Phẫu thuật chuyển giới – Wikipedia tiếng Việt

Phẫu thuật chuyển giới (tiếng Anh: ‘Sex reassignment surgery’, viết tắt là ‘SRS’), còn gọi là giải phẫu chuyển đổi giới tính, phẫu thuật xác định lại giới tính, phẫu thuật tái tạo bộ phận sinh dục, hoặc nói thông dụng chuyển đổi giới tính) là một dạng phẫu thuật nhằm sửa đổi các bộ phận sinh dục của một người từ giới tính nam sang nữ hoặc ngược lại (dương vật và tinh hoàn đối với nam; âm vật, âm đạo, tử cung và buồng trứng đối với nữ).

Chú ý không nhầm lẫn ” phẫu thuật chuyển giới ” với khái niệm ” quy đổi giới tính “. Việc quy đổi giới tính gồm có việc phẫu thuật chuyển giới và điều trị hoóc-môn vĩnh viễn, như vậy có nghĩa là phẫu thuật chuyển giới chỉ là quy trình tiên phong của quy đổi giới tính .Một số yếu tố cần chú ý quan tâm so với việc quy đổi giới tính :

Ngoài ra, cần lưu ý rằng việc phẫu thuật chuyển giới sẽ không thực sự biến một người từ nam sang nữ hoặc ngược lại, mà thực ra nó chỉ tạo cho họ một ngoại hình “mô phỏng” theo giới tính cụ thể mà họ muốn, còn nhiều đặc điểm khác thì không thể thay đổi được, ví dụ như:

  • Các bộ phận sinh dục của người chuyển giới sẽ chỉ có hình dạng giống với giới tính mới chứ không thể có chức năng tương tự, nên người chuyển giới không thể sinh sản được. Người chuyển giới nam tuy có dương vật giả nhưng sẽ không cương cứng dương vật và xuất tinh được, người chuyển giới nữ tuy có âm đạo giả nhưng sẽ không có tử cung, buồng trứng và không thể mang thai được.
  • Người chuyển giới không thể chuyển đổi tuyến hoóc-môn và nội tiết, nên họ sẽ phải tiêm hoóc-môn giới tính suốt đời. Nếu không tiêm thì các đặc điểm của giới tính cũ (trước khi chuyển giới) sẽ xuất hiện trở lại (ví dụ, người chuyển giới sang nữ sẽ mọc lại râu, người chuyển giới sang nam sẽ bị thoái hóa cơ bắp)
  • Bộ nhiễm sắc thể giới tính trong các tế bào của người chuyển giới vẫn là như cũ. Do đó, nếu xét nghiệm gen thì kết quả vẫn cho thấy họ thuộc về giới tính cũ (trước khi chuyển giới), bất kể ngoại hình của họ thay đổi ra sao.

Phẫu thuật chuyển giới thường được áp dụng với những người chuyển giới do mắc chứng bệnh mặc cảm giới tính – Gender dysphoria (tên cũ là “Rối loạn định dạng giới”), tuy nhiên vấn đề này gây ra nhiều tranh cãi về y đức (nên giúp các bệnh nhân này điều trị tâm lý để họ không còn muốn chuyển giới nữa, chứ không nên phẫu thuật cắt sửa những bộ phận khỏe mạnh của họ). Việc phẫu thuật chuyển đổi giới tính cũng có thể được thực hiện trên người lưỡng tính (tức là những người có bộ phận sinh dục bị khuyết tật, không xác định rõ là nam hay nữ), thường là trong giai đoạn trẻ em[2][3]

Những trường hợp bị khuyết tật bẩm sinh về cơ quan sinh dục khiến việc xác lập giới tính trở nên không rõ ràng, cần phải phẫu thuật để chỉnh sửa khiếm khuyết thì gọi là ” xác lập lại giới tính “. Việc phẫu thuật của họ không được coi là quy đổi giới tính mà chỉ là sự chỉnh hình lại để giới tính trở nên rõ ràng .Trong khi đó, người có mong ước ” quy đổi giới tính ” thì có khung hình trọn vẹn thông thường, nhưng về mặt tinh thần của họ có những bộc lộ sau :

  • Tự cho bản thân thuộc giới tính khác: những người này hoàn toàn bình thường về giải phẫu và sinh học nhưng tự cho bản thân thuộc giới tính khác và tìm cách thực hiện ý định chuyển đổi giới tính bằng các phương pháp phẫu thuật và sinh hóa (tiêm Hormone).
  • Trạng thái tự cải trang quần áo để biểu lộ thành giới khác: là những người chỉ thích mặc quần áo khác giới để cảm thấy mình đặc biệt so với giới tính sinh học của mình.

Những trường hợp này còn gọi là Rối loạn định dạng giới ( Gender Identity Disorder ). Năm 1980, Thương Hội Tâm thần học Mỹ ( APA ) chính thức phân loại Rối loạn định dạng giới là một dạng bệnh tinh thần [ 4 ] .Các lao lý chẩn đoán về chuyển giới, rối loạn định dạng giới ở thanh thiếu niên và người trưởng thành được liệt kê chung trong Bảng phân loại quốc tế về bệnh ( ICD ) và Thống kê những chứng rối loạn tinh thần của Hội chẩn đoán y khoa Hoa Kỳ ( DSM ) dưới mã số F64. 0, F64. 1, 302,85 và 302,6 tương ứng. [ 5 ], đến năm năm ngoái thì được phân loại lại với mã số F64. 8, F-64. 9 và 302.8 cùng tên gọi mới là chứng bệnh mặc cảm giới tính ( Gender dysphoria ) [ 6 ] [ 7 ]. Trung tâm cai nghiện và Sức khỏe tinh thần Hoa Kỳ xếp rối loạn này vào Mục DSM-V, kèm với đó là phác đồ điều trị của nhóm này [ 8 ] .Rối loạn định dạng giới cũng được phân loại như thể một chứng rối loạn tinh thần bởi Trung tâm quốc tế về Phân loại bệnh và những yếu tố sức khỏe thể chất tương quan, biểu lộ của nó là những hành vi, thái độ chối bỏ giới tính của bản thân mình, gồm những tiêu chuẩn chẩn đoán [ 9 ] :

  • Muốn được sống và chấp nhận như một người khác giới tính, thường đi kèm với những mong muốn làm cho cơ thể, ngoại hình càng giống người khác giới càng tốt (qua trang phục, đi đứng, cách cư xử, thậm chí qua phẫu thuật chuyển giới), dù các bộ phận giới tính và sinh lý cơ thể của họ hoàn toàn bình thường và không bị dị tật.
  • Tâm lý trên tồn tại liên tục trong ít nhất 2 năm.
  • Rối loạn định dạng giới có biểu hiện rõ ngay cả ở trẻ nhỏ (APA, 2000). Ví dụ: một trẻ nam bị rối loạn này ưa thích các trò chơi và các hoạt động dành cho giới nữ: thích chơi với búp bê hơn là ô tô, lính nhựa, thích tô son, mặc váy trong khi tránh né các trò chơi gây hấn điển hình dành cho trẻ nam như đấu vật, chọi tay… Trẻ đòi ngồi khi đi tiểu và thường che giấu dương vật của mình (APA, 2000). Trẻ có thể biểu hiện khó chịu với dương vật của mình, muốn hủy hoại dương vật để thay thế nó bằng cơ quan sinh dục nữ.

Ước tính có khoảng chừng 0,005 % đến 0,014 % phái mạnh và 0,002 % đến 0,003 % phái đẹp được chẩn đoán mắc chứng Rối loạn định dạng giới, dựa trên những tiêu chuẩn chẩn đoán hiện tại [ 10 ] Rối loạn định dạng giới nếu không được phát hiện và chữa trị thì tâm ý trên sẽ trở nên mạnh hơn, bệnh nhân sẽ chối bỏ giới tính của khung hình và muốn được triển khai phẫu thuật quy đổi giới tính. [ 11 ]

Tiến sĩ Paul R. McHugh – trưởng khoa tâm thần của Bệnh viện Johns Hopkins, Giáo sư tâm thần với danh hiệu phục vụ xuất sắc (Distinguished Service Professor) khẳng định: người chuyển giới (Transgenderism) là một rối loạn tâm thần và cần được điều trị, chuyển đổi giới tính thực ra là điều “không thể làm được về mặt sinh học”. Những người cổ vũ hợp pháp hóa việc phẫu thuật chuyển giới đã vô tình ủng hộ việc bệnh nhân rối loạn tâm thần tự tàn phá cơ thể mình, trong khi lẽ ra phải giúp họ tìm cách chữa trị về tâm thần. Phẫu thuật chuyển đổi giới tính không phải là cách giải quyết cho những người bị chứng bệnh mặc cảm giới tính. Ông nói[12]:

Những người lập chính sách và truyền thông đã không làm việc có ích cho công chúng hoặc những người nghĩ rằng giới tính của họ không đúng với thể chất. Trái lại, họ bóp méo bản chất rối loạn tâm thần của những người này thành một dạng “nhân quyền cần được bảo vệ”, họ cổ vũ người chuyển giới “sống thật với bản thân”, trong khi bản chất thực sự của chuyển giới là một rối loạn tâm thần cần có sự thông hiểu, điều trị và phòng ngừa.
Cảm giác mãnh liệt về việc chối bỏ giới tính cơ thể đã tạo nên một rối loạn tâm thần theo hai khía cạnh. Thứ nhất là sự không tương ứng giữa tâm lý với thực tại thể chất. Khía cạnh thứ hai là cảm giác này có thể đưa đến kết quả tâm lý rất đáng sợ: Đây là một rối loạn tâm thần gây hại tương tự như việc một người gầy ốm nhưng lại chán ăn và luôn nghĩ rằng họ bị thừa cân
Những người ủng hộ chuyển giới không muốn biết rằng những nghiên cứu cho thấy khoảng 70-80% trẻ em bộc lộ những cảm giác rối loạn giới tính đã mất đi những cảm giác này một cách tự nhiên theo thời gian. Và vì thế, chúng tôi (Bệnh viện Johns Hopkins) đã ngừng phẫu thuật chuyển giới, vì làm hài lòng một bệnh nhân tâm thần không thể là lý do biện minh cho việc cắt cụt những bộ phận bình thường của cơ thể họ.
Thay đổi giới tính vốn là điều không thể làm được về mặt sinh học. Những người phẫu thuật chuyển giới sẽ không thay đổi từ nam sang nữ hoặc ngược lại. Thực chất, họ vẫn là những người nam bị nữ hoá hoặc người nữ bị nam hoá. Các tuyên bố kiểu như “chuyển đổi giới tính là quyền dân sự” và việc hợp pháp hóa phẫu thuật chuyển giới thực ra chính là sự cổ súy cho bệnh nhân rối loạn tâm thần tự gây hại cho sức khỏe của mình.”

Theo đó, việc phẫu thuật chuyển giới chỉ nên được triển khai với những người lưỡng tính ( tức là những người có bộ phận sinh dục bị khuyết tật, không xác lập rõ là nam hay nữ ). Còn so với những người có khung hình trọn vẹn thông thường nhưng lại muốn phẫu thuật chuyển giới ( do thực trạng tinh thần bị chứng bệnh mặc cảm giới tính ) thì không nên được cho phép phẫu thuật chuyển giới bởi sẽ gây tai hại rất lớn cho sức khỏe thể chất. Với những người bị chứng bệnh mặc cảm giới tính này, cần phải điều trị tâm ý để bệnh nhân cảm thấy gật đầu giới tính của khung hình và không còn mong ước phẫu thuật chuyển giới nữa .

Ảnh hưởng về pháp lý, xã hội và cá thể[sửa|sửa mã nguồn]

Hệ lụy về pháp lý[sửa|sửa mã nguồn]

Bên cạnh việc xung đột với những tư tưởng tôn giáo hoặc những giá trị văn hóa truyền thống, việc được cho phép quy đổi giới tính gây quan ngại về những hậu quả pháp lý sẽ xảy ra nếu việc này bị tận dụng hoặc được pháp lý được cho phép thực thi, ví dụ như [ 13 ] [ 14 ] [ 15 ] [ 16 ] [ 17 ] [ 18 ] :

  • Nhiều người sẽ chuyển đổi giới tính để trốn tránh nghĩa vụ quân sự (đa số là nam giới), đặc biệt là khi đất nước sắp có chiến tranh.
  • Chuyển đổi giới tính để gian lận trong thể thao hoặc lừa đảo tài sản.
  • Chuyển đổi giới tính để trốn việc bị tòa án truy nã.
  • Chuyển đổi giới tính để hoạt động mại dâm (thường là nam chuyển sang nữ để làm gái bán dâm).
  • Nếu người chuyển giới đã kết hôn thì sau khi chuyển giới, các thỏa thuận hôn nhân với chồng/vợ của họ sẽ đột nhiên trở nên vô hiệu, dẫn tới kiện cáo hoặc cố tình chuyển giới để vô hiệu hóa các thỏa thuận, điều luật trong hôn nhân (trốn tránh việc cấp dưỡng, nuôi con, chia tài sản…)
  • Nếu người chuyển giới đã có con thì đứa trẻ sẽ “bỗng nhiên” bị mất cha/mẹ trên giấy tờ nhân thân và trong cuộc sống gia đình, dẫn tới nhiều hệ lụy xấu cho đứa trẻ về sau.
  • Phẫu thuật chuyển giới dễ dẫn tới tai biến do hàng loạt các cuộc phẫu thuật liên tiếp, dẫn tới các vụ kiện cáo sau này.
  • Người đã chuyển đổi giới tính có thể sẽ thấy hối hận sau khi tiến hành, nhưng khi đã phẫu thuật rồi thì không thể đảo ngược kết quả được nữa.
  • Người đã phẫu thuật chuyển giới thường phải chịu các vấn đề tâm lý rất phức tạp, dễ dẫn tới các hành vi tiêu cực, làm tăng tỷ lệ tội phạm, tự sát
  • Gia đình của người chuyển giới không chấp nhận hoặc cảm thấy đau lòng khi (do người thân đã biến đổi hoàn toàn), góp phần gây ra bất ổn xã hội.
  • Việc phải tiêm hoóc-môn (kích thích tố giới tính) liên tục khiến người chuyển giới mắc nhiều tác dụng phụ, sức khỏe suy giảm và bị giảm đáng kể tuổi thọ, tạo ra gánh nặng cho gia đình, hệ thống y tế và an sinh xã hội.

Có trường hợp cố ý chuyển giới để gian lận tuổi nghỉ hưu. Một người đàn ông Argentina bị cáo buộc đã cố ý biến hóa giới tính trên sách vở từ ” nam ” sang ” nữ ” để được về hưu ở tuổi 60 thay vì 65 như pháp luật, dù thực tiễn người đàn ông này trọn vẹn là nam, đã có quan hệ yêu đương với nhiều phụ nữ và còn rất ghét người chuyển giới [ 19 ]Vấn đề hôn nhân gia đình của người đã phẫu thuật chuyển giới cũng là một yếu tố rất phức tạp. Nếu được biến hóa sách vở tùy thân, họ hoàn toàn có thể kết hôn mà vợ / chồng họ không hề biết mình đã lấy phải người chuyển giới. Khi mọi chuyện bị lộ ra thì sự tan vỡ mái ấm gia đình là khó tránh khỏi. Ví dụ, năm năm trước, một người đàn ông tại Bỉ đã phát hiện ra vợ của mình thực ra là đàn ông chuyển giới, sau khi 2 người đã chung sống với nhau suốt 19 năm. Sau khi biết được thực sự, người chồng đã rất suy sụp và phải cần đến những liệu pháp điều trị tâm lý do bị cú sốc quá lớn, đồng thời ông đã lập tức nộp đơn xin ly dị lên TANDTC [ 20 ] .Do những hệ lụy rất phức tạp về sức khỏe thể chất, xã hội và pháp lý nên đến cuối năm năm nay, chỉ có 62 vương quốc ( trên tổng số 220 vương quốc và vùng chủ quyền lãnh thổ ) được cho phép phẫu thuật chuyển giới, trong 62 vương quốc này thì chỉ có 10 vương quốc ở châu Á [ 21 ] Ngoài ra, để tránh sự mập mờ về sách vở hoặc lách luật, phần nhiều trong số 62 vương quốc này chỉ được cho phép người chuyển giới biến hóa giới tính trên sách vở sau khi họ đã phẫu thuật quy đổi bộ phận sinh dục, còn nếu chỉ sử dụng hormone hoặc chỉ phẫu thuật chuyển giới một phần ( tức là chỉ phẫu thuật ngực nhưng không phẫu thuật bộ phận sinh dục ) thì vẫn chưa thể được đổi khác giới tính trên sách vở [ 1 ] .

Hệ lụy về sức khỏe thể chất[sửa|sửa mã nguồn]

Phẫu thuật chuyển giới làm thay đổi toàn bộ trục “não bộ – tuyến yên – buồng trứng” ở nữ và “não bộ – tuyến yên – tinh hoàn” ở nam, phá hủy nhiều bộ phận quan trọng sản sinh hormone giới tính. Do đó, người chuyển giới trước và sau khi can thiệp phẫu thuật luôn phải sử dụng hormone liên tục, khiến tâm lý bị đảo lộn, cơ thể của họ bị yếu đi trông thấy, dễ nhiễm bệnh. Tiêm không đúng cách và liều lượng có thể nguy hiểm tính mạng. Hormone nhân tạo như estrogen là tác nhân gây cao huyết áp, một số bệnh ung thư, bệnh tim mạch và điều đặc biệt nguy hiểm là nó có thể tạo ra cục huyết khối trong máu, dẫn đến tử vong do nhồi máu phổi, nhồi máu não hoặc nhồi máu mạc treo. Nhưng nếu không tiêm hormone thì các đặc điểm của giới tính cũ sẽ trở lại như ban đầu (do hormone nhân tạo bị cơ thể đào thải). Những người chuyển giới không sử dụng đều đặn hormone thì sẽ có ngoại hình rất kỳ dị, “bán nam bán nữ”, giống như thái giám (tức là có ngoại hình mang đặc điểm của cả hai giới, ví dụ như khuôn mặt phụ nữ nhưng lại mọc râu, hoặc khuôn mặt đàn ông nhưng giọng lại the thé).

Khi tiêm hormone giới tính nhân tạo, cơ thể người chuyển giới sẽ bị biến đổi rất nhiều, gây ra những di chứng lớn đối với sức khỏe[22]:

  • Chuyển giới từ nữ sang nam: dùng Testosterone (nội tiết nam) gây ra tác dụng phụ gồm có: tăng cân, làm thoái hóa xương, tạo huyết khối làm tắc mạch máu nếu sử dụng lâu dài, viêm khớp, các bệnh liên quan đến tâm lý, cảm xúc…
  • Chuyển giới từ nam sang nữ: dùng Estrogen (nội tiết nữ) gây ra tác dụng phụ gồm có: giảm chức năng sinh sản, bộ phận sinh dục nhỏ lại, dẫn đến loãng xương, cao huyết áp, làm tăng nguy cơ dẫn đến tiểu đường và các bệnh về tim mạch, về tâm lý dễ bị xúc động, hay khóc…

Quá trình phẫu thuật không phải chỉ một cuộc là xong, mà sẽ phải trải qua vài chục cuộc tiểu phẫu với những đau đớn và rủi ro tiềm ẩn tai biến cả về sức khỏe thể chất lẫn tâm ý. Sau vài năm, họ sẽ lão hóa nhanh gọn, sức khỏe thể chất của họ trở nên tồi tệ do những biến chứng từ phẫu thuật và tiêm hoóc-môn, những cơn đau thể xác giày vò cả ngày lẫn đêm. Đối với nam chuyển sang nữ, những lớp mỡ sẽ biến mất, vú teo lại mà trơ ra là khung xương thô kệch của đàn ông. Đối với nữ chuyển sang nam, râu tóc của họ sẽ rụng, dương vật giả sẽ teo đi ( thậm chí còn bị hoại tử ), khung xương chậu bị tổn thương khiến đi lại khó khăn vất vả. Những người không có đủ tiền để uống / tiêm kích thích tố đều đặn thì những hậu quả này thậm chí còn sẽ Open nhanh hơn [ 23 ]. Ca sĩ chuyển giới Nong Poy ( Vương Quốc của nụ cười ) san sẻ : khi chuyển giới tức là gật đầu rút ngắn tuổi thọ xuống khoảng chừng 20 năm, người chuyển giới khó hoàn toàn có thể sống ngoài 40 tuổi [ 24 ]Những người chuyển giới đều chung số phận : Vĩnh viễn không hề có con, phải uống / tiêm thuốc kích thích tố nam hoặc nữ suốt đời, vẻ ” mỹ miều ” bên ngoài chỉ trụ được 5-10 năm, sau đó thân hình, da dẻ mau chóng già nua nhanh hơn nhiều so với người thông thường. Về đời sống tình dục cũng rất không ổn định do những bộ phận tự tạo không hề có tính năng như bộ phận của người thường ( dương vật giả không hề có cảm xúc và không hề xuất tinh, còn âm đạo giả thì không có cảm xúc tình dục và không thể chế tiết chất dịch ). Hiếm hoi lắm mới có một người chuyển giới tìm được niềm hạnh phúc mái ấm gia đình thực sự [ 25 ] .Nghiên cứu năm năm trước ở Mỹ cho thấy người chuyển giới có tỷ suất đặc biệt quan trọng cao về trầm cảm và tự sát do những tuyệt vọng về đời sống sau khi chuyển giới. Tỷ lệ tự sát ở nhóm này tối thiểu ở mức 30-40 %, trong khi ở những ước đạt cao lên tới 50-60 % [ 26 ] Những rủi ro đáng tiếc tương quan với việc tiêm hormone, cắt sửa bộ phận sinh dục và những phẫu thuật khác như bệnh ung thư ( vú và tuyến tiền liệt ), bệnh tim ( đột quỵ, bệnh tim mạch ), và tắc mạch máu não trong những người chuyển giới đang liên tục được điều tra và nghiên cứu [ 27 ] .

Chấp nhận chuyển đổi giới tính đồng nghĩa với việc chấp nhận những đau đớn khủng khiếp mà nhiều người sau này đã hối hận, rằng nếu được quay trở lại như ban đầu thì họ sẽ không bao giờ phẫu thuật chuyển giới. Tại Thái Lan (một “thiên đường” của việc chuyển đổi giới tính), nhà hoạt động Nathee Teerarojanapong nói về kết quả không mong đợi từ việc chuyển đổi giới tính: “Tôi nhận được nhiều cuộc gọi từ những người nói họ cảm thấy tiếc vì đã chuyển giới. Họ đã phạm một sai lầm lớn và muốn trở lại như cũ nhưng không thể”.

Giáo sư Miroslav Djordjevic ( Serbia ), nhà phẫu thuật tạo hình số 1 quốc tế, cho biết rằng có nhiều bệnh nhân chuyển giới đã phẫu thuật cắt bỏ bộ phận sinh dục. Một thời hạn sau, những người này hối hận và tìm gặp ông với mong ước được phẫu thuật trở lại giới tính như xưa. Những người đó bị thực trạng trầm cảm nặng sau khi đã phẫu thuật chuyển giới, 1 số ít thậm chí còn còn có dự tính tự sát [ 28 ] .

Bác sĩ phẫu thuật chỉnh hình Trần Ngọc Vinh cho biết: việc chuyển đổi giới tính không chỉ đơn giản là việc chuyển đổi bộ phận sinh dục mà các diễn biến tâm lý, đời sống sau đó của người chuyển giới mới là vấn đề lớn. Bác sĩ Trần Ngọc Vinh tiết lộ: “Hầu hết bệnh nhân sau khi sang Thái Lan phẫu thuật chuyển đổi giới tính xong đều thấy ân hận, thất vọng. Đối với mọi người xung quanh, họ vẫn tỏ ra là hạnh phúc, mãn nguyện nhưng khi nói chuyện với các bác sĩ tâm lý, bác sĩ chuyên khoa thì lại khác. Nhiều người chuyển giới không thể tìm được những khoái cảm (trong cuộc sống và tình dục) như đối với giới tính ban đầu. Họ đâm ra chán con người mới của mình mà trước đó, họ khát khao vô cùng”. Bác sĩ Nguyễn Hà cho biết: “Sau một thời gian “hồ hởi” sống với giới tính mới của mình, nhiều người chuyển giới suy sụp vì không tìm được niềm vui trong cuộc sống… Một số người nam chuyển sang nữ sau một thời gian sống dặt dẹo thì chuyển nghề làm… gái mại dâm”.

Do vậy, những bác sĩ trình độ khuyên rằng : dù mang tâm ý không gật đầu giới tính bẩm sinh của mình thì con người cũng không nên can thiệp phẫu thuật vào giới tính của khung hình, vì phẫu thuật chuyển giới để lại hệ lụy rất khó trấn áp về sau, nhất là yếu tố tâm ý [ 25 ]. Tiến sĩ Y, Sinh học Đào Đại Cường, giảng viên khoa Dược, Đại học Y Dược Thành phố Hồ Chí Minh cho biết : chỉ những người bị khuyết tật bộ phận sinh dục ( có vẻ bên ngoài là nam, nhưng bên trong lại có bộ phận sinh dục của phụ nữ hoặc ngược lại ) thì mới nên phẫu thuật chuyển giới để hoàn toàn có thể xác lập đúng giới tính thật của mình. Còn với những ai từ trong ra ngoài trọn vẹn là nam hoặc nữ, không bị khuyết tật mà vẫn muốn phẫu thuật chuyển giới, thì họ nên ngừng ngay dự tính đó, bởi lẽ khi đồng ý phẫu thuật có nghĩa là họ đang ký vào bản án tử hình cho chính bản thân mình [ 29 ]

Điều kiện để được phẫu thuật chuyển giới[sửa|sửa mã nguồn]

Do những hệ lụy rất phức tạp về sức khỏe thể chất và pháp lý nên đến cuối năm năm nay, chỉ có 62 vương quốc ( trên tổng số 220 vương quốc và vùng chủ quyền lãnh thổ ), trong đó có 10 vương quốc châu Á được cho phép phẫu thuật chuyển giới [ 21 ]. Ngay cả ở những nước được cho phép phẫu thuật chuyển giới thì những thủ tục cũng rất ngặt nghèo, ví dụ như :

  • Ở Thái Lan, bệnh nhân phải mặc quần áo trái giới tính và tiêm hoóc-môn ít nhất một năm, đồng thời phải có giấy chứng nhận của ít nhất 2 bác sĩ tâm thần thì mới được phẫu thuật chuyển giới. Đặc biệt, sau khi phẫu thuật, người chuyển giới không được phép thay đổi giới tính trên giấy tờ tùy thân[30]. Việc không cho thay đổi giấy tờ tùy thân là để ngăn việc lợi dụng phẫu thuật chuyển giới để trốn nghĩa vụ quân sự, và cũng để người khác biết rõ họ là người chuyển giới, tránh việc người bình thường kết hôn nhầm với người chuyển giới.
  • Ở Ấn Độ, điều kiện phẫu thuật tương tự như Thái Lan, nhưng khác ở điểm là sau khi phẫu thuật, người chuyển giới sẽ được ghi trên giấy tờ tùy thân mới là người thuộc về giới tính thứ ba, tức là “không phải nam cũng không phải nữ”[31] Việc ghi như vậy cũng là để người khác biết rõ họ là người chuyển giới, nhằm tránh việc người bình thường kết hôn nhầm với người chuyển giới.
  • Ở Trung Quốc, điều kiện để được phẫu thuật chuyển giới khắt khe hơn. Năm 2009, Bộ Công an Trung Quốc quy định: muốn phẫu thuật chuyển giới phải trên 20 tuổi, không có tiền án, phải sống công khai, ăn mặc như giới tính khác ít nhất 3 năm trước khi phẫu thuật, phải có xác nhận của 3 bác sĩ chuyên khoa tâm thần và phải hoàn tất quá trình phẫu thuật trước khi thay đổi giấy tờ, việc thay đổi giới tính được ghi lại rõ trong hộ tịch. Khi đăng ký kết hôn, nhân viên Chính phủ phải tra hộ tịch, nếu phát hiện ra người nào đó từng chuyển giới thì phải thông báo bằng văn bản cho người kia để họ biết và quyết định có nên tiếp tục kết hôn với người chuyển giới đó hay không (việc này để tránh người bình thường kết hôn nhầm với người chuyển giới).
  • Ở Nhật Bản, ngoài các tiêu chuẩn về tâm lý và sức khỏe, còn phải đáp ứng điều kiện về nhân thân. Theo đó, một người chỉ được phẫu thuật chuyển giới khi người đó đang không có quan hệ hôn nhân (để tránh việc người kia bị mất vợ/chồng mình), cũng như không có con nhỏ dưới 20 tuổi (để tránh việc đứa trẻ bị mất cha/mẹ mình và tranh chấp nuôi con).
  • Ở Philippines, phẫu thuật chuyển giới chỉ áp dụng cho các trường hợp liên quan đến tăng sản thượng thận bẩm sinh, dị tật bộ phận sinh dục và các tình trạng khuyết tật thể chất khác về giới tính. Nếu không bị khuyết tật về cơ thể mà vẫn tự đi phẫu thuật chuyển giới thì công dân Philippines sẽ không có quyền thay đổi giới tính của họ trên các giấy tờ tùy thân (bằng lái xe, hộ chiếu, giấy khai sinh, sổ bảo hiểm xã hội…); bởi Tòa án tối cao cho rằng: nếu cho phép những người này thay đổi giới tính trên giấy tờ tùy thân thì sẽ dẫn tới “những hậu quả nghiêm trọng và rộng khắp về chính sách pháp luật và chế độ hôn nhân” (ví dụ như việc người bình thường kết hôn nhầm với người chuyển giới, hoặc trẻ em bị mất cha/mẹ do họ đi chuyển giới)[32].

Điều kiện để được quy đổi giới tính trên sách vở tùy thân[sửa|sửa mã nguồn]

Như đã nêu trên, việc đổi khác giới tính trên sách vở của một người chuyển giới sẽ kéo theo những hệ lụy rất phức tạp về pháp lý, quyền nhân thân so với người đó, bởi giữa nam và nữ có những lao lý về quyền nhân thân khác nhau ( tuổi nghỉ hưu, nghĩa vụ và trách nhiệm quân sự chiến lược, hôn nhân gia đình, ưu tiên nghề nghiệp … )Trong số những nước được cho phép chuyển giới, điều kiện kèm theo để được quy đổi giới tính trên sách vở tùy thân cũng khác nhau [ 33 ] :

Phạm vi, quá trình phẫu thuật[sửa|sửa mã nguồn]

Phẫu thuật chuyển giới khác với phẫu thuật thẩm mỹ cho người chuyển giới. Chỉ khi can thiệp vào bộ phận sinh dục thì mới được coi là phẫu thuật chuyển giới, còn việc người chuyển giới phẫu thuật chỉnh sửa các bộ phận khác như phẫu thuật ngực (cắt hoặc độn vú), chỉnh sửa vai, khuôn mặt… để cho giống với giới tính mới (nhưng lại không chỉnh sửa vào bộ phận sinh dục) thì đó vẫn chỉ được coi là phẫu thuật thẩm mỹ mà thôi.[34].

Theo quy trình tiến độ ở những vương quốc được cho phép phẫu thuật quy đổi giới tính, một người trước khi chuyển giới phải trải qua những quá trình sau :

  • Giai đoạn 1 (trải nghiệm, tư vấn tâm lý, Kiểm tra cuộc sống thực – Real Life Test): Người chuyển giới sẽ phải trải qua 6 tháng tư vấn, kiểm tra và trải nghiệm tâm lý. Họ phải ăn mặc, sinh hoạt như người có giới tính khác, phái suy nghĩ kỹ về mọi khó khăn có thể sẽ gặp (mất gia đình, mất bạn bè, mất việc và bị các tác dụng phụ của việc tiêm hormone giới tính). Khoảng 40% bệnh nhân bỏ cuộc trong giai đoạn này.
  • Giai đoạn 2 (điều trị bằng nội tiết tố): Người chuyển giới sử dụng hormone giới tính nhân tạo (tiêm hoặc uống) liên tục trong khoảng 2 năm. Hormone giới tính nhân tạo giúp cơ thể họ thay đổi: người nữ mọc lông và râu, ngực thu nhỏ, giọng nói trầm hơn… người nam thì rụng râu và tiêu giảm cơ bắp, ngực phát triển, kích thước tinh hoàn giảm… Trong giai đoạn này, nếu người chuyển giới cảm thấy hối hận hoặc thất vọng, không muốn chuyển giới nữa thì vẫn kịp để họ thay đổi ý định. Họ chỉ cần ngừng sử dụng hormone giới tính nhân tạo thì sau mấy tháng, các đặc điểm giới tính của họ sẽ trở về như ban đầu, giống như chưa có gì xảy ra.
  • Giai đoạn 3 (phẫu thuật tạo hình chuyển giới): sau 2 năm điều trị bằng nội tiết tố, khi các thay đổi về tâm sinh lý của người chuyển giới đã tới giới hạn, một Hội đồng y khoa với các chuyên viên nội tiết, tâm lý, phẫu thuật sẽ nghiên cứu kỹ lưỡng từng hồ sơ để xem bệnh nhân nào đủ điều kiện được phẫu thuật cắt bỏ bộ sinh dục cũ và tạo hình bộ sinh dục mới.

Sau khi phẫu thuật cắt bỏ bộ sinh dục cũ và tạo bộ sinh dục mới, người chuyển giới vẫn sẽ phải duy trì sử dụng Hormone giới tính cả đời, bởi những bộ phận sinh dục mới thực ra chỉ là những thiết bị mô phỏng hình dáng, chứ không có công dụng sinh dục như những bộ phận nguyên bản. Ngoài ra, những người đã chuyển giới phải liên tục được điều trị tâm lý do họ thường tuyệt vọng với khung hình mới, nên có tỷ suất trầm cảm, tự sát rất cao .

Tại Nước Ta[sửa|sửa mã nguồn]

Ở Việt Nam, Bộ luật dân sự năm 2015 [35] đã có quy định về chuyển giới và thay đổi giới tính trên giấy tờ tùy thân. Tuy nhiên, điều kiện để được phẫu thuật chuyển giới hiện chưa được quy định cụ thể tại Luật chuyên ngành.

Bác sĩ Nguyễn Minh Tuấn – Phó Viện trưởng Viện Sức khỏe tinh thần vương quốc cho rằng, về mặt trình độ cũng như pháp lý, để được biến hóa về mặt sách vở pháp lý, bắt buộc người chuyển giới phải phẫu thuật đổi khác bộ phận sinh dục. Nếu chỉ dùng hormone hoặc phẫu thuật ngực mà đã được quy đổi sách vở thì sẽ dẫn tới nhiều trường hợp “ mập mờ ” ( sách vở là ” nam ” nhưng lại có cơ quan sinh dục nữ hoặc ngược lại ), hoặc dẫn tới những trường hợp “ tập nhiễm ” gây mất trật tự xã hội, cũng như thực trạng lạm dụng những dịch vụ y tế tại những cơ sở y tế chuyên khoa. Mặt khác, những trường hợp không thực sự thiết yếu ( không có khung hình bị khuyết tật bẩm sinh ) thì không nên được cho phép phẫu thuật chuyển giới, vì quy trình phẫu thuật chuyển giới ảnh hưởng tác động lớn đến sức khỏe thể chất, làm giảm tuổi thọ và còn tốn kém ngân sách, đặc biệt quan trọng là những yếu tố pháp lý phát sinh về sau này [ 1 ]Tiến sỹ Nguyễn Đình Phú cho biết : cần phân biệt nhu yếu quy đổi giới tính bởi những nguyên do khác nhau : do khuyết tật bẩm sinh, khuyết tật tâm ý hay nhu yếu nghệ thuật và thẩm mỹ cá thể. Không loại trừ những trường hợp quy đổi giới tính để lảng tránh xã hội, trốn tránh nghĩa vụ và trách nhiệm, thậm chí còn trốn lệnh truy nã. Một số chuyên viên y tế cũng đặt yếu tố chỉ được cho phép quy đổi giới tính so với người bị khuyết tật bẩm sinh nặng ở cơ quan sinh dục, cần phẫu thuật để chỉnh sửa khiếm khuyết. Người có khung hình trọn vẹn thông thường, không bị dị tật nhưng về mặt tâm ý lại tự cho bản thân thuộc giới tính khác thì không nên được cho phép quy đổi giới tính [ 36 ]Tóm lại, theo quan điểm của những bác sĩ chuyên khoa phẫu thuật thì chỉ nên được cho phép phẫu thuật chuyển giới với những trường hợp bị dị tật bộ phận sinh dục, khuyết tật nhiễm sắc thể giới tính, rối loạn hoóc-môn giới tính và những thực trạng khuyết tật sức khỏe thể chất về giới tính. Còn với những ai không bị khuyết tật khung hình mà vẫn muốn phẫu thuật chuyển giới do tâm ý bị mắc chứng bệnh mặc cảm giới tính ( tên khác là ” Rối loạn định dạng giới ” ) thì tuyệt đối không nên được cho phép phẫu thuật chuyển giới, thay vào đó cần chữa trị tâm ý cho họ để họ không còn muốn phẫu thuật chuyển giới nữa [ 12 ] [ 29 ] ( chủ trương tương tự như như Philippines ) .