Doanh nghiệp xã hội: cách tiếp cận với mục tiêu phát triển bền vững góp phần ứng phó với tác động của biến đổi khí hậu

Doanh nghiệp xã hội: cách tiếp cận với mục tiêu phát triển bền vững góp phần ứng phó với tác động của biến đổi khí hậu

 
 

 

1. Giới thiệu

Phát triển bền vững, hay sự phát triển đem lại phồn vinh cho mọi người, hài hòa với thiên nhiên và tôn vinh các giá trị nhân văn là khát vọng và mục đích mà loài người đã và đang tìm kiếm xuyên qua hai thiên niên kỷ gần đây. Doanh nghiệp xã hội cho thấy tiềm năng trở thành một cách tiếp cận mới và hiệu quả cho Phát triển bền vững ở mọi qui mô, lĩnh vực.

Các khu dự trữ sinh quyển thế giới của UNESCO, với triết lý “con người hài hòa với thiên nhiên trong thịnh vượng”, đóng vai trò là “phòng thí nghiệm học tập cho phát triển bền vững”, phương châm hoạt động “bảo tồn cho phát triển, phát triển cho bảo tồn”, là một nền tảng thực tiễn hoàn hảo cho việc thực hiện phát triển bền vững. Bài viết này xem xét vai trò và tiềm năng áp dụng của cách tiếp cận Doanh nghiệp xã hội cho Phát triển bền vững, đặt trong bối cảnh thực tiễn tại Khu Dự trữ sinh quyển thế giới Quần đảo Cát Bà, thành phố Hải Phòng, Việt Nam.

 

2. Tổng quan về tài liệu

 

2.1 Doanh nghiệp xã hội

2.1.1 Sơ lược lịch sử phát triển doanh nghiệp xã hội

Theo Freer Spreckley (1981), Loại hình Hợp tác xã và Doanh nghiệp xã hội (DNXH) tại châu Âu được đề cập lần đầu năm 1649 bởi Gerrard Winstanley trong cuộc đấu tranh cách mạng Anh. Năm 1659, Peter Cornelius một người Hà Lan sống tại Southampton, qua cuốn sách “Con đường lớn” (A Way Profound), đã khởi xướng về quyền sở hữu chung về đất đai và trong một số hoạt động thương mại. Năm 1830, một số công nhân xay thất nghiệp tại Hull đã chiếm một nhà máy xay cũ để cung cấp bột mì cho gia đình của họ và cộng đồng khó khăn. Tuy nhiên, cũng do không có quyền sở hữu nhà máy, nhóm này sau đó bị giải tán. Năm 1844, 28 công nhân tại Rochdale góp vốn được 28 bảng để mở cửa hàng riêng, tiền thân của các hợp tác xã thương mại hiện đại. Robert Owen (1771-1858) là người đầu tiên thúc đẩy thành lập những hợp tác xã sản xuất. Ông khởi xướng nhiều ý tưởng lớn như giáo dục cho mọi người, cải thiện điều kiện làm việc, phân bổ tài sản chung cho những người làm ra nó, y tế miễn phí, đặc biệt là giảm giờ làm (từ 80 giờ xuống còn 50 giờ mỗi tuần). Tuy nhiên, hầu hết các hợp tác xã sản xuất theo khởi xướng của Owen đều phá sản, do không có đủ vốn mua máy móc, thiết bị.

Năm 1970: Bắt đầu Chương trình Con người và Sinh quyển (MAB) của Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên Hiệp Quốc (UNESCO), phương châm con người hài hòa với thiên nhiên. Năm 1978: Freer Spreckley lần đầu đề cập ý tưởng về phát triển bao quát trên cả 03 góc độ kinh tế, xã hội và môi trường, và mô tả cụ thể trong tác phẩm “Kiểm toán xã hội – Công cụ quản lý hoạt động hợp tác xã” xuất bản năm 1981. Năm 1987: Khái niệm Phát triển bền vững ra đời, do Ủy ban Brundtland của Liên Hiệp Quốc.

Năm 1997, thuật ngữ ba đường tròn giao thoa (triple bottom line) được mô tả chi tiết trong cuốn sách bởi John Elkington.

Thập niên 1990: DNXH đã trở nên quen thuộc tại Vương quốc Anh, chuyển từ sự phụ thuộc vào tài trợ sang tạo doanh thu. Năm 2005 ra đời loại hình DNXH đặc trưng tại Vương quốc Anh: Công ty Ích lợi cộng đồng (CIC). Năm 2008, Diễn đàn Doanh nghiệp xã hội Thế giới (Social Enterprise World Forum, SEWF) ra đời và họp lần đầu tại Edinburgh (Scotland, Vương quốc Anh).

Năm 2015, tại Hội nghị thượng đỉnh Phát triển bền vững LHQ (UN Sustainable Development Summit), các lãnh đạo quốc gia đã thông qua chương trình phát triển bền vững mới nhằm chấm dứt nghèo đói, bảo vệ trái đất và đảm bảo sự thịnh vượng cho tất cả mọi người; thông qua với 17 Mục tiêu Phát triển bền vững tới năm 2030 (SDG 2030).

 

2.1.2 Doanh nghiệp xã hội tại Việt Nam

Năm 2014, Việt Nam chính thức bổ sung loại hình “Doanh nghiệp xã hội” trong Luật Doanh nghiệp (sửa đổi).  Năm 2017, tại Nghệ An, Ủy ban Quốc gia Con người và Sinh quyển (MAB) Việt Nam khởi động chương trình phát triển Doanh nghiệp xã hội trong Mạng lưới các Khu dự trữ sinh quyển thế giới tại Việt Nam.

Có nhiều số liệu khác nhau về số lượng doanh nghiệp xã hội tại Việt Nam. Chẳng hạn, nghiên cứu của Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương (CIEM), năm 2012 Việt Nam có khoảng hơn 200 doanh nghiệp xã hội; đồng thời cả nước có khoảng hơn 165.000 đơn vị làm công tác xã hội, từ thiện, phi lợi nhuận (VNP 2016). Theo CIEM, về tác động kinh tế, xã hội, bình quân một DNXH có số vốn đăng ký ban đầu chỉ khoảng 1,2 tỷ đồng nhưng tạo việc làm cho khoảng 51 lao động, trong đó có 18 lao động có hoàn cảnh khó khăn; lợi nhuận thu về khoảng 400 triệu đồng và cải thiện cuộc sống cho 2.262 đối tượng, bên cạnh đó còn tạo ra nhiều các giá trị xã hội và môi trường khác.

Trong khi đó, nghiên cứu năm 2016 của Trung tâm Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách (VEPR) thuộc Trường Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội, ghi nhận, trong hơn 1 năm, số lượng doanh nghiệp xã hội tại Việt Nam đã tăng lên gấp đôi, từ khoảng 3.000 doanh nghiệp lên hơn 6.000 doanh nghiệp (ĐTCK 2016).

 

2.1.3 Khái niệm và tiêu chí Doanh nghiệp xã hội

2.1.3.1 Khái niệm

Thuật ngữ doanh nghiệp xã hội được khởi xướng bởi Freer Spreckley năm 1978 sau đó được mô tả chi tiết trong cuốn “Kiểm toán xã hội – Công cụ quản lý cho hoạt động Hợp tác xã” xuất bản năm 1981; theo đó DNXH được xem là:

“Doanh nghiệp được sở hữu bởi những người làm việc trong đó và/hoặc sinh sống tại một địa phương nhất định, được điều hành theo những mục đích xã hội và thương mại đã đăng ký và hoạt động một cách hợp tác” (Spreckley 1981). Mô hình doanh nghiệp truyền thống là “vốn làm chủ lao động” và trọng tâm lớn nhất là lợi nhuận trên hết và cao hơn mọi lợi ích của kể cả doanh nghiệp hay là lực lượng lao động. DNXH là “lao động làm chủ vốn”, vượt qua được sự “bóc lột” của vốn, với trọng tâm về các lợi ích xã hội, môi trường và tài chính.

Năm 1999, Tổ chức Hợp tác Kinh tế và Phát triển định nghĩa “doanh nghiệp xã hội là “mọi hoạt động tư nhân được thực hiện vì lợi ích công cộng, tổ chức theo một chiến lược kinh doanh, nhưng mục đích chính không phải là thu lợi nhiều nhất mà để đạt được những mục tiêu xã hội và kinh tế cụ thể, và có khả năng đưa lại các giải pháp sáng tạo cho việc xử lý các vấn đề như lề hóa xã hội và thất nghiệp (OECD/EU 2013).

Ủy ban Châu Âu năm 2011 đã định nghĩa DNXH là “một đơn vị hoạt động trong nền kinh tế tập thể, có mục tiêu chính là tạo ra tác động xã hội thay vì tạo lợi nhuận cho chủ doanh nghiệp hoặc cổ đông. DNXH hoạt động bằng cách cung cấp các sản phẩm và dịch vụ cho thị trường theo những cách kinh doanh sáng tạo, và sử dụng lợi nhuận để đạt được các mục tiêu xã hội. DNXH được quản lý theo cách mở và trách nhiệm, nhất là, có sự tham gia của công nhân, người tiêu dùng và các bên liên quan chịu ảnh hưởng vởi các hoạt động thương mại của nó” (EC 2011).

 

2.1.3.2 Đặc điểm chung của cách tiếp cận DNXH

Đặc điểm 1: DNXH là kinh doanh vì lợi ích chung không vì lợi ích riêng

Các lợi ích và lợi nhuận hướng mạnh vào tập thể và công cộng. Điều này phân biệt doanh nghiệp xã hội với các Hợp tác xã, công ty TNHH hoặc cổ phẩn truyền thống, vốn có trọng tâm vì lợi nhuận tư nhân và lợi ích riêng (Hình 1).

 

 

Hình 1: Khung phân tích DNXH y tế Nhật Bản (Nguồn: Kurimoto, 2015)

– Đặc điểm 2: DNXH là một cách tiếp cận đa chiều, đa lĩnh vực và mọi quy mô

Doanh nghiệp xã hội có thể tồn tại ở nhiều lĩnh vực khác nhau (như xử lý các vấn đề kinh tế, xã hội, văn hóa, tư pháp, sinh thái và công nghệ v.v.); ở nhiều cấp độ đa dạng (đơn vị, địa phương, vùng, quốc gia, quốc tế v.v.).

 

 

Hình 2: Góc nhìn đa chiều về DNXH: (Theo Spreckley 1981)

– Đặc điểm 3: DNXH là cách tiếp cận động cho phát triển bền vững

DNXH, cùng với sự phát triển của Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4, cung cấp một góc nhìn mới, như là một mô hình/ cách tiếp cận mới và hiệu quả cho Phát triển bền vững đầu thế kỷ 21, khác với cách nhìn “tĩnh” truyền thống từ thập niên 1970 (Hình 3):

 

 

Hình 3: DNXH và CMCN 4.0: Đề xuất cách tiếp cận mới cho Phát triển bền vững (Nguồn: Thành NV, Trí NH, Tuyên LT, 2015)

– Đặc điểm 4: Vị trí “trung tâm” của doanh nghiệp xã hội trong kinh tế thị trường

Doanh nghiệp xã hội là cách tiếp cận mới. Khác với doanh nghiệp thông thường (doanh nghiệp chỉ kinh doanh thương mại thuần túy, coi lợi nhuận là mục tiêu) và tổ chức từ thiện (ít tạo ra lợi ích kinh tế, phụ thuộc vào tài trợ, bảo trợ, hoặc bao cấp), doanh nghiệp xã hội là những tổ chức kinh doanh sử dụng lợi nhuận làm công cụ để giải quyết các vấn đề và nhu cầu của xã hội và môi trường.

DNXH vì vậy có vị trí quan trọng trong các loại hình kinh doanh trong nền kinh tế thị trường (dù tồn tại dưới nhiều hình thức tổ chức kinh tế, doanh nghiệp khác nhau), đặc biệt là về khả năng lý tưởng trong việc kết hợp giữa sáng kiến tạo ra lợi nhuận với mục tiêu phục vụ cộng đồng, sáng tạo xã hội (Hình 4). Cũng cần lưu ý rằng các loại hình tổ chức lợi nhuận hoặc phi lợi nhuận trong mô hình này đều bình đẳng, hoạt động trong khuôn khổ pháp luật theo các mục đích, tôn chỉ đã đăng ký.


Hình 4: Vị trí của Doanh nghiệp xã hội với góc nhìn là một loại hình kinh doanh trong bức tranh Kinh tế thị trường (Nguồn: Thanh NV, Trí NH, Tuyên LT 2015)

 

– Đặc điểm 5: Doanh nghiệp xã hội có thể là công cụ tăng cường an toàn, an sinh và phúc lợi xã hội:

DNXH có thể giúp giảm nhẹ và khắc phục những khiếm khuyết của thị trường, như góp phần tạo việc làm, xóa đói giảm nghèo, cung cấp các dịch vụ và an sinh, phúc lợi xã hội; ở thời điểm phát triển thịnh vượng, doanh nghiệp xã hội có thể có vị thế cân bằng với khối kinh tế tư nhân và kinh tế nhà nước và có đặc trưng riêng của khối kinh tế tập thể; hoặc thậm chí xa hơn là hình thái kinh doanh thay thế của nền kinh tế “hậu – tư bản” (Hình 5).

 

 

Nền kinh tế tập thể mạnh

Nền kinh tế tập thể yếu

Cơ chế thị trường mạnh và phúc lợi xã hội mạnh

Vị thế song song với khối kinh tế tư nhân và kinh tế nhà nước; là nền kinh tế đoàn kết với đặc trưng riêng

Chú trọng vào định hướng thị trường và giảm can thiệp của nhà nước vào thị trường

Cơ chế thị trường mạnh và phúc lợi xã hội yếu

Một giải pháp để giảm bất bình đẳng qua những sản phẩm, thị trường mới hoặc ‘thị trường dung hợp xã hội’

Sự thay thế rẻ hơn cho các dịch vụ đắt đỏ

Cơ chế thị trường yếu

và phúc lợi xã hội yếu

‘Khả năng hậu – tư bản’, kinh tế tập thể có thể được khuyến khích để tạo phương án kinh tế thay thế

Kinh tế xã hội thường lồng vào các hoạt động không chính thức, phụ thuộc các cơ quan ngoài nhà nước và (hiện tại) tác động đến giảm nghèo ít

 

Hình 5: DNXH có thể là công cụ tăng cường an sinh, phúc lợi xã hội (Nguồn: Lyne, Khieng & Ngin 2015)

– Đặc điểm 6: Doanh nghiệp xã hội là khởi nghiệp vì tiến bộ xã hội

Về phương thức kinh doanh, DNXH thường gắn với việc khởi nghiệp vì các nhu cầu xã hội/môi trường cụ thể, sử dụng công cụ kinh doanh để tạo lợi nhuận cho việc không ngừng cải tiến phúc lợi xã hội và giúp đỡ cho cộng đồng (Hình 6).

 

 

Hình 6: Sự khác biệt trong phương thức kinh doanh và động cơ lợi nhuận của DNXH và doanh nghiệp truyền thống (CIEM 2014)

2.1.4.3 Tiêu chí DNXH tại Việt Nam

Điều 10 Luật Doanh nghiệp 2014: Doanh nghiệp xã hội phải đáp ứng các tiêu chí sau đây:

– Là doanh nghiệp được đăng ký thành lập theo quy định của Luật doanh nghiệp;

– Mục tiêu hoạt động nhằm giải quyết vấn đề xã hội, môi trường vì lợi ích cộng đồng;

– Sử dụng ít nhất 51% tổng lợi nhuận hằng năm của doanh nghiệp để tái đầu tư nhằm thực hiện mục tiêu xã hội, môi trường như đã đăng ký. Các qui định cụ thể về DNXH tại: Luật Doanh nghiệp (Điều 10); Nghị định 96/2015/NĐ-CP và Thông tư 04/2016/TT-BKHĐT.

2.2 Một số nhu cầu Phát triển bền vững

Ở cấp quốc gia, việc thực hiện các Mục tiêu Thiên kỷ MDGs và hiện nay là các Mục tiêu Phát triển bền vững đến năm 2030 đã và đang được các quốc gia thành viên Liên Hiệp Quốc dành ưu tiên, thực hiện. Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu được thế giới ghi nhận về các mục tiêu thiên niên kỷ, đang tích cực triển khai đồng bộ các chính sách phát triển kinh tế, xã hội, môi trường bền vững ở các cấp độ quốc gia, vùng và địa phương (Hình 7).  

 

 

Hình 7: 17 Mục tiêu phát triển bền vững (Nguồn SGTT 2017)

Tại các thành phố, việc xây dựng các thành phố thông minh, đô thị xanh, thành phố đáng sống đã và đang được nhiều địa phương thí điểm, nhân rộng, như tại Hải Phòng (Hình 8).

 

Hình 8: Mô hình Hải Phòng – thành phố cảng xanh (Nguồn: Thanh NV 2015)

Tại địa bàn nông thôn, các sáng kiến DNXH có thể được lồng ghép vào phong trào xây dựng Nông thôn mới, thúc đẩy các hoạt động phát triển kinh tế bền vững, công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn và nâng cao đời sống vật chất tinh thần cộng đồng.

2.3 Khu Dự trữ sinh quyển: Mô hình Doanh nghiệp xã hội vĩ mô cho Phát triển bền vững

Khu Dự trữ sinh quyển thế giới là một nền tảng vĩ mô, đa ngành cho phát triển bền vững (Ishwaran, Persic & Tri 2008), thông qua việc thúc đẩy triết lý con người hài hòa với thiên nhiên trong thịnh vượng (UNESCO 2017) và “bảo tồn cho phát triển, phát triển cho bảo tồn” (Trí & Thành 2007). Là một danh hiệu quốc tế từ những năm 1970, các Khu DTSQ là những khu vực trên cạn, biển hoặc ven biển được UNESCO công nhận về giá trị bảo tồn đa dạng sinh học và tiềm năng phát triển bền vững ở cấp độ khu vực. Các Khu DTSQ được đề cử và sở hữu bởi các quốc gia và được UNESCO công nhận quốc tế. Hiện có 669 Khu DTSQ tại 120 quốc gia và vùng lãnh thổ.

Bản thân khái niệm và thiết kế của các Khu DTSQ phản ánh triết lý doanh nghiệp xã hội ở cấp độ cảnh quan: “bảo tồn cho phát triển, phát triển cho bảo tồn” (Hình 9), trong đó các lợi ích từ phát triển kinh tế được tái đầu tư cho bảo vệ, bảo tồn thiên nhiên và việc bảo tồn thiên nhiên tạo tiền đề để phát triển các hoạt động kinh tế bền vững, thân thiện với môi trường (như du lịch sinh thái, tham quan Vườn quốc gia, khu bảo tồn v.v.)

 

 

Hình 9: Khu Dự trữ sinh quyển – Mô hình DNXH vĩ mô “bảo tồn cho phát triển, phát triển cho bảo tồn” (Nguồn: PGS.TS Nguyễn Văn Thành, GS.TS Nguyễn Hoàng Trí, ThS Lê Thanh Tuyên 2015)

Như minh họa tại Hình 9, khác với triết lý kinh doanh thông thường (lợi nhuận được đem “ra khỏi” môi trường và cộng đồng địa phương, và phục vụ lợi ích của riêng chủ doanh nghiệp và cổ đông); các Khu DTSQ khuyến khích việc tái đầu tư lợi nhuận từ kinh tế (bao gồm của nhà nước, doanh nghiệp, cộng đồng và các cá nhân) cho việc bảo tồn, tôn tạo thiên nhiên, bảo vệ, phát huy các giá trị bản sắc văn hóa tốt đẹp của cộng đồng. Đồng thời, các giá trị vô giá từ thiên nhiên tại địa phương đã được công nhận với “thương hiệu” toàn cầu sẽ được khai thác khôn khéo, phục vụ phát triển kinh tế, xã hội ở cấp độ địa phương, vùng và hội nhập quốc tế.

Khu Dự trữ sinh quyển tạo nền tảng phát triển bền vững trong thực tiễn cho nhiều loại hình tổ chức vì lợi nhuận (doanh nghiệp, doanh nghiệp xã hội) và các tổ chức từ thiện, phi chính phủ, phi lợi nhuận hoạt động trong các lĩnh vực bảo tồn và phát triển cộng đồng. Cụ thể:

– Tổ chức có kinh doanh nhưng tái đầu tư lợi nhuận cho Bảo tồn (Lợi nhuận cho Bảo tồn): Doanh nghiệp xã hội về môi trường, bảo tồn thiên nhiên, bảo tồn văn hóa, v.v.

– Tổ chức có kinh doanh nhưng tái đầu tư lợi nhuận cho Phát triển (Lợi nhuận cho Phát triển): Doanh nghiệp xã hội về phát triển cộng đồng, xóa đói, giảm nghèo; công nghệ vì cộng đồng, khởi nghiệp đổi mới sáng tạo vì cộng đồng, phát triển khoa học, giáo dục, y tế, mỹ thuật, thể thao vì cộng đồng v.v.

– Tổ chức phi lợi nhuận vì Bảo tồn (Phi lợi nhuận, vì Bảo tồn): Các tổ chức, quỹ từ thiện vì môi trường, bảo tồn, bảo vệ động vật hoang dã, bảo tồn thiên nhiên.

– Tổ chức phi lợi nhuận vì Phát triển (Phi lợi nhuận, vì Phát triển): Các quỹ từ thiện/ tổ chức phi chính phủ (NGO), các hiệp hội vì cộng đồng, cứu tế v.v. hoạt động nhờ gây quỹ và quyên góp, ủng hộ từ thiện.

 

2.4 Liên kết 4 nhà để đổi mới, sáng tạo sản phẩm mới – tiềm năng Công ty (TNHH/Cổ phần) chuyển thành DNXH

Từ năm 2007, mô hình Công ty Cổ phần thương mại thực phẩm Trường xanh đã liên kết với bà con nông dân trồng cây Hồng hoa Hibicus tại Cát Bà. Đây là giống cây trồng rất phù hợp với địa hình và thổ nhưỡng khô cằn trên đảo đá vôi Cát Bà. Cây Hồng Hoa vừa dễ trồng vừa cho năng suất cao gấp 3-4 lần cây lúa, doanh thu mỗi ha đạt từ 80-100.000.000 đồng/ha/năm, thu hoạch từ 2-3 vụ/năm; góp phần tạo thêm nhu nhập cho các hộ dân trên đảo Cát Bà.

Song song với việc thu mua sản phẩm, Công ty hỗ trợ kỹ thuật, phân bón cho bà con; đồng thời đầu tư nghiên cứu, ứng dụng công nghệ chế biến các sản phẩm mới giá trị cao từ cây hồng hoa Cát Bà. Hiện nay Công ty đã phát triển được 07 sản phẩm từ loại đặc sản này, gồm: rượu vang hồng hoa, trà hồng hoa, mứt hồng hoa, nước giải khát hồng hoa, màu thực phẩm tự nhiên chiết xuất từ cánh hồng hoa, si-rô hồng hoa và rượu vodka hồng hoa (Hình 10). Các sản phẩm đã có mặt ở các siêu thị trong nước, tham gia nhiều hội chợ, triển lãm hàng nông nghiệp hữu cơ trong nước và quốc tế. Năm 2011-2013, Công ty đã thành công với dự án “Đối tác – Đổi mới – Sáng tạo”, được Bộ Khoa học & Công nghệ Việt Nam và Chính phủ Phần Lan hỗ trợ và đánh giá là 10/400 đề tài xuất sắc. Với triết lý hoạt động “Ngoài cái tâm còn phải có cả sự nhiệt huyết, đam mê”, Công ty đã và đang nhân rộng mô hình và hoạt động ra các huyện thuộc địa bàn Hải Phòng và nhiều tỉnh, thành phố khác; góp phần tạo sinh kế mới, nâng cao thu nhập, xóa nghèo cho bà con nông dân. Việc hỗ trợ doanh nghiệp phát triển các hoạt động liên kết, hợp tác với nông dân hoặc chuyển đổi sang mô hình DNXH là cần thiết để nhân rộng tác động xã hội của doanh nghiệp, góp phần thực hiện mục tiêu xóa nghèo, nâng cao thu nhập người dân.

 

Hình 10: Một số sản phẩm Nhãn hiệu Khu DTSQ Cát Bà

 

4. Thay lời kết

Doanh nghiệp xã hội có tiềm năng là một cách tiếp cận mới cho Phát triển bền vững. Phát triển bền vững, hay sự phát triển đem lại phồn vinh cho mọi người, hài hòa với thiên nhiên và tôn vinh các giá trị nhân văn là khát vọng và mục đích mà loài người đã và đang tìm kiếm xuyên qua hai thiên niên kỷ gần đây. Việc cùng nhau làm kinh tế, cùng chia sẻ quyền lợi và trách nhiệm về việc lựa chọn và vận hành công việc kinh tế chung đó – theo hướng vì mình, vì nhau và vì cộng đồng rộng lớn hơn – đã xuất hiện có lẽ còn sớm hơn từ giữa thế kỷ 17, với sự manh nha của mô hình hợp tác xã. Doanh nghiệp xã hội trong thế kỷ 21 cho thấy rằng, việc làm tế/kinh doanh vì tập thể, hoặc tập thể làm kinh tế/kinh doanh không nhất thiết chỉ gói gọn trong mô hình hợp tác xã. Kinh doanh bền vững cần phải vượt qua mục tiêu lợi nhuận và lợi ích chỉ dành riêng cho nhóm thành viên hay cổ đông. Xa hơn, lợi ích từ việc kinh doanh và giá trị của sự tồn tại của doanh nghiệp xã hội phải vươn tới cộng đồng rộng lớn hơn, xã hội, và môi trường sinh thái của Trái đất. DNXH đã cho thấy tiềm năng trở thành một cách tiếp cận mới và hiệu quả cho Phát triển bền vững ở mọi qui mô, lĩnh vực.

Khu DTSQ là một nền tảng thực tiễn đa ngành cho phát triển các loại hình DNXH. Các Khu dự trữ sinh quyển thế giới đáp ứng nhiều tiêu chí để trở thành bệ phóng vững chắc cho việc nhân rộng DNXH trên toàn cầu; trên nhiều lĩnh vực như bảo tồn thiên nhiên, bảo vệ môi trường, tăng trưởng xanh, sinh kế bền vững, quản lý tổng hợp vùng bờ, ứng phó biến đổi khí hậu và hợp tác quốc tế. Khu DTSQ Quần đảo Cát Bà đã và đang chứng tỏ vai trò là “phòng thí nghiệm học tập cho phát triển bền vững”, có nhiều tiềm năng, sáng kiến cho phát triển loại hình DNXH, phương châm “bảo tồn cho phát triển, phát triển cho bảo tồn”./.

 

 Thượng tướng, PGS.TS. Nguyễn Văn Thành,

Phó Chủ tịch HĐLL Trung ương

 

Tài liệu tham khảo:

CIEM 2014, Luật Doanh nghiệp (sửa đổi): Những thay đổi cơ bản và các vấn đề liên quan,

http://www.ciem.org.vn/Portals/0/CIEM/HoiNghiHoiThao/2014/Luat%20doanh%20nghiep_thay%20doi%20co%20ban_14_7_2014.pptx

ĐTCK 2016, Số lượng doanh nghiệp xã hội tăng đột biến, viewed on Oct 02, 2017, at http://tinnhanhchungkhoan.vn/dau-tu/so-luong-doanh-nghiep-xa-hoi-tang-dot-bien-173431.html

Sage,http://kanagawa.lti.cs.cmu.edu/11780/sites/default/files/10-guba_lincoln_94.pdf Ishwaran, N., Persic, A. & Tri, N.H.  (2008). Concept and practice: the case of UNESCO biosphere reserves, International Journal of Environment and Sustainable Development, 7(2): 118-131. DOI: https://doi.org/10.1504/ IJESD.2008.018358

Maani KE & Cavana RY 2007, Systems thinking, system dynamics: managing change and complexity.

Nguyen VT, Bosch OH & Nguyen NC 2019, Systems Thinking for Everyone: the journey from theory to making an impact in Vietnam.

Thành NV, Trí NH, Tuyên LT, 2020, Proposing a new paradigm for sustainable development, Presentation at the International Social Enterprise Conference, October 28-30, 2020, Galloway and South Ayrshire Biosphere, Scotland (unpublished work). UNESCO 2017, A New Roadmap for the Man and the Biosphere (MAB) Programme and its World Network of Biosphere Reserves: MAB Strategy (2015-2025), Lima Action Plan (2016-2025), Lima Declaration, viewed October 22, 2017, at 

http://unesdoc.unesco.org/images/0024/002474/247418E.pdf VNP 2016,

ViệtNam và sự lớn mạnh của cộng đồng DNXH, viewed on Oct 01, 2021, at https://vietnam.vnanet.vn/vietnamese/viet-nam-va-su-lon-manh-cua-cong-dong-dnxh/253069.html