Albert Einstein đã phát minh ra gì?


Albert Einstein thời trẻ ngồi vào bàn làm việc. Einstein không phải là một nhà phát minh nhưng công việc của ông đã dẫn đến nhiều tiến bộ quan trọng. ullstein bild / ullstein bild qua Getty Images
Albert Einstein, một người đàn ông trong thực tiễn đồng nghĩa tương quan với thiên tài, là một trong những nhà tư tưởng vĩ đại nhất của lịch sử vẻ vang. Là một nhà vật lý và toán học, Einstein không phải là nhà phát minh giống như Thomas Edison hay Alexander Graham Bell, nhưng kim chỉ nan tương đối của ông đã dẫn đến những cách nhìn mới về thời hạn, khoảng trống, vật chất, nguồn năng lượng và lực mê hoặc. Công việc của ông đã dẫn đến những tân tiến quan trọng gồm có việc trấn áp nguồn năng lượng nguyên tử, tò mò khoảng trống và những ứng dụng của ánh sáng. Khi còn là một cậu bé có cha mẹ là người Do Thái ở Đức, khởi đầu những giáo viên của cậu gọi cậu là chậm rãi và lười biếng. Tuy nhiên, khi anh rời ghế nhà trường ở tuổi 15, một giáo viên nhận xét rằng không còn gì để dạy anh [ nguồn : Golden ]. Einstein học tại Viện Công nghệ ở Zurich và nhận bằng tiến sỹ năm 1905 ở tuổi 26. Cùng năm đó, ông đã xuất bản 5 bài báo khoa học nâng tầm. Bài báo tiên phong đã mang lại cho anh ấy bằng tiến sỹ và những khái niệm được trình diễn trong 4 bài báo tiếp theo đã giúp đổi khác hiểu biết của tất cả chúng ta về thiên hà. Các chủ đề là :

  • Chuyển động Brown, hoặc chuyển động ngoằn ngoèo của các hạt cực nhỏ ở trạng thái huyền phù. Những phát hiện của Einstein đã giúp chứng minh sự tồn tại của các nguyên tử và phân tử.

  • Các lý thuyết lượng tử ánh sáng. Einstein đề xuất rằng ánh sáng bao gồm các gói năng lượng riêng biệt, được gọi là – lượng tử hoặc photon – có một số tính chất của hạt và một số tính chất của sóng. Ông cũng giải thích hiệu ứng quang điện, là sự phát xạ các electron từ một số chất rắn khi chúng bị ánh sáng tác động. Truyền hình là một ứng dụng thực tế của lý thuyết ánh sáng của Einstein.

  • Các lý thuyết tương đối đặc biệt. Einstein giải thích rằng thời gian và chuyển động là tương đối so với những người quan sát họ – miễn là tốc độ ánh sáng không đổi và các quy luật tự nhiên giống nhau trong toàn vũ trụ.

  • Mối liên hệ giữa khối lượng và năng lượng. Bài báo thứ tư mở rộng ý tưởng này với phương trình nổi tiếng E = mc2, liên hệ giữa khối lượng và năng lượng. Công thức này chứng minh rằng một hạt vật chất nhỏ chứa một lượng năng lượng khổng lồ. Điều này tạo nên phần lớn cơ sở cho năng lượng hạt nhân.

Điều gì đã xảy ra sau một năm cực kỳ hiệu suất cao này ? Tìm hiểu trên trang tiếp theo.