GIAO Trinh CHU Nghia XA HOI KHOA HOC BAN TAP HUAN 2019 – BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO GIÁO TRÌNH CHỦ NGHĨA – StuDocu

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

GIÁO TRÌNH

CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC

(DÀNH CHO BẬC ĐẠI HỌC – KHÔNG CHUYÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ)

( Đã sửa chữa thay thế, bổ trợ sau khi dạy thử nghiệm )TP. Hà Nội – 2019

CHỈ ĐẠO BIÊN SOẠN

Đồng chí Võ Văn Thưởng, Ủy viên Bộ Chính trị,
Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương.
Đồng chí GS Phùng Xuân Nhạ, Ủy viên Trung ương Đảng,
Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo
Đồng Chí PGS Phạm Văn Linh, Phó Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung
ương,
Trưởng Ban Chỉ đạo biên soạn giáo trình các môn Lý luận chính trị.

CHỦ BIÊN :

GS Hoàng Chí Bảo
ĐỒNG CHỦ BIÊN :
GS Dương Xuân Ngọc
PGS Đỗ Thị Thạch

TẬP THỂ TÁC GIẢ
GS Hoàng Chí Bảo
GS Dương Xuân Ngọc
PGS Đỗ Thị Thạch
PGS Nguyễn Bá Dương
PGS Phạm Công Nhất
PGS Đinh Thế Định
PGS Đặng Hữu Toàn
PGS Lê Hữu Ái
PGS Bùi Thị Ngọc Lan
PGS Đinh Ngọc Thạch
PGS Trần Xuân Dung
PGS Lê Văn Đoán

CƠ CẤU XÃ HỘI – GIAI CẤP VÀ LIÊN MINH GIAI CẤP, TẦNG LỚP

  • TRONG THỜI KÌ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI…………………………
      1. Cơ cấu xã hội – giai cấp trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội………..
      1. Liên minh giai cấp, tầng lớp trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội….
    • lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam………………………………………………………….. 3. Cơ cấu xã hội – giai cấp và liên minh giai cấp, tầng lớp trong thời kì quá độ
  • CHƯƠNG 6………………………………………………………………………………………….
  • VẤN ĐỀ DÂN TỘC VÀ TÔN GIÁO TRONG THỜI KÌ QUÁ ĐỘ…………….
  • LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI…………………………………………………………………..
      1. Dân tộc trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội……………………………..
      1. Tôn giáo trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội……………………………..
      1. Quan hệ dân tộc và tôn giáo ở Việt Nam……………………………………………
  • Chương 7……………………………………………………………………………………………..
  • …………………………………………………………………………………………………………… VẤN ĐỀ GIA ĐÌNH TRONG THỜI KÌ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
      1. Khái niệm, vị trí và chức năng của gia đình………………………………………..
      1. Cơ sở xây dựng gia đình trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội……….
      1. Xây dựng gia đình Việt Nam trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội….

Lời nói đầu
Chúng tôi, tập thể các tác giả biên soạn chương trình và giáo trình môn
Chủ nghĩa xã hội khoa học bậc Đại học cho sinh viên các trường đại học
(chuyên và không chuyên) xin bày tỏ lời cảm ơn chân thành tới các đồng chí
trong Ban Chỉ đạo biên soạn chương trình và giáo trình năm môn Lý luận chính
trị, Ban Tuyên giáo Trung ương và Bộ Giáo dục và Đào tạo, cảm ơn các nhà
khoa học trong Hội đồng nghiệm thu chương trình và giáo trình môn Chủ nghĩa
xã hội khoa học đã giúp đỡ, tạo điều kiện để chúng tôi hoàn thành nhiệm vụ
quan trọng này. Đặc biệt, chúng tôi xin chân thành cảm ơn các nhà khoa học, các
chuyên gia trong Hội đồng nghiệm thu đã đóng góp ý kiến nhận xét, phê bình và
có những ý kiến khuyến nghị để chúng tôi sữa chữa, bổ sung, hoàn thiện giáo
tình sau nghiệm thu, phục vụ đợt tập huấn giảng viên Đại học theo chương trình,
giáo trình mới.
Tập bản thảo giáo trình này đã được các tác giả sửa chữa, bổ sung theo
đúng kết luận của Hội đồng nghiệm thu ngày 29 tháng 7 năm 2019 tại Ban
Tuyên giáo Trung ương.
Dù các tác giả đã hết sức cố gắng nhưng chắc rằng, giáo trình này vẫn
không tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót các đồng chí, nhất là các thầy,
cô giáo dự lớp tập huấn tiếp tục góp ý để các tác giả sửa chữa, hoàn thiện một
lần nữa, trước khi xuất bản.
Xin trân trọng cảm ơn.

T / M Tập thể tác giả GS Hoàng Chí Bảo

những cái tốt đẹp nhất mà loài người đã tạo ra hồi thế kỉ XIX, đó là triết học
Đức, kinh tế chính trị học Anh và chủ nghĩa xã hội Pháp”. 1
Trong khuôn khổ môn học này, chủ nghĩa xã hội khoa học được nghiên
cứu theo nghĩa hẹp.
1. Hoàn cảnh lịch sử ra đời của chủ nghĩa xã hội khoa học
1.1. Điều kiện kinh tế – xã hội
Vào những năm 40 của thế kỉ XIX, cuộc cách mạng công nghiệp phát
triển mạnh mẽ tạo nên nền đại công nghiệpền đại công nghiệp cơ khí làm cho
phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa có bước phát triển vượt bậc. Trong tác
phẩm “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”, Các và Ph.Ăngghen đánh giá: “Giai
cấp tư sản trong quá trình thống trị giai cấp chưa đầy một thế kỉ đã tạo ra một
lực lượng sản xuất nhiều hơn và đồ sộ hơn lực lượng sản xuất của tất cả các thế
hệ trước đây gộp lại” 2. Cùng với quá trình phát triển của nền đại công nghiệp, sự
ra đời hai giai cấp cơ bản, đối lập về lợi ích, nhưng nương tựa vào nhau: giai cấp
tư sản và giai cấp công nhân. Cũng từ đây, cuộc đấu tranh của giai cấp công
nhân chống lại sự thống trị áp bức của giai cấp tư sản, biểu hiện về mặt xã hội
của mâu thuẫn ngày càng quyết iệt giữa lực lượng sản xuất mang tính chất xã
hội với quan hệ sản xuất dựa trên chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về
tư liệu sản xuất. Do đó, nhiều cuộc khởi nghĩa, nhiều phong trào đấu tranh đã
bắt đầu và từng bước có tổ chức và trên quy mô rộng khắp. Phong trao Hiến
chương của những người lao động ở nước Anh diễn ra trên 10 năm (1836 –
1848); phong trào công nhân dệt ở thành phố Xi-lê-di, nước Đức diễn ra năm
1844. Đặc biệt, phong trào công nhân dệt thành phố Li-on, nước Pháp diễn ra
vào năm 1831 và năm 1834 đã có tính chất chính trị rõ nét. Nếu năm 1831,
phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân Li-on giương cao khẩu hiệu thuần
túy có tính chất kinh tế “sống có việc làm hay là chết trong đấu tranh” thì đến

1 V. Lênin, Toàn tập, Nxb, Tiến bộ, M. 1980, t, tr. 2 Các và Ph. Ăngghen, Toàn tập, Nxb, CTQG, TP. Hà Nội, 1995, t, tr .

năm 1834, khẩu hiệu của phong trào đã chuyển sang mục đích chính trị: “Cộng
hòa hay là chết”.
Sự phát triển nhanh chóng có tính chất chính trị công khai của phong trào
công nhân đã minh chứng, lần đầu tiên, giai cấp công nhân đã xuất hiện như một
lực lượng chính trị độc lập với những yêu sách kinh tế, chính trị riêng của mình
và đã bắt đầu hướng thẳng mũi nhọn của cuộc đấu tranh vào kẻ thù chính của
mình là giai cấp tư sản. Sự lớn mạnh của phong trào đấu tranh của giai cấp công
nhân đòi hỏi một cách bức thiết phải có một hệ thống lí luận soi đường và một
cương lĩnh chính trị làm kim chỉ nam cho hành động.
Điều kiện kinh tế – xã hội ấy không chỉ đặt ra yêu cầu đối với các nhà tư
tưởng của giai cấp công nhân mà còn là mảnh đất hiện thực cho sự ra đời của
một lý luận mới tiến bộ – chủ nghĩa xã hội khoa học.
1.1. Tiền đề khoa học tự nhiên và tư tưởng lí luận
a) Tiền đề khoa học tự nhiên
Sau thế kỉ ánh sáng, đến đầu thế kỉ XIX, nhân loại đã đạt được nhiều
thành tựu lớn trên lĩnh vực khoa học, tiêu biểu là ba phát minh tạo nền tảng cho
phát triển tư duy lý luận. Trong lĩnh vực khoa học tự nhiên, những phát minh
vạch thời đại trong vật lí học và sinh học đã tạo ra bước phát triển đột phá có
tính cách mạng: Học thuyết Tiến hóa; Định luật Bảo toàn và chuyển hóa năng
lượng; Học thuyết tế bào 1_._ Những phát minh này là tiền đề khoa học cho sự ra
đời của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, cơ sở
phương pháp luật cho các nhà sáng lập chủ nghĩa xã hội khoa học nghiên cứu
những cấn đề lí luậnn chính trị – xã hội đương thời.
b) Tiền đề tư tưởng lý luận
Cùng với sự phát triển của khoa học tự nhiên, khoa học xã hội cũng có
những thành tựu đáng ghi nhận, trong đó có triết học cổ điển Đức với tên tuổi
của các nhà triết học vĩ đại: Hegel (1770 – 1831) Và L (1804 – 1872);
1 Học thuyết Tiến hóa (1859) của người Anh Charles Robert Darwin (1809 – 1882); Định luật Bảo toàn và
chuyển hóa năng lượng (1842 – 1845), của người Nga Mikhail Vasilyevich Lomonosov Đức Julius Robert Mayer (1814 – 1878); Học thuyết tế bào (1838 – 1839) của nhà thực vật học người Đức(1711 – 1765) và Người
Matthias Jakob Schleiden (1804 – 1881) và nhà vật lí học người Đức Theodor Schwam (1810 – 1882).

hội chủ nghĩa không tưởng – phê phán. Song vượt lên tất cả, những giá trị khoa
học, cống hiến của các nhà tư tưởng đã tạo ra tiền đề tư tưởng – lý luận, để
Các và Ph.Ăngghen kế thừa những hạt nhân hợp lí, xây dựng và phát triển
chủ nghĩa xã hội khoa học.
1. Vai trò của Các Mác và Phriđrích Ăngghen
Những điều kiện kinh tế – xã hội và những tiền đề khoa học tự nhiên và tư
tưởng lý luận là điều kiện cần thiết cho một học thuyết ra đời, song điều kiện đủ
để học thuyết khoa học, cách mạng và sáng tạo ra đời là vai trò của Các và
Ph.Ăngghen.
Các (1818 – 1883) và Ph.Ăngghen (1820 – 1895) trưởng thành ở Đức,
đất nước có nền triết học phát triển rực rỡ với thành tựu nổi bật là chủ nghĩa duy
vật của L và phép biện chứng của Vilhelm Friedrich Hegel. Bằng trí
tuệ uyên bác và sự dấn thân trong phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân
và nhân dân lao động Các và Ph.Ăngghen đến với nhau, đã tiếp thu các giá trị
của nền triết học cổ điển Đức, kinh tế chính trị học cổ điển Anh và kho tàng tri
thức của nhân loại để các ông trở thành những nhà khoa học thiên tài, những nhà
cách mạng vĩ đại nhất thời đại.
1.2. Sự chuyển biến lập trường triết học và lập trường chính trị
Thoạt đầu, khi bước vào hoạt động khoa học, Các và Ph.Ăngghen là
hai thành viên tích cực của câu lạc bộ Hegel trẻ và chịu ảnh hưởng của quan
điểm triết học của Vilhelm Friedrich Hegel và L.Feuerbachới nhãn quan khoa
học uyên bác, các ông đã sớm nhận thấy những mặt tích cực và hạn chế trong
triết học của Vilhelm Friedrich Hegel và L. Với triết học của
V.F, tuy mang quan điểm duy tâm, nhưng chứa đựng “cái hạt nhân” hợp lí
của phép biện chứng; còn đối với triết học của L, tuy mang nặng
quan điểm siêu hình, song nội dung lại thấm nhuần quan điểm suy vật. Các và
Ph.Ăngghen đã kế thừa “cái hạt nhân hợp lí”, cải tạo và loại bỏ cái vỏ thần bí
duy tâm, siêu hình để xây dựng nên lí thuyết mới của chủ nghĩa duy vật biện
chứng.

Với Các, từ cuối năm 1843 đến tháng 4 – 1848, trải qua tác phẩm “ Góp phần phê phán triết học pháp quyền của Hegel – Lời nói đầu ( 1844 ) ”, đã biểu lộ rõ sự chuyển biến từ thế giới quan duy tâm sang thế giới quan duy vật, từ lập trường dân chủ cách mạng sang lập trường cộng sản chủ nghĩa. Đối với Ph. Ăngghen, từ năm 1843 với tác phẩm “ Tình cảnh nước Anh ” ; “ Lược khảo khoa kinh tế tài chính – chính trị ” đã biểu lộ rõ sự chuyển biến từ thế giới quan duy tâm sang thế giới quan duy vật, từ lập trường dân chủ cách mạng sang lập trường cộng sản chủ nghĩa. Chỉ trong một thời hạn ngắn ( từ năm 1843 – 1848 ) vừa hoạt động giải trí thực tiễn, vừa điều tra và nghiên cứu khoa học, Các và Ph. Ăngghen đã biểu lộ quy trình chuyển biến lập trường triết học và lập trường chính trị và từng bước củng cố, dứt khoát, kiên cường, đồng điệu và vững chãi lập trường đó, mà nếu không có sự chuyển biến này thì chắc như đinh sẽ không có Chủ nghĩa xã hội khoa học. 1.2. Ba phát kiến vĩ đại của Các và Ph. Ăngghen a ) Chủ nghĩa duy vật lịch sử vẻ vang Trên cơ sở thừa kế “ cái hạt nhân hài hòa và hợp lý ” của phép biện chứng và lọc bỏ quan điểm duy tâm, thần bí của Triết học V.F ; thừa kế những giá trị duy vật và vô hiệu quan điểm siêu hình của Triết học L, đồng thời nghiên cứu và điều tra nhiều thành tựu khoa học tự nhiên, Các và Ph. Ăngghen đã sáng lập chủ nghĩa duy vật biện chứng, thành tựu vĩ đại nhất của tư tưởng khoa học. Bằng phép biện chứng duy vật, điều tra và nghiên cứu chủ nghĩa tư bản, Các và Ph. Ăngghen đã áng lập chủ nghĩa duy vật lịch sử vẻ vang – phát kiến vĩ đại thứ nhất của Các và Ph. Ăngghen là sự khẳng định chắc chắn về mặt triết học sự sụp đổ của chủ nghĩa tư bản và sự thắng lợi của chủ nghĩa xã hội đều tất yếu như nhau. b ) Học thuyết về giá trị thặng dư Từ việc phát hiện ra chủ nghĩa duy vật lịch sử vẻ vang, Các và Ph. Ănghen đi sâu nghiên cứu và điều tra nền sản xuất công nghiệp và nền kinh tế tài chính tư bản chủ nghĩa để phát minh sáng tạo ra bộ “ Tư bản ”, mà giá trị to lớn nhất là “ Học thuyết về giá trị thặng dư ” – phát kiến vĩ đại thứ hai của Các và Ph. Ăngghhen là sự chứng minh và khẳng định về

hội khoa học; tiêu biểu và nổi bật là những luận điểm:
– Cuộc đấu tranh của giai cấp trong lịch sử loài người đã phát triển đến
một giai đoạn mà giai cấp công nhân không thể tự giải phóng mình nếu không
đồng thời giải phóng vĩnh viễn xã hội ra khỏi tình trạng phân chia giai cấp, áp
bức, bóc lột và đấu tranh giai cấp. Song, giai cấp vô sản không thể hoàn thành
sứ mệnh lịch sử nếu không tổ chức thành chính đảng của giai cấp, Đảng được
hình thành và phát triển xuất phát từ sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân.
– Lôgic phát triển tất yếu của xã hội tư sản và cũng là của thời đại tư bản
chủ nghĩa đó là sự sụp đổ của chủ nghĩa tư bản và sự thắng lợi của chủ nghĩa xã
hội là tất yếu như nhau.
– Giai cấp công nhân, do có địa vị kinh tế – xã hội đại diện cho lực lượng
sản xuất tiên tiến, có sứ mệnh lịch sử thủ tiêu chủ nghĩa tư bản, đồng thời là lực
lượng tiên phong trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản.
– Những người cộng sản trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa tư bản, cần
thiết phải thiết lập sự liên minh với các lực lượng dân chủ để đánh đổ chế độ
phong kiến chuyên chế, đồng thời không quên đấu tranh cho mục tiêu cuối cùng
là chủ nghĩa cộng sản. Những người cộng sản phải tiến hành cách mạng không
ngừng nhưng phải có chiến lược, sách lược khôn khéo và kiên quyết.
2. Các giai đoạn phát triển cơ bản của Chủ nghĩa xã hội khoa học
2. Các và Ph.Ăngghen phát triển chủ nghĩa xã hội khoa học
2.1. Thời kì từ 1848 đến Công xã Pari (1871)
Đây là thời kỳ của những sự kiện của cách mạng dân chủ tư sản ở các
nướcTây Âu (1848-1852): Quốc tế I thành lập (1864); tập I bộ Tư bản của
Các được xuất bản (1867). Về sự ra đời của bộ Tư bản, V.Iênin đã khẳng
định: “từ khi bộ “Tư bản” ra đời… quan niệm duy vật lịch sử không còn là một
giả thuyết nữa, mà là một nguyên lý đã được chứng minh một cách khoa học; và
chừng nào chúng ta chưa tìm ra một cách nào khác để giải thích một cách khoa
học sự vận hành và phát triển của một hình thái xã hội nào đó – của chính một
hình thái xã hội, chứ không phải của sinh hoạt của một nước hay một dân tộc,

hoặc thậm chí còn của một giai cấp nữa v .., thì chừng đó ý niệm duy vật lịch sử vẻ vang vẫn cứ là đồng nghĩa tương quan với khoa học xã hội ”. 1 Bộ “ Tư bản ” là tác phẩm đa phần và cơ bản trình diễn chủ nghĩa xã hội khoa học ” 2. Trên cơ sở tổng kết kinh nghiệm tay nghề cuộc cách mạng ( 1848 – 1852 ) của giai cấp công nhân, Các và Ph. Ăngghen liên tục tăng trưởng thêm nhiều nội dung của chủ nghĩa xã hội khoa họcư tưởng về đập tan cỗ máy nhà nước tư sản, thiết lập chuyên chính vô sản ; bổ trợ tư tưởng về cách mạng không ngừng bằng sự phối hợp giữa đấu tranh của giai cấp vô sản với trào lưu đấu tranh của giai cấp nông dân ; tư tưởng về thiết kế xây dựng khối liên minh giữa giai cấp công nhân và giai cấp nông dân và xem đó là điều kiện kèm theo tiên quyết bảo vệ cho cuộc cách mạng tăng trưởng không ngừng để đi tới tiềm năng ở đầu cuối. 2.1. Thời kì sau Công xã Pari đến 1895 Trên cơ sở tổng kết kinh nghiệm tay nghề Công xã Pari, Các và Ph. Ănghen tăng trưởng chủ nghĩa xã hội khoa học ; Bổ sung và tăng trưởng tư tưởng đập tan cỗ máy nhà nước quan liêu, không đập tan cỗ máy nhà nước tư sản nói chung. Đồng thời cũng thừa nhận Công xã Pari là một hình thái nhà nước của giai cấp công nhân, rốt cuộc, đã tìm ra. Các và Ph. Ănghen đã luận chứng sự sinh ra của chủ nghĩa xã hội khoa học. Trong những tác phẩm : “ Chống Đuyrinh ” ( 1878 ), Ph. Ănghen đã luận chứng sự tăng trưởng của chủ nghĩa xã hội từ ngoạn mục đến khoa học và nhìn nhận công lao của những nhà xã hội chủ nghĩa không tưởng Anh, Pháp. Sau này, V.Iênin trong tác phẩm “ Làm gì ? ” ( 1902 ) đã nhận xét : ” chủ nghĩa xã hội lý luận Đức không khi nào quên rằng nó dựa vào XanhXimông, Phuriê và Ô-oen. Mặc dù những học thuyết của ba nhà tư tưởng này có đặc thù ảo tưởng, nhưng họ vẫn thuộc vào hàng ngũ những bậc trí tuệ vĩ đại nhất. Họ đã tiên đoán được một cách thiên tài rất nhiều chân lý mà thời nay tất cả chúng ta đang chứng tỏ sự đúng đắn của chúng một cách khoa học ” 3 .1V. I. Lênin : 2V. I. Lênin : Toàn tậpToàn tập, Nxb. CTQG, 1974, t, tr, Nxb. CTQG, 1974, t, tr. 3V. Iênin, Toàn tập, Nxbến bộ, M, T, tr .

cách mạng cộng sản của giai cấp vô sản.” 4 ; trong điều kiện chủ nghĩa Mác đã
giành ưu thế trong phong trào công nhân quốc tế và trong thời đại Quá độ từ chủ
nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội.
Nếu như công lao của Các và Ph.Ăngghen là phát triển chủ nghĩa xã
hội từ không tưởng thành khoa học thì công lao của V.Iênin là đã biến chủ
nghĩa xã hội từ khoa học, từ lí luận thành hiện thực, được đánh dấu bằng sự ra
đời của Nhà nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới – Nhà nước Xô viết,
năm 1917.
Những đóng góp to lớn của Người vào sự vận dụng sáng tạo và phát triển
chủ nghĩa xã hội khoa học có thể khái quát qua hai thời kì cơ bản:
2.2. Thời kì trước Cách mạng Tháng Mười Nga
Trên cơ sở phân tích và tổng kết một cách nghiêm túc các sự kiện lịch sử
diễn ra trong đời sống kinh tế – xã hội của thời kì trước cách mạng tháng Mười,
V.Iênin đã bảo vệ, vận dụng và phát triển sáng tạo các nguyên lí cơ bản của
chủ nghĩa xã hội khoa học trên một số khía cạnh sau:
– Đấu tranh chống các trào lưu phi mác xít (chủ nghĩa dân túy tự do, phái
kinh tế, phái mác xít hợp pháp) nhằm bảo vệ chủ nghĩa Mác, mở đường cho chủ
nghĩa Mác thâm nhập mạnh mẽ vào Nga;
– Kế thừa những di sản lý luận của Các và Ph.Ăngghen về chính đảng,
V.Iênin đã xây dựng lý luận về đảng cách mạng kiểu mới của giai cấp công
nhân, về các nguyên tắc tổ chức, cương lĩnh, sách lược trong nội dung hoạt động
của đảng;
– Kế thừa, phát triển tư tưởng cách mạng không ngừng của Các và
Ph.Ăngghen, V.Iênin đã hoàn chỉnh lý luận về cách mạng xã hội chủ nghĩa và
chuyên chính vô sản, cách mạng dân chủ tư sản kiểu mới và các điều kiện tất
yếu cho sự chuyển biến sang cách mạng xã hội chủ nghĩa; những vấn đề mang
tính quy luật của cách mạng xã hội chủ nghĩa, vấn đề dân tộc và cương lĩnh dân
tộc, đoàn kết và liên minh của giai cấp công nhân với nông dân và các tầng lớp
4 Viện Mác – Lênin, V. Lênin và Quốc tế Cộng sản, Nxb. Sách chính trị, Mát – xcơ – va, 1970, Tiếng Nga,
tr.

lao động khác ; những yếu tố về quan hệ quốc tế và chủ nghĩa quốc tế vô sản, quan hệ cách mạng xã hội chủ nghĩa với trào lưu giải phóng dân tộc bản địa. – Phát triển quan điểm của Các và Ph. Ăngghen về năng lực thắng lợi của cách mạng xã hội chủ nghĩa, trên cơ sở những nghiên cứu và điều tra, nghiên cứu và phân tích về chủ nghĩa đế quốc, V. Lênin phát hiện ra quy luật tăng trưởng không đều về kinh tế tài chính và chính trị của chủ nghĩa tư bản trong thời kỳ chủ nghĩa đế quốc và đi đến Kết luận : cách mạng vô sản hoàn toàn có thể thắng lợi ở một số ít nước hay thậm chí còn ở một nước riêng không liên quan gì đến nhau, nơi chủ nghĩa tư bản chưa phải là tăng trưởng nhất, nhưng là khâu yếu nhất trong sợi dây chuyền sản xuất tư bản chủ nghĩa .. – V.Iênin đã dành nhiều tận tâm luận giải về chuyên chính vô sản, xác lập thực chất dân chủ của chính sách chuyên chính vô sản ; nghiên cứu và phân tích mối quan hệ giữa tính năng thống trị và tính năng xã hội của chuyên chính vô sản. Chính V.Iênin là người tiên phong nói đến phạm trù mạng lưới hệ thống chuyên chính vô sản, gồm có mạng lưới hệ thống của Đảng Bônsêvic chỉ huy, Nhà nước Xô viết quản trị và tổ chức triển khai công đoàn. – Gắn hoạt động giải trí lý luận với thực tiễn cách mạng, V.Iênin trực tiếp chỉ huy Đảng của giai cấp công nhân Nga tập hợp lực lượng đấu tranh chống chính sách chuyên chế Nga hoàng, tiến tới giành chính quyền sở tại về tay giai cấp công nhân và nhân dân lao động Nga. 2.2. Thời kì sau Cách mạng Tháng Mười Nga Ngay sau khi cách mạng thắng lợi, V.Iênin đã viết nhiều tác phẩm quan trọng bàn về những nguyên tắc của chủ nghĩa xã hội khoa học trong thời kỳ mới, tiêu biểu vượt trội là những vấn đề : – Chuyên chính vô sản, theo V.Iênin, là một hình thức nhà nước mới – nhà nước dân chủ, dân chủ so với những người vô sản và nói chung những người không có của và chuyên chính chống giai cấp tư sản. Cơ sở và nguyên tắc cao nhất của chuyên chính vô sản là sự liên minh của giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và toàn thể nhân dân lao động cũng như những những tầng lớp lao động khác dưới sự chỉ huy của giai cấp công nhân để thực thi trách nhiệm cơ bản của

mạng văn hóa. Bên cạnh đó là việc sử dụng rộng rãi hình thức chủ nghĩa tư bản
nhà nước để dần dần cải tiến chế độ sỡ hữu của các nhà tư bản hạng trung và
hạng nhỏ thành sở hữu công cộng. Cải tạo nông nghiệp bằng con đường hợp tác
xã theo nguyên tắc xã hội chủ nghĩa; xây dựng nền công nghiệp hiện đại và điện
khí hóa là cơ sở vật chất – kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội; học chủ nghĩa tư bản
về kỹ thuật, kinh nghiệm quản lý kinh tế, trình độ giáo dục; sử dụng các chuyên
gia tư sản; cần phải phát triển thương nghiệp xã hội chủ nghĩa. Đặc biệt,
V.Iênin nhấn mạnh, trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, cần thiết phải
phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần.
V.Iênin đặc biệt coi trọng vấn đề dân tộc trong hoàn cảnh đất nước có
rất nhiều sắc tộc. Ba nguyên tắc cơ bản trong Cương lĩnh dân tộc: Quyền bình
đẳng dân tộc; quyền dân tộc tự quyết và tình đoàn kết của giai cấp vô sản thuộc
tất cả các dân tộc; Giai cấp vô sản toàn thế giới và các dân tộc bị áp bức đoàn
kết lại…
Cùng với những cống hiến hết sức to lớn về lý luận và chỉ đạo thực tiễn
cách mạng, V.Iênin còn nêu một tấm gương sáng ngời về lòng trung thành vô
hạn với lợi ích của giai cấp công nhân, với lý tưởng cộng sản do Các,
Ph.Ăngghen phát hiện và khởi xướng. Những điều đó đã làm cho V. Lênin trở
thành một thiên tài khoa học, một lãnh tụ kiệt xuất của giai cấp công nhân và
nhân dân lao động toàn thế giới.
2. Sự vận dụng và phát triển sáng tạo của chủ nghĩa xã hội khoa học từ sau
khi V.Iênin qua đời đến nay

Sau khi V.Iênin qua đời, đời sống chính trị thế giới chứng kiến nhiều
thay đổi. Chiến tranh thế giới lần thứ hai do các thế lực đế quốc phản động cực
đoan gây ra từ 1939-1945 để lại biết bao hậu quả cực kỳ khủng khiếp cho nhân
loại.
Trong phe đồng minh chống phát xít, Liên xô góp phần quyết định chấm
dứt chiến tranh, cứu nhân loại khỏi thảm họa của chủ nghĩa phát xít và tạo điều
kiện hình thành hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới, tạo lợi thế so sánh cho lực

lượng độc lập, độc lập dân tộc bản địa, dân chủ và chủ nghĩa xã hội. J kế tục là người chỉ huy cao nhất của Đảng Cộng sản Nga và sau đó là Đảng Cộng sản Liên Xô, đồng thời là người ảnh hưởng tác động lớn nhất so với Quốc tế III cho đến năm 1943, khi G. Đi-mi-trốp là quản trị Quốc tế III. Từ năm 1924 đến năm 1953, hoàn toàn có thể gọi là “ Thời đoạn Xtalin ” trực tiếp vận dụng và tăng trưởng chủ nghĩa xã hội khoa học. Chính Xtalin và Đảng Cộng sản Liên Xô đã gắn lý luận và tên tuổi của Các với V.Iênin thành “ Chủ nghĩa Mác – Lênin ”. Trên thực tiễn, trong mấy thập kỷ trong bước đầu thiết kế xây dựng chủ nghĩa xã hội, với những thành quả to lớn và nhanh gọn về nhiều mặt để Liên Xô trở thành một cường quốc xã hội chủ nghĩa tiên phong và duy nhất trên toàn thế giới, buộc quốc tế phải thừa nhận và nể trọng. Có thể nêu một cách vắn tắt những nội dung cơ bản phản ánh sự vận dụng, tăng trưởng phát minh sáng tạo chủ nghĩa xã hội khoa học trong thời kỳ sau Lênin : – Hội nghị đại biểu những Đảng Cộng sản và công nhân quốc tế họp tại Matxcơva tháng 11-1957 đã tổng kết và trải qua 9 quy luật chung của công cuộc tái tạo xã hội chủ nghĩa và kiến thiết xây dựng chủ nghĩa xã hội. Mặc dù, về sau do sự tăng trưởng của tình hình quốc tế, những nhận thức đó đã bị lịch sử vẻ vang vượt qua, tuy nhiên đây cũng là sự tăng trưởng và bổ trợ nhiều nội dung quan trọng cho chủ nghĩa xã hội khoa học. – Hội nghị đại biểu của 81 Đảng Cộng sản và công nhân quốc tế cũng họp ở Matxcơva vào tháng giêng năm 1960. Hội nghị đã nghiên cứu và phân tích tình hình quốc tế và những yếu tố cơ bản của quốc tế, đưa ra khái niệm về “ thời đại lúc bấy giờ ” ; xác lập trách nhiệm số 1 của những Đảng Cộng sản và công nhân là bảo vệ và củng cố độc lập ngăn ngừa bọn đế quốc hiếu chiến phát động cuộc chiến tranh quốc tế mới ; tăng cường đoàn kết trào lưu cộng sản đấu tranh cho tự do, dân chủ và chủ nghĩa xã hội. Hội nghị Matxcơva trải qua văn kiện : “ Những trách nhiệm đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc trong quá trình hiện tại và sự thống nhất hành vi của những Đảng Cộng sản, công nhân và tổng thể những lực lương chống đế quốc ”. Hội nghị khẳng định chắc chắn : “ Hệ thống xã hội chủ nghĩa quốc tế, những lực lượng