phước cho chúng ta thấy tầm quan trọng của Bí tích Thánh Thể trên hành trình của chúng ta với tư cách là môn đệ của Chúa Giêsu. Nhiều người làm chứng cho quyền năng của Bí tích Thánh Thể trong cuộc sống của họ. Chúng ta nhìn thấy hoa trái của Thánh Thể trong đời sống đức tin, hy vọng và lòng bác ái của các ngài. Đó là sự kết hợp mật thiết của các ngài với Chúa Giêsu khi Rước Lễ và việc các ngài thường xuyên cầu nguyện trước Thánh Thể, nuôi dưỡng và tiếp thêm sức mạnh cho các ngài trong cuộc hành trình lên Thiên đàng. Các ngài dạy chúng ta rằng “sự tăng trưởng như vậy của đời sống Kitô hữu cần được nuôi dưỡng bằng việc rước Thánh Thể, là Bánh cho cuộc lữ hành của chúng ta, mãi cho đến giờ chết; lúc đó Bánh sẽ được ban cho chúng ta như Của ăn đàng.” [74]

52. Chân phước Carlo Acutis, một thiếu niên người Ý, qua đời năm 15 tuổi và được phong chân phước vào năm 2020, đã nói: “Bí tích Thánh Thể là con đường dẫn đến thiên đàng của tôi.” [75] Chân phước Carlo đã đạt được sự thánh thiện khi còn rất trẻ vì Bí tích Thánh Thể là tâm điểm của cuộc đời anh. Anh tham dự thánh lễ hàng ngày và cầu nguyện mỗi ngày trước Thánh Thể trong giờ chầu. Anh đã khám phá ra niềm vui của tình bạn với Chúa Giêsu và mang niềm vui đó, niềm vui của Tin Mừng, cho người khác. Anh là một tông đồ của Bí tích Thánh Thể qua Internet. Anh nói: “Để luôn luôn được kết hợp với Đức Kitô: Đây là chương trình trong cuộc sống của tôi.” [76]

53. Tương tự như vậy, Thánh José Sánchez del Río, một thiếu niên Mexico đã tử đạo ở tuổi 14 và được phong thánh vào năm 2016, tràn đầy tình yêu đối với Chúa Kitô và Giáo hội của Người đến nỗi anh sẵn sàng từ bỏ mạng sống của mình hơn là rũ bỏ Đức Kitô và Vương quốc của Ngài. Trong khi bị giam cầm, Saint José Sánchez del Río vẫn có thể rước Mình Thánh Chúa khi bánh được lén đưa vào phòng giam của anh cùng với một giỏ thức ăn. Được tăng cường bởi Của ăn đàng này, anh đã có thể chịu đựng sự tra tấn và vẫn trung thành với Đức Kitô khi những kẻ bắt giữ nói rằng anh phải từ bỏ đức tin của mình hoặc bị xử tử. [77] Anh đã đáp lại những kẻ bắt bớ mình rằng: “Đức tin của tôi không phải để bán.” [78] Chúng tôi khuyến khích tất cả, đặc biệt là những người trẻ hãy tìm hiểu về cuộc sống của những thanh thiếu niên thánh thiện này. Giữa rất nhiều điều phiền nhiễu trong cuộc sống, Chân phước Carlo và Thánh José Sánchez del Río dạy chúng ta tập trung vào thứ quan trọng hơn bất cứ điều gì khác.

54. Có rất nhiều người đã bị lôi cuốn vào Giáo hội Công giáo và gia nhập Giáo hội vì họ tin vào sự Hiện diện thực sự của Chúa Kitô trong Bí tích Thánh Thể. Vị thánh bản địa đầu tiên của chúng ta tại Hoa Kỳ, Elizabeth Ann Seton, là một trong những người cải đạo này. Ngài đã được lôi cuốn để gia nhập Giáo hội Công giáo sau khi chứng kiến ​​sự sùng kính của người Công giáo đối với Mình Thánh Chúa. Ngài đã từng băn khoăn về sự tận hiến đó. Ân sủng của Thiên Chúa đã đưa ngài đến với đức tin vào sự Hiện diện thực sự của Chúa. Đang khi vẫn còn là một tín hữu Anh giáo, ngài thấy mình đang thờ phượng trong thánh đường của mình tại New York, rồi nhìn ra cửa sổ đang mở và lại cầu nguyện với Chúa Giêsu trong nhà tạm cách đó một dãy nhà, trong một nhà thờ Công giáo. Vào đêm sau khi ngài gia nhập Giáo hội Công giáo và được Rước Lễ Lần Đầu, Thánh Elizabeth Ann đã viết trong nhật ký của mình: “Cuối cùng thì CHÚA THUỘC VỀ TÔI và TÔI THUỘC VỀ NGÀI.” [79] Suốt phần đời còn lại, đức tin sâu sắc và sự tiên phong phục vụ của thánh nhân đối với Giáo hội trong đất nước còn non trẻ của chúng ta đã được nuôi dưỡng bởi Chúa Giêsu Thánh Thể.

55. Trong những năm gần đây, ngày càng có nhiều Kitô hữu ở đất nước chúng ta lìa bỏ giáo đoàn của họ và trở thành người không có khuynh hướng tôn giáo. Chúng tôi kêu mời những người Công giáo đã rời bỏ Giáo hội hoặc những người không còn thực hành đức tin hãy trở về nhà. Chúng tôi thương nhớ các bạn và chúng tôi yêu các bạn. Chúng tôi cầu nguyện rằng Chúa Giêsu sẽ lôi kéo bạn trở lại với gia đình Công giáo của mình, là Nhiệm Thể của Người, qua Thánh Thể của Người. Chúng tôi lặp lại những lời được gán cho Thánh Têrêsa thành Calcutta: “Một khi bạn hiểu Bí tích Thánh Thể, bạn không thể rời xa Giáo hội. Không phải vì Giáo hội ngăn cấm mà là vì trái tim sẽ không cho phép bạn.”

 

ĐƯỢC SAI ĐI

56. Đức Biển Đức XVI nhắc nhở chúng ta rằng “tình yêu mà chúng ta cử hành trong Tiệc Thánh không phải là một cái gì đó chúng ta có thể giữ cho riêng mình. Theo bản chất của nó, nó đòi hỏi phải được chia sẻ với tất cả mọi người.” [80] Chúng ta không phải là những người duy nhất cần tình yêu mà Đức Kitô đã tỏ lộ cho chúng ta. Chúng ta được kêu gọi để giúp phần còn lại của thế giới trải nghiệm điều ấy. “Điều mà thế giới cần chính là tình yêu Thiên Chúa, là gặp gỡ Đức Kitô và tin vào Người. Chính vì thế, Thánh Thể không chỉ là nguồn suối và chóp đỉnh đời sống của Hội Thánh ; Thánh Thể cũng là nguồn suối và chóp đỉnh sứ vụ của Hội Thánh.” [81] Chúa Giêsu được Chúa Cha sai đến để cứu độ thế gian. Vào thời khắc cuối cùng của việc cử hành Bí tích Thánh Thể, chúng ta là những người đã lãnh nhận Mình và Máu Chúa Kitô và đã được kết hợp sâu sắc hơn vào Thân Thể Huyền Nhiệm của Ngài cũng được sai đi một cách tương tự để loan báo Tin Mừng cứu độ cho thế giới: “Hãy lên đường bình an, làm vinh hiển Thiên Chúa bằng đời sống của mình.”

57. Đức Thánh Cha Phanxicô đã nhấn mạnh rằng việc truyền giáo – loan báo Tin Mừng của Chúa Giêsu Kitô – là một nhiệm vụ thuộc về mọi thành viên của Giáo hội, không chỉ của một vài chuyên gia:

Mọi người đã được rửa tội, bất kể chức năng của họ trong Hội Thánh và trình độ giáo dục đức tin của họ, đều là một chủ thể tích cực của việc rao giảng Tin Mừng, và thật là thiếu sót khi nghĩ về một chương trình truyền giáo được thực hiện bởi các chuyên viên có khả năng trong khi phần còn lại của các tín hữu chỉ là những người tiếp nhận thụ động.  Việc Tân Phúc Âm hóa liên quan đến vai trò tiên phong mới của từng người đã được rửa tội. [82]

Ngài khuyến khích tất cả chúng ta trở thành tông đồ truyền giáo: “Mỗi Kitô hữu là một nhà truyền giáo theo mức mức độ mà người ấy đã gặp gỡ tình yêu của Thiên Chúa trong Đức Chúa Giêsu Kitô; chúng ta không còn nói rằng chúng ta là “môn đệ” và “nhà truyền giáo”, nhưng chúng ta luôn luôn là “môn đệ – truyền giáo.’” [83] Điều cốt yếu không phải là một người đã được đào tạo nâng cao, mà là người khám quá qua Chúa Kitô tình yêu mà Thiên Chúa dành cho chúng ta và ước muốn dẫn đưa những người khác cùng đi trên cuộc hành trình này: “[Ai] đã thực sự cảm nghiệm được tình yêu của Thiên Chúa là Đấng cứu độ, thì người ta không cần nhiều thì giờ chuẩn bị để đi rao giảng, người ta không thể chờ đợi để học được nhiều bài giảng dạy, hoặc những hướng dẫn dài dòng.” [84] Tất cả những gì cần thiết đối với họ là biết đến tình yêu đó – tình yêu được thể hiện cách ưu việt nhất trong Bí tích Thánh Thể – để rao truyền cho những người khác.

Tất cả chúng ta được mời gọi để làm chứng cho những người khác một cách rõ ràng về tình yêu cứu độ của Chúa, là Đấng bất chấp sự bất toàn của chúng ta, đã ban cho chúng ta sự gần gũi của Người, Lời của Người, sức mạnh của Người, và ý nghĩa cho cuộc sống của chúng ta.  Con tim anh chị em biết rằng đời sống sẽ rất khác nếu không có Người, vì vậy những gì mà anh chị em khám phá ra, những gì giúp anh chị em sống và ban cho anh chị em hy vọng, chính là những điều mà anh chị em cần phải thông truyền cho những người khác. [85]

 

*          *          *          *         *

58. Chúng tôi đã đưa ra những suy tư này về Đức tin và việc cử hành Thánh Thể của Giáo Hội như một điểm khởi đầu. Có thể nói còn nhiều điều khác nữa, nhưng điều quan trọng nhất là chúng ta phải tháp nhập sâu sắc hơn bằng niềm tin và tình yêu vào Mầu Nhiệm Bí Ẩn vĩ đại này. Tất cả chúng ta hãy cầu xin Chúa kêu gọi chúng ta bước vào thời kỳ canh tân về Thánh Thể, thời gian của cầu nguyện và suy tư, của những hành động bác ái và chân thành ăn năn sám hối. Chúa ở với chúng ta trong Mầu Nhiệm Thánh Thể được cử hành tại các giáo xứ và giáo điểm, trong những nhà thờ chính tòa xinh đẹp của chúng ta và trong những nhà nguyện nghèo nàn nhất của chúng ta. Ngài hiện diện và Ngài đến gần chúng ta, để mà chúng ta có thể đến tiến gần Ngài hơn. Chúa rộng lượng với chúng ta với ân sủng của Người; và vì vậy chúng ta, nhờ ân sủng ấy, luôn khiêm tốn nguyện cầu xin Ngài rộng ban những điều cần thiết cho chúng ta.

59. Ta là Anpha và Ômêga, Đức Kitô Phục Sinh nói với chúng ta, Khởi Nguyên và Tận Cùng. Chính Ta sẽ ban cho ai khát được uống nơi nguồn nước trường sinh (Kh 21, 6). Thưa anh chị em, chúng ta hãy khao khát Chúa là Đấng đã chịu cơn khát trước vì chúng ta (Ga 19, 28). Chúng ta hãy tôn thờ Chúa Giêsu, Đấng vẫn ở lại với chúng ta, trên tất cả các bàn thờ của thế giới, và dẫn dắt những người khác đến chia sẻ niềm vui của chúng ta!
 ——————————————————-
CHÚ THÍCH

(Các chú thích Kinh Thánh được lấy từ Bản dịch của Nhóm Phiên dịch Các giờ kinh phụng vụ)

[1] Đức Thánh Cha Phanxicô, Khoảnh khắc cầu nguyện phi thường, ngày 27 tháng 3 năm 2020

(

[2] Đức Thánh Cha Phanxicô, Khoảnh khắc cầu nguyện phi thường, ngày 27 tháng 3 năm 2020.

[3] Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, Tông thư Dies Domini (Ngày của Thiên Chúa), số 31.

[4] Sứ vụ của niềm hân hoan: Nhật kí của Dorothy Day, biên tập bởi Robert Ellsberg (New York: Hình ảnh, 2011) tr. 483; xem Sách Lễ Rôma, phần Lễ Giáng sinh, các Thánh lễ trong ngày: “Lạy Chúa, Đấng đã tạo ra một cách kỳ diệu phẩm giá con người và vẫn còn phục hồi một cách tuyệt vời hơn, xin ban ơn, chúng con cầu xin Chúa, để chúng con có thể chia sẻ thiên tính của Đức Kitô, Đấng đã hạ mình để thông phần vào nhân loại chúng con.

[5] Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, Dies Domini, số 31.

[6] Xem Sách Lễ Rôma, Lời nguyện dâng lễ cho Thứ Năm Tuần Thánh / Chúa Nhật Thứ Hai trong Mùa Thường Niên: ” Lạy Chúa, xin thương giúp cộng đoàn tín hữu chúng con, cử hành thánh lễ này cho xứng đáng. Vì mỗi khi chúng con dâng lễ tưởng niệm cuộc khổ hình của Ðức Ki-tô là chúng con được hưởng ơn cứu chuộc của Người. Nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con.”

[7] Thánh Augustinô, Bài giảng 23B.1, trong Các bài giảng mới được tìm thấy, chuyển ngữ bởi Edmund Hill, Tác phẩm của Thánh Augustinô, phần III (Bài giảng), tập 11 (Hyde Park, NY: New City Press, 1997), 37.

[8] Đức Thánh Cha Phanxicô, Thông điệp Laudato Si’ (Chăm sóc ngôi nhà chung), số. 236, trích dẫn Đức Biển Đức XVI, Bài giảng Lễ Mình Máu Thánh Chúa, lễ trọng (ngày 15 tháng 6 năm 2006).

[9] Xem Sách Giáo lý của Giáo hội Công giáo, các số 1849-1850.

[10] Xem Thánh Basiliô, Regulae Fusius Tractatae, Câu hỏi 2, Patrologia Graeca 31: 910.

[11] Xem Sách Giáo lý của Giáo hội Công giáo, số 385

[12] Xem Sách Lễ Rôma, phần Lễ Chúa giáng sinh, Thánh lễ trong ngày.

[13] Xem 1 Cr 15, 45-49.

[14] Xem Dt 9:15; Ep 1:14.

[15] Xem Đức Thánh Cha Biển Đức XVI, Tông huấn Sacramentum Caritatis (Bí tích tình yêu), số 10.

[16] Xem Công đồng Trentô, Phần 22, Giáo lí về hy tế của Thánh lễ, chương 1.

[17] Xem Đức Thánh Cha Biển Đức XVI, Sacramentum Caritatis, số 10, và Sách Giáo lý của Giáo hội Công giáo, số 1368.

[18] Đức Thánh Cha Biển Đức XVI, Sacramentum Caritatis, số 11, trích dẫn Thông điệp Deus Caritas Est (Thiên Chúa là tình yêu), số 13.

[19] Sách Giáo lý của Giáo hội Công giáo, 1382.

[20] Sách Giáo lý của Giáo hội Công giáo, số 1330.

[21] Đức Thánh Cha Gioan PhaolôII, Thông điệp Ecclesia de Eucharistia (Bí tích Thánh Thể với Giáo hội), số 12.

[22] Đức Thánh Cha Biển Đức XVI, Sacramentum Caritatis, số. 31.

[23] Xem Thánh Justinô Tử Đạo, Lời Biện giải đầu tiên, LXVI.

[24] Thánh Gioan Kim Khẩu, Các bài giảng về Thư thứ nhất gửi tín hữu Côrintô, 24.7, trong Các Giáo phụ trong và sau Công đồng Nicêa, loạt bài đầu tiên (Peabody, MA: Hendrickson, 1995), 142.

[25] Sách Giáo lý của Giáo hội Công giáo, số 1353.

[26] Đức Thánh Cha Phaolô VI, Tín điều của Dân Chúa, số 25; xt. Công đồng Trentô, Phần 13, Sắc chỉ về Bí tích Thánh Thể, ch. 4.

[27] Sách Giáo lý của Giáo hội Công giáo, số 1374; xem thêm Sacramentum Concilium (Hiến chế về Phụng vụ Thánh), số 7.

[28] Đức Thánh Cha Phaolô VI, Thông điệp Mysterium Fidei (Mầu nhiệm Đức tin), số. 39.

[29] Xem Thánh Irenaeus, Chống lại Dị giáo, IV.16.28.

[30] Xem Bộ Giáo luật, khoản 919 triệt 1. “Một người được rước Mình Thánh Chúa phải kiêng ít nhất một giờ trước khi rước lễ từ bất kỳ thức ăn và thức uống nào, chỉ trừ nước và thuốc.”

[31] Nicholas Cabasilas, Đời sống trong Chúa Kitô, IV.10 được trích dẫn bởi Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II trong Ecclesia de Eucharistia, số 34.

[32] Xem Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, Ecclesia de Eucharistia, số 34.

[33] Sách Giáo lý của Giáo hội Công giáo, số 1325, trích dẫn Eucharisticum Mysterium (Mầu nhiệm Thánh Thể), số 6.

[34] Công đồng Vatican II, Hiến chế Lumen Gentium (Ánh sáng muôn dân), số 3.

[35] Công đồng Vatican II, Sacrosanctum Concilium, số 5

[36] Sách Giáo lý của Giáo hội Công giáo, số 1396.

[37] Bộ Giáo luật, khoản 849; Bộ giáo luật của các Giáo hội Đông phương, khoản 675 triệt 1.

[38] Bộ Giáo luật, khoản 897.

[39] Công đồng Vatican II, Sắc lệnh Presbyterorum Ordinis (Chức vụ và đời sống linh mục), số 5.

[40] Công đồng Vatican II, Lumen Gentium, số 11.

[41] Bộ Giáo luật, các khoản 1246-1248; Bộ giáo luật của các Giáo hội Đông phương, khoản 881.

[42] Didascalia Apostolorum, số 13.

[43] Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, Dies Domini, số 7

[44] Công đồng Vatican II, Sacrosanctum concilium, số 14; xem thêm Bộ Giáo Luật, các khoản 835 triệt 4 và 837 triệt 2 và Bộ giáo luật của các Giáo hội Đông phương, khoản 673.

[45] Đức Thánh Cha Phanxicô, Thư gửi các Giám mục trên toàn thế giới, đi kèm với Tông thư ban hành dưới dạng tự sắc “Traditionis Custodes,” ngày 16 tháng 7 năm 2021.

[46] Bộ Giáo luật, khoản 846 triệt 1; Bộ giáo luật của các Giáo hội Đông phương, khoản 668 triệt 2.

[47] Xem

[48] Đức Thánh Cha Biển Đức XVI, Sacramentum Caritatis, số 66.

[49] Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, Thông điệp Veritatis Splendor (Sự tỏa rạng của Chân lý), số 107.

[50] Đại Hội đồng Giám mục châu Mỹ Latinh và vùng Caribe lần V, Tài liệu Aparecida, số 505; xem thêm Bộ Giáo luật, các khoản 225 triệt 2 và 227 và Bộ giáo luật của các Giáo hội Đông phương, các khoản 401-402 và 406.

[51] Sách Giáo lý của Giáo hội Công giáo, số 1397.

[52] Thánh Gioan Kim Khẩu, Bài giảng về Phúc âm Mátthêu, 50, 3-4: PG 58, 508-509, đã được trích dẫn bởi Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II trong Dies Domini, số 71.

[53] Đức Thánh Cha Phanxicô, Thông điệp Fratelli Tutti (Tất cả anh em), số 18.

[54] Công đồng Vatican II, Hiến chế Mục vụ Gaudium et Spes (Vui mừng và Hy vọng), số 27

[55] Công đồng Vatican II, Gaudium et Spes, số 27.

[56] Đức Thánh Cha Phanxicô, Laudato Si’, số 49.

[57] Đức Thánh Cha Phanxicô, Laudato Si’, số 236; Đức Thánh Cha Biển Đức XVI, Sacramentum Caritatis, số 92.

[58] Sách Giáo lý của Giáo hội Công giáo, số 865.

[59] Sách Giáo lý của Giáo hội Công giáo, số 865.

[60] Bản tóm tắt Học thuyết Xã hội của Giáo hội Công giáo, số 4.

[61] Xem Sách Giáo lý của Giáo hội Công giáo, số 1863.

[62] Sách Giáo lý của Giáo hội Công giáo, các số 1394 và 1395, trích dẫn Công đồng Trentô: Bí tích Thánh Thể “là một phương thuốc để giải phóng chúng ta khỏi những lỗi lầm hàng ngày và để bảo vệ chúng ta khỏi tội trọng,” Phần 13, Sắc lệnh về Bí tích Thánh Thể, ch. 2.

[63] Đức Thánh Cha Phanxicô, Tông huấn Evangelii Gaudium (Niềm vui Tin mừng), số 47.

[64] Đức Thánh Cha Phanxicô, Tông huấn Gaudete et Exsultate (Hãy vui mừng hoan hỉ), các số 48-62.

[65] Thánh Tôma Aquinô, Tổng luận thần học I-II, câu 88, điều 2.

[66] Xem Bộ Giáo luật, khoản 916; Bộ giáo luật của các Giáo hội Đông phương, khoản 712. Ngoại lệ cho quy tắc này là một tình huống mà đương sự có cả một lý do nghiêm trọng để tiếp nhận và không có cơ hội để xưng tội; tuy nhiên, đương sự có nghĩa vụ thực hiện ăn năn tội cách trọn với quyết tâm thú nhận trong thời gian sớm nhất.

[67] Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, Ecclesia de Eucharistia, số 35.

[68] Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, Ecclesia de Eucharistia, số 35; xem thêm Bộ Giáo luật, khoản 205 và Bộ giáo luật của các Giáo hội Đông phương, khoản 8.

[69] USCCB, “Phúc cho những ai được mời đến dự tiệc Chiên Thiên Chúa”: Chuẩn bị đón nhận Đức Kitô cách xứng đáng trong Thánh Thể, tr. 11; xem Bộ Giáo luật, khoản 916: “Một người đang mắc tội trọng thì không được cử hành Thánh lễ hoặc rước Mình Thánh Chúa khi chưa được giải tội trước đó, trừ khi có lý do nghiêm trọng và không có cơ hội để xưng tội; trong trường hợp này, đương sự phải nhớ nghĩa vụ thực hiện ăn năn cách trọn bao gồm việc đi xưng tội càng sớm càng tốt. “

[70] Xem Sách Giáo lý của Giáo hội Công giáo, số 2284.

[71] Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, Ecclesia de Eucharistia, số 37; xem Bộ Giáo luật, khoản 915: “Những người đã bị tuyệt thông hoặc vạ cấm chế sau khi hình phạt đã tuyên kết hay tuyên bố; những người khác cố chấp trong một tội nặng công khai không được phép rước lễ”. Tương tự như vậy, Bộ giáo luật của các Giáo hội Đông phương tuyên bố rằng “những người công khai không xứng đáng bị cấm rước Thánh Thể Chúa” (khoản 712).

[72] Đối với giáo huấn của Giáo hội về lương tâm, xem Công đồng Vatican II, Gaudium et Spes, số 16; Sách Giáo lý của Giáo hội Công giáo, các số 1776-1802, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, Veritatis Splendor, các số 31-34 và 54-64.

[73] Đức Thánh Cha Phanxicô trên Twitter (@Pontifex), ngày 13 tháng 12 năm 2013.

[74] Sách Giáo lý của Giáo hội Công giáo, số 1392.

[75] Xem “Tuổi trẻ của thời đại chúng ta được Chúa Kitô thúc đẩy: Tại Assisi, Hồng y Vallini thay mặt Đức Giáo hoàng chủ tọa Lễ phong Chân phước cho Carlo Acutis,” Nhật báo L’Osservatore Romano (Quan sát viên Rôma) ngày 16 tháng 10 năm 2020.

[76] Xem Nicola Gori, Carlo Acutis: Vị thánh đầu tiên của thiên niên kỉ mới, chuyển ngữ bởi Daniel Gallagher ((Huntington, Ind.: Our Sunday Visitor, 2021), Dẫn nhập.

[77] Xem “José Anacleto González Flores và tám người bạn đồng hành – tiểu sử”, Vatican News Service (20 tháng 11 2005).

[78] “Cáo thỉnh viên nhớ lại lời của Thánh Jose Sanchez del Rio nói ‘Đức tin của tôi không phải để bán’,” National Catholic Register (17 Tháng 10 năm 2016).
[79] Bài đăng ngày 25 tháng 3 năm 1805, trong Vẻ đẹp của Bí tích Thánh Thể: Định hình và Duy trì bản sắc Công giáo của chúng ta, Eds. Rosemary Vaccari Mysel, Andrew J. Vaccari, Peter I. Vaccari. Boston: Pauline Books and Media (2005), tr. 6.

[80] Đức Thánh Cha Biển Đức XVI, Sacramentum Caritatis, số 84.

[81] Đức Thánh Cha Biển Đức XVI, Sacramentum Caritatis, số 84.

[82] Đức Thánh Cha Phanxicô, Evangelii Gaudium, số 120.

[83] Đức Thánh Cha Phanxicô, Evangelii Gaudium, số 120.

[84] Đức Thánh Cha Phanxicô, Evangelii Gaudium, số 120.

[85] Đức Thánh Cha Phanxicô, Evangelii Gaudium, số 121.

Chúng tôi đã đưa ra những suy tư này về Đức tin và việc cử hành Thánh Thể của Giáo Hội như một điểm khởi đầu. Có thể nói còn nhiều điều khác nữa, nhưng điều quan trọng nhất là chúng ta phải tháp nhập sâu sắc hơn bằng niềm tin và tình yêu vào Mầu Nhiệm Bí Ẩn vĩ đại này. Tất cả chúng ta hãy cầu xin Chúa kêu gọi chúng ta bước vào thời kỳ canh tân về Thánh Thể, thời gian của cầu nguyện và suy tư, của những hành động bác ái và chân thành ăn năn sám hối. Chúa ở với chúng ta trong Mầu Nhiệm Thánh Thể được cử hành tại các giáo xứ và giáo điểm, trong những nhà thờ chính tòa xinh đẹp của chúng ta và trong những nhà nguyện nghèo nàn nhất của chúng ta. Ngài hiện diện và Ngài đến gần chúng ta, để mà chúng ta có thể đến tiến gần Ngài hơn. Chúa rộng lượng với chúng ta với ân sủng của Người; và vì vậy chúng ta, nhờ ân sủng ấy, luôn khiêm tốn nguyện cầu xin Ngài rộng ban những điều cần thiết cho chúng ta.Ta là Anpha và Ômêga, Đức Kitô Phục Sinh nói với chúng ta, Khởi Nguyên và Tận Cùng. Chính Ta sẽ ban cho ai khát được uống nơi nguồn nước trường sinh (Kh 21, 6). Thưa anh chị em, chúng ta hãy khao khát Chúa là Đấng đã chịu cơn khát trước vì chúng ta (Ga 19, 28). Chúng ta hãy tôn thờ Chúa Giêsu, Đấng vẫn ở lại với chúng ta, trên tất cả các bàn thờ của thế giới, và dẫn dắt những người khác đến chia sẻ niềm vui của chúng ta!——————————————————-(Các chú thích Kinh Thánh được lấy từ Bản dịch của Nhóm Phiên dịch Các giờ kinh phụng vụ)[1] Đức Thánh Cha Phanxicô, Khoảnh khắc cầu nguyện phi thường, ngày 27 tháng 3 năm 2020 https://www.vatican.va/content/francesco/en/messages/urbi/documents/papa-francesco_20200327_urbi-et-orbi-epidemia.html ).[2] Đức Thánh Cha Phanxicô, Khoảnh khắc cầu nguyện phi thường, ngày 27 tháng 3 năm 2020.[3] Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, Tông thư Dies Domini (Ngày của Thiên Chúa), số 31.[4] Sứ vụ của niềm hân hoan: Nhật kí của Dorothy Day, biên tập bởi Robert Ellsberg (New York: Hình ảnh, 2011) tr. 483; xem Sách Lễ Rôma, phần Lễ Giáng sinh, các Thánh lễ trong ngày: “Lạy Chúa, Đấng đã tạo ra một cách kỳ diệu phẩm giá con người và vẫn còn phục hồi một cách tuyệt vời hơn, xin ban ơn, chúng con cầu xin Chúa, để chúng con có thể chia sẻ thiên tính của Đức Kitô, Đấng đã hạ mình để thông phần vào nhân loại chúng con.[5] Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, Dies Domini, số 31.[6] Xem Sách Lễ Rôma, Lời nguyện dâng lễ cho Thứ Năm Tuần Thánh / Chúa Nhật Thứ Hai trong Mùa Thường Niên: ” Lạy Chúa, xin thương giúp cộng đoàn tín hữu chúng con, cử hành thánh lễ này cho xứng đáng. Vì mỗi khi chúng con dâng lễ tưởng niệm cuộc khổ hình của Ðức Ki-tô là chúng con được hưởng ơn cứu chuộc của Người. Nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con.”[7] Thánh Augustinô, Bài giảng 23B.1, trong Các bài giảng mới được tìm thấy, chuyển ngữ bởi Edmund Hill, Tác phẩm của Thánh Augustinô, phần III (Bài giảng), tập 11 (Hyde Park, NY: New City Press, 1997), 37.[8] Đức Thánh Cha Phanxicô, Thông điệp Laudato Si’ (Chăm sóc ngôi nhà chung), số. 236, trích dẫn Đức Biển Đức XVI, Bài giảng Lễ Mình Máu Thánh Chúa, lễ trọng (ngày 15 tháng 6 năm 2006).[9] Xem Sách Giáo lý của Giáo hội Công giáo, các số 1849-1850.[10] Xem Thánh Basiliô, Regulae Fusius Tractatae, Câu hỏi 2, Patrologia Graeca 31: 910.[11] Xem Sách Giáo lý của Giáo hội Công giáo, số 385[12] Xem Sách Lễ Rôma, phần Lễ Chúa giáng sinh, Thánh lễ trong ngày.[13] Xem 1 Cr 15, 45-49.[14] Xem Dt 9:15; Ep 1:14.[15] Xem Đức Thánh Cha Biển Đức XVI, Tông huấn Sacramentum Caritatis (Bí tích tình yêu), số 10.[16] Xem Công đồng Trentô, Phần 22, Giáo lí về hy tế của Thánh lễ, chương 1.[17] Xem Đức Thánh Cha Biển Đức XVI, Sacramentum Caritatis, số 10, và Sách Giáo lý của Giáo hội Công giáo, số 1368.[18] Đức Thánh Cha Biển Đức XVI, Sacramentum Caritatis, số 11, trích dẫn Thông điệp Deus Caritas Est (Thiên Chúa là tình yêu), số 13.[19] Sách Giáo lý của Giáo hội Công giáo, 1382.[20] Sách Giáo lý của Giáo hội Công giáo, số 1330.[21] Đức Thánh Cha Gioan PhaolôII, Thông điệp Ecclesia de Eucharistia (Bí tích Thánh Thể với Giáo hội), số 12.[22] Đức Thánh Cha Biển Đức XVI, Sacramentum Caritatis, số. 31.[23] Xem Thánh Justinô Tử Đạo, Lời Biện giải đầu tiên, LXVI.[24] Thánh Gioan Kim Khẩu, Các bài giảng về Thư thứ nhất gửi tín hữu Côrintô, 24.7, trong Các Giáo phụ trong và sau Công đồng Nicêa, loạt bài đầu tiên (Peabody, MA: Hendrickson, 1995), 142.[25] Sách Giáo lý của Giáo hội Công giáo, số 1353.[26] Đức Thánh Cha Phaolô VI, Tín điều của Dân Chúa, số 25; xt. Công đồng Trentô, Phần 13, Sắc chỉ về Bí tích Thánh Thể, ch. 4.[27] Sách Giáo lý của Giáo hội Công giáo, số 1374; xem thêm Sacramentum Concilium (Hiến chế về Phụng vụ Thánh), số 7.[28] Đức Thánh Cha Phaolô VI, Thông điệp Mysterium Fidei (Mầu nhiệm Đức tin), số. 39.[29] Xem Thánh Irenaeus, Chống lại Dị giáo, IV.16.28.[30] Xem Bộ Giáo luật, khoản 919 triệt 1. “Một người được rước Mình Thánh Chúa phải kiêng ít nhất một giờ trước khi rước lễ từ bất kỳ thức ăn và thức uống nào, chỉ trừ nước và thuốc.”[31] Nicholas Cabasilas, Đời sống trong Chúa Kitô, IV.10 được trích dẫn bởi Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II trong Ecclesia de Eucharistia, số 34.[32] Xem Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, Ecclesia de Eucharistia, số 34.[33] Sách Giáo lý của Giáo hội Công giáo, số 1325, trích dẫn Eucharisticum Mysterium (Mầu nhiệm Thánh Thể), số 6.[34] Công đồng Vatican II, Hiến chế Lumen Gentium (Ánh sáng muôn dân), số 3.[35] Công đồng Vatican II, Sacrosanctum Concilium, số 5[36] Sách Giáo lý của Giáo hội Công giáo, số 1396.[37] Bộ Giáo luật, khoản 849; Bộ giáo luật của các Giáo hội Đông phương, khoản 675 triệt 1.[38] Bộ Giáo luật, khoản 897.[39] Công đồng Vatican II, Sắc lệnh Presbyterorum Ordinis (Chức vụ và đời sống linh mục), số 5.[40] Công đồng Vatican II, Lumen Gentium, số 11.[41] Bộ Giáo luật, các khoản 1246-1248; Bộ giáo luật của các Giáo hội Đông phương, khoản 881.[42] Didascalia Apostolorum, số 13.[43] Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, Dies Domini, số 7[44] Công đồng Vatican II, Sacrosanctum concilium, số 14; xem thêm Bộ Giáo Luật, các khoản 835 triệt 4 và 837 triệt 2 và Bộ giáo luật của các Giáo hội Đông phương, khoản 673.[45] Đức Thánh Cha Phanxicô, Thư gửi các Giám mục trên toàn thế giới, đi kèm với Tông thư ban hành dưới dạng tự sắc “Traditionis Custodes,” ngày 16 tháng 7 năm 2021.[46] Bộ Giáo luật, khoản 846 triệt 1; Bộ giáo luật của các Giáo hội Đông phương, khoản 668 triệt 2.[47] Xem https://www.usccb.org/prayer-and-worship/the-mass/frequently-asked-questions/ars-celebrandi [48] Đức Thánh Cha Biển Đức XVI, Sacramentum Caritatis, số 66.[49] Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, Thông điệp Veritatis Splendor (Sự tỏa rạng của Chân lý), số 107.[50] Đại Hội đồng Giám mục châu Mỹ Latinh và vùng Caribe lần V, Tài liệu Aparecida, số 505; xem thêm Bộ Giáo luật, các khoản 225 triệt 2 và 227 và Bộ giáo luật của các Giáo hội Đông phương, các khoản 401-402 và 406.[51] Sách Giáo lý của Giáo hội Công giáo, số 1397.[52] Thánh Gioan Kim Khẩu, Bài giảng về Phúc âm Mátthêu, 50, 3-4: PG 58, 508-509, đã được trích dẫn bởi Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II trong Dies Domini, số 71.[53] Đức Thánh Cha Phanxicô, Thông điệp Fratelli Tutti (Tất cả anh em), số 18.[54] Công đồng Vatican II, Hiến chế Mục vụ Gaudium et Spes (Vui mừng và Hy vọng), số 27[55] Công đồng Vatican II, Gaudium et Spes, số 27.[56] Đức Thánh Cha Phanxicô, Laudato Si’, số 49.[57] Đức Thánh Cha Phanxicô, Laudato Si’, số 236; Đức Thánh Cha Biển Đức XVI, Sacramentum Caritatis, số 92.[58] Sách Giáo lý của Giáo hội Công giáo, số 865.[59] Sách Giáo lý của Giáo hội Công giáo, số 865.[60] Bản tóm tắt Học thuyết Xã hội của Giáo hội Công giáo, số 4.[61] Xem Sách Giáo lý của Giáo hội Công giáo, số 1863.[62] Sách Giáo lý của Giáo hội Công giáo, các số 1394 và 1395, trích dẫn Công đồng Trentô: Bí tích Thánh Thể “là một phương thuốc để giải phóng chúng ta khỏi những lỗi lầm hàng ngày và để bảo vệ chúng ta khỏi tội trọng,” Phần 13, Sắc lệnh về Bí tích Thánh Thể, ch. 2.[63] Đức Thánh Cha Phanxicô, Tông huấn Evangelii Gaudium (Niềm vui Tin mừng), số 47.[64] Đức Thánh Cha Phanxicô, Tông huấn Gaudete et Exsultate (Hãy vui mừng hoan hỉ), các số 48-62.[65] Thánh Tôma Aquinô, Tổng luận thần học I-II, câu 88, điều 2.[66] Xem Bộ Giáo luật, khoản 916; Bộ giáo luật của các Giáo hội Đông phương, khoản 712. Ngoại lệ cho quy tắc này là một tình huống mà đương sự có cả một lý do nghiêm trọng để tiếp nhận và không có cơ hội để xưng tội; tuy nhiên, đương sự có nghĩa vụ thực hiện ăn năn tội cách trọn với quyết tâm thú nhận trong thời gian sớm nhất.[67] Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, Ecclesia de Eucharistia, số 35.[68] Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, Ecclesia de Eucharistia, số 35; xem thêm Bộ Giáo luật, khoản 205 và Bộ giáo luật của các Giáo hội Đông phương, khoản 8.[69] USCCB, “Phúc cho những ai được mời đến dự tiệc Chiên Thiên Chúa”: Chuẩn bị đón nhận Đức Kitô cách xứng đáng trong Thánh Thể, tr. 11; xem Bộ Giáo luật, khoản 916: “Một người đang mắc tội trọng thì không được cử hành Thánh lễ hoặc rước Mình Thánh Chúa khi chưa được giải tội trước đó, trừ khi có lý do nghiêm trọng và không có cơ hội để xưng tội; trong trường hợp này, đương sự phải nhớ nghĩa vụ thực hiện ăn năn cách trọn bao gồm việc đi xưng tội càng sớm càng tốt. “[70] Xem Sách Giáo lý của Giáo hội Công giáo, số 2284.[71] Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, Ecclesia de Eucharistia, số 37; xem Bộ Giáo luật, khoản 915: “Những người đã bị tuyệt thông hoặc vạ cấm chế sau khi hình phạt đã tuyên kết hay tuyên bố; những người khác cố chấp trong một tội nặng công khai không được phép rước lễ”. Tương tự như vậy, Bộ giáo luật của các Giáo hội Đông phương tuyên bố rằng “những người công khai không xứng đáng bị cấm rước Thánh Thể Chúa” (khoản 712).[72] Đối với giáo huấn của Giáo hội về lương tâm, xem Công đồng Vatican II, Gaudium et Spes, số 16; Sách Giáo lý của Giáo hội Công giáo, các số 1776-1802, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, Veritatis Splendor, các số 31-34 và 54-64.[73] Đức Thánh Cha Phanxicô trên Twitter (@Pontifex), ngày 13 tháng 12 năm 2013.[74] Sách Giáo lý của Giáo hội Công giáo, số 1392.[75] Xem “Tuổi trẻ của thời đại chúng ta được Chúa Kitô thúc đẩy: Tại Assisi, Hồng y Vallini thay mặt Đức Giáo hoàng chủ tọa Lễ phong Chân phước cho Carlo Acutis,” Nhật báo L’Osservatore Romano (Quan sát viên Rôma) ngày 16 tháng 10 năm 2020.[76] Xem Nicola Gori, Carlo Acutis: Vị thánh đầu tiên của thiên niên kỉ mới, chuyển ngữ bởi Daniel Gallagher ((Huntington, Ind.: Our Sunday Visitor, 2021), Dẫn nhập.[77] Xem “José Anacleto González Flores và tám người bạn đồng hành – tiểu sử”, Vatican News Service (20 tháng 11 2005).[78] “Cáo thỉnh viên nhớ lại lời của Thánh Jose Sanchez del Rio nói ‘Đức tin của tôi không phải để bán’,” National Catholic Register (17 Tháng 10 năm 2016).[79] Bài đăng ngày 25 tháng 3 năm 1805, trong Vẻ đẹp của Bí tích Thánh Thể: Định hình và Duy trì bản sắc Công giáo của chúng ta, Eds. Rosemary Vaccari Mysel, Andrew J. Vaccari, Peter I. Vaccari. Boston: Pauline Books and Media (2005), tr. 6.[80] Đức Thánh Cha Biển Đức XVI, Sacramentum Caritatis, số 84.[81] Đức Thánh Cha Biển Đức XVI, Sacramentum Caritatis, số 84.[82] Đức Thánh Cha Phanxicô, Evangelii Gaudium, số 120.[83] Đức Thánh Cha Phanxicô, Evangelii Gaudium, số 120.[84] Đức Thánh Cha Phanxicô, Evangelii Gaudium, số 120.[85] Đức Thánh Cha Phanxicô, Evangelii Gaudium, số 121.