Ngữ văn 9 – Dàn ý chung của bài văn nghị luận về một sự việc, hiện tượng đời sống

Bạn đang xem

20 trang mẫu

của tài liệu “Ngữ văn 9 – Dàn ý chung của bài văn nghị luận về một sự việc, hiện tượng đời sống”, để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

 MỘT SỐ DÀN Ý CHUNG 
 Dàn ý chung của bài văn nghị luận về một sự việc ,hiện tượng đời sống
 A. MB :
 - Giới thiệu sự việc, hiện tượng đời sống cần nghị luận :
 + Hoàn cảnh xã hội .
 + Nảy sinh sự việc ,hiện tượng gì ? 
 + Có ảnh hưởng tốt hay xấu với con người –xã hội ,cần phát huy hay ngăn chặn, giải quyết .
 B. TB :
 _ Thực trạng của sự việc, hiện tượng trong xã hội .(Nêu những biểu hiện cụ thể của sự việc, hiện tượng trong đời sống :Sự việc hiện tuong gì, biểu hiện như thế nào ? ai làm ? phạm vi ,mức độ )
 -Nguyên nhân :
+ Chủ quan ( ý thức, tình cảm của con người )
+ Khách quan ( về phía xã hội )
 _ Tác hại hay lợi ích của sự việc, hiện tượng 
 + Về vật chất 
 + Về tinh thần 
 + Về sức khoẻ 
 _ Các biện pháp để phát huy hay khắc phục ngăn chặn 
 + Với mọi người 
 + Vối bản thân .
C. KB. 
 _ Tầm quan trọng, ý nghĩa của việc giải quết sự việc, hiện tượng đời sống .
 _ Lời kêu gọi, khuyên nhủ với mọi người .
 Dàn ý chung của bài văn nghị luận về một vấn đề tư tưởng, đạo lí
 A .Mở bài : Dẫn dắt, giới thiệu vấn đề cần nghị luận ( giải thích, chứng minh)
 Có thể dẫn dắt từ nguồn gốc xuất xứ của vấn đề : tục ngữ, ca dao ,tác gia, lĩnh vực tư tưởng ,đạo lí. Có thể dẫn dắt từ tính thời sự cần thiết của vấn đề trong đời sống  Dù cách nào cũng phải nêu được vấn đề cần nghị luận( trích dẫn câu tục ngữ, ca dao, câu nói  ở đề bài ). Nhận định chung về ý nghĩa giá trị của vấn đề tư tưởng đạo lí
 B .Thân bài : 
1. Giải thích và chứng minh vấn đề tư tưởng đạo lí (Lần lượt nêu ra và trả lời các câu hỏi, nêu và phân tích các dẫn chứng để chứng minh)
 *Câu hỏi : nghĩa là gì ? Thế nào là ? Có ý nghĩa gì ?
 Thực chất của việc này là giải thích ý nghĩa của từ ngữ hình ảnh nằm trong những câu thơ, câu văn, câu tục ngữ, danh ngôn(cả nghĩa đen, nghĩa bóng )được nêu ở đề bài. Để trả lời các câu hỏi này có thể dùng phương pháp nêu định nghĩa, dùng từ đồng nghĩa trái nghĩa, hoặc nêu ví dụ.
Ví dụ trả lời các câu hỏi : Nguồn là gì ? Nghĩa bóng của “uống nước” là gì ? ta dùng phương pháp nêu định nghĩa, nêu ví dụ “ nguồn” là nơi bắt đầu phát sinh của dòng nước trong tự nhiên, nghĩa bóng chỉ công lao tạo nên thành quả của các thế hệ đi trước; “uống nước" là hưởng thụ thành quả ấy” ( dẫn chứng )
- Tuy nhiên trong một đề bài thường có nhiều từ, nhiều khái niệm cần lựa chọn những từ ngữ ,khái niệm quan trọng, mang ý nghĩa ẩn dụđể giải thích. Với những từ ngữ, khái niệm đã rõ ràng ai cũng hiểu được thì không cần giải thích. 
 *C âu hỏi :Vì sao,có tác dụng gì ?
 Đây là câu hỏi đặt ra để giải thích tầm quan trọng, tác dụng của vấn đề đối với cuộc sống. Đó là câu hỏi quan trọng giúp tìm ra lí lẽ để giải thích được nguyên nhân 
,lí do nảy sinh sự kiện vấn đề .Trả lời được các câu hỏi này mới chỉ ra bản chất của vấn để thuyết phục người đọc nghe theo. 
Để trả lời loại câu hỏi naỳ có thể dùng các phương pháp : Nêu nguyên nhân, nguồn gốc của vấn đề, chỉ ra mặt lợi nếu làm theo, mặt hại nếu không làm theo, nêu ra các biểu hiện của vấn đề trong đời sống  
Ví dụ : Vì sao “uống nước” phải “nhớ nguồn” ? “Uống nước nhớ nguồn” có tác dụng gì ?( Mọi thành quả đều do công lao vất vả của các thế hệ trước ,của người khác tạo ra khi mình là người hưởng thụ phải ghi, nhớ biết ơn đó là đạo lí làm người. “Uống nước nhớ nguồn” là lối sống đẹp, là truyền thống dân tộc )
*Câu hỏi : phải làm gì ? làm như thế nào ?
 -Thực chất của việc trả lời các câu hỏi trên là nêu các cách thực hiện làm theo vấn đề bằng cách nào : Chủ yếu dùng phương pháp nêu ví dụ, chỉ ra những việc làm, hành động cụ thể .
 Ví dụ : “Nhớ nguồn” ta phải làm gì ? Làm như thế nào ?( giữ gìn bảo vệ thành quả của người đi trước đã tạo ra, phát huy những thành quả ấy ,tạo ra thành quả cho thế hệ sau )
2. Bàn bạc mở rộng vấn đề 
 _ Phê phán các cách làm sai ,trái ngược với tư tưởng đạo lí 
 - Ca ngợi những cách làm đúng phù hợp với đạo lí, tư tưởng 
 - Liên hệ với các câu nói, ý kiến tương tự khác 
C.Kết bài : 
 -Nhấn mạnh cách hiểu đúng .
 -Liên hệ thực tế, rút ra bài học .
 Dàn ý chung của bài văn nghị luận về một tác phẩm văn học (thơ, truyện )
A .MB 
 - Giới thiệu khái quát về tác giả ( tên, đặc đặc điểm sáng tác : thường sáng tác về đề tài gì ? thành tựu nổi bật, )
 _ Giới thiệu tác phẩm, vấn đề cần nghị luận ( Nội dung của tác phẩm hoặc nhân vật )
 B. Thân bài 
 - Lần lượt nêu những nhận xét đánh giá về nội dung ,nghệ thuật của tác phẩm ( các luận điểm ) và phân tích các dẫn chứng để làm rõ những nhận xét đánh giá ấy .
 *Cách nêu luận điểm và phân tích :
_Đối với tác phẩm truyện hoặc đoạn trích :
 + Lần lượt nêu từng luận điểm ( nhận xét đánh giá) có thể về phẩm chất ,tính cách của nhân vật có thể về nội dung tư tưởng của truyện ; sau đó nêu các sự việc ,hành động ,việc làm ,suy nghĩ, lời nói, cách đối của nhân vật làm dẫn chứng để làm rõ từng luận điểm .
+Cách viết đoạn văn trình bày luận điểm phân tích cảm nhận về nội dung của tác phẩm truyện hoặc về nhân vật : Thực hiện theo các bước sau :
 ( 1)Nêu luận điểm ( nhận xét về phẩm chất nhân vật hoặc nội dung của tác phẩm )
 (2) Kể lại các suy nghĩ, việc làm, lời nói, cách ứng xử của nhân vật và phân tích để làm rõ luận điểm .
 (3) Khái quát nâng cao giá trị nội dung tư tưởng hoặc cảm nghĩ ấn tượng về phẩm chất của nhân vật. 
+ Nêu luận điểm nhận xét về nghệ thuật của tác phẩm và giá trị của chúng trong việc thể hiện nội dung : nhận xét về ngôi kể, cốt truyện, tình huống truyện, cách miêu tả tâm lí nhân vật, ngôn ngữ nhân vật .
 _ Đối với tác phẩm thơ 
 + Lần lượt nêu từng luận điểm ( nhận xét đánh giá) về nội dung ,nghệ thuật của từng khổ thơ, đoạn thơ sau đó trích dẫn các câu thơ làm dẫn chứng và phân tích để làm rõ từng luận điểm .
 +Cách viết đoạn văn trình bày luận điểm phân tích cảm nhận về câu thơ, khổ thơ: thực hiện theo các bước sau 
Trích dẫn câu thơ, khổ thơ
 Nêu nội dung của khổ thơ, câu thơ ( trả lời câu hỏi câu thơ, khổ thơ ấy tả cảnh gì, tình gì ? cảnh và tình ấy như thế nào)
. Phân tích các từ ngữ, hình ảnh, giọng điệu, biện pháp tu từ đã thể hiện tình và cảnh ấy như thế nào ?
 Khái quát nâng cao giá trị nội dung, giá trị biểu cảm của câu thơ ,khổ thơ .
Giữa các đoạn văn cần có từ ngữ chuển đoạn, liên kết .
Có thể liên hệ với các nhân vật, câu thơ  ở tác phẩm khác để mở rộng vấn đề .
C.KB :
 _ Khái quát, nâng cao giá trị nội dung tư tưởng, nghệ thuật của tác phẩm, vai trò của tác giả .
 MỘT SỐ DÀN Ý ,BÁI THAM KHẢO CỤ THỂ
 Phân tích ,cảm nhận bài thơ : “Con Cị”. 
A. Mở bài: 
- Chế Lan Viên là nhà thơ xuất sắc của nền thơ hiện đại Việt Nam. Đọc thơ ơng, người đọc cĩ thể rút ra từ đĩ những triết lí sâu sắc về tình yêu, cuộc sống con người. 
- Bài thơ “Con Cị” thể hiện khá rõ một số nét của phong cách NT Chế Lan Viên. Bài thơ được sáng tác năm 1962 in trong tập thơ “Hoa ngày thường chim báo bão” của ơng. 
- Thơng qua một cánh cị tượng trưng dập dìu trong lời ru, câu hát, Chế Lan viên đã đi đến những khái quát sâu sắc về tình yêu thương của người mẹ và ý nghĩa của lời ru đối với cuộc đời mỗi con người.
B. Thân bài: 
1. Luận điểm 1: Hình ảnh con cị “trong lời mẹ hát” đi vào giấc ngủ của con.
- Ở đoạn đời đầu tiên, khi con cịn ẵm ngửa, tình mẹ gửi trong từng câu hát ru quen thuộc: 
Con cị bay la
..
Cị sợ xáo măng”
- Hình ảnh con cị cứ thấp thống gợi ra từ những câu ca dao dùng làm lời hát ru rất phong phú về nội dung và biểu tượng. Ở đây, nhà thơ chỉ dùng lại vài từ trong mỗi câu ca dao xưa vừa gợi lại lời ru, vừa gợi lại ít nhiều sự phong phú trong ý nghĩa biểu tượng củ hình ảnh con cị. Trong câu hát ru cĩ hình ảnh quê hương, cĩ cánh đồng cị bay thẳng cánh, cĩ hình ảnh những cuộc đời lam lũ, tảo tần một nắng hai sương nuơi con khơn lớn, cĩ những số phận đắng cay tủi nhục và cĩ cả tình yêu thương bao la, những vỗ về âm yếm mẹ luơn dành cho con. Con cịn “bế trên tay”, nào biết được ý nghĩa của những câu ca dao trong lời ru của mẹ: 
Con cị bay lả bay la
Bay từ cổng Phủ bay ra cánh đồng
Con cị bay lả bay la
Bay từ cửa phủ, bay về Đồng Đăng
Con cị mà đi ăn đêm
Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao
Nhưng qua lời ru, hình ảnh con cị đã đi vào tâm hồn trẻ thơ một cách vơ thức, và theo đĩ là cả điệu hồn dân tộc. Đứa trẻ được võ về trong những âm điệu ngọt ngào, dịu dàng của lời ru để đĩn nhận bằng trực giác tình yêu và sự chở che của mẹ. 
- Thấm đẫm trong lời hát là những xúc cảm yêu thương trào dâng trong trái tim của mẹ:
“Cị một mình cị phải kiếm lấy ăn
Con cĩ mẹ con chơi rồi lại ngủ”
Và:
“ngủ yên, ngủ yên, cị ơi chớ sợ
Cành cĩ mềm mẹ đã sẵn tay nâng”
Mẹ thương con cị trong ca dao lận đận, mẹ dành cho con bao tình yêu thương, cánh tay dịu hiền của mẹ, che chở cho con, lời ru câu hát êm đềm và dịng sữa mẹ ngọt ngào đã nuơi con khơn lớn. Tình mẹ nhân từ, rộng mở với những gì nhỏ bé đáng thương, đáng được che chở. Lời thơ như nhịp vỗ về thể hiện sự yêu thương dào dạt vơ bờ bến. 
- Những cảm xúc yêu thương ấy làm nên chiều sâu của lời ru, mang đến cho con giấc ngủ yên bình, hạnh phúc trong sự ơm ấp, chở che của tiếng ru lịng mẹ:
Trong lời ru của mẹ thấm hơi xuân
Con chưa biết con cị, con vạc
Con chưa biết những cành mềm mẹ hát
Sữa mẹ nhiều con ngủ chẳng phân vân.
 Vì thế, cho dù khơng hiểu, cho dù là cảm nhận vơ thức nhưng trái tim bé nhỏ của con đã được hiểu thế nào là tình mẹ. Đoạn thơ khép lại bằng những hình ảnh thanh bình của cuộc sống, bằng những giấc nồng say của trẻ thơ.
2. Luận điểm 2: Hình ảnh con cị trong đoạn 2
Nếu ở đoạn 1, cánh cị trong lời ru của mẹ là điểm khởi đầu, xuất phát, thì sang đoạn 2, cánh cị đã trở thành người bạn tuổi ấu thơ, theo cùng con người trên mỗi chặng đường đi tới, thành bạn đồng hành của con người trong suốt cuộc đời. 
- Bằng sự liên, tưởng tượng phong  ... ờng ra trận. 
=> Quả thực, đĩ là những cơ gái mang trong mình những tính cách tưởng như khơng thể cùng tồn tại : vơ cùng gan dạ, dũng cảm trong chiến đấu mà vẫn hồn nhiên, vơ tư trong cuộc sống. Những người như họ thật đáng trân trọng biết bao !
b. Nét riêng : 
- Mỗi người thể hiện cái chung đĩ theo cách riêng của mình. 
+ Chị Thao, tổ trưởng, ít nhiều cĩ từng trải hơn, mơ ước và dự tính về tương lai cĩ vẻ thiết thực hơn, nhưng cũng khơng thiếu nhưng khát khao và rung động của tuổi trẻ. « Áo lĩt của chị cái nào cũng thêu chỉ màu ».Chị lại hay tỉa đơi lơng mày của mình, tỉa nhỏ như cái tăm. Nhưng trong cơng việc, ai cũng gờm chị về tính cương quyết, táo bạo. ĐẶc biệt là sự « bình tĩnh đến phát bực » : máy bay địch đến nhưng chị vẫn « mĩc bánh quy trong túi, thong thả nhai ». Cĩ ai ngờ con người dày dạn trước sự sống và cái chết hàng ngày như thế lại sợ máu, sợ vắt: « thấy máu, thấy vắt là chị nhắm mắt lại, mặt tái mét ».Và khơng ai cĩ thể quên được chị hát : nhạc sai bét, giọng thì chua, chị chăm chép bài hát dù chẳng thuộc nhạc, giọng lại chua, chị khơng hát trơi chảy được bài nào nhưng chị lại cĩ ba quyển sổ dày chép bài hát và rỗi là chị ngồi chép bài h át. 
+ Nho là một cơ gái trẻ, xinh xắn, « trơng nĩ nhẹ, mát mẻ như một que kem trắng », cĩ « cái cổ trịn và những chiếc cúc áo nhỏ nhắn » rất dễ thương khiến Phương Định « muốn bế nĩ lên tay ». Nho rất thích tắm suối ngay cả khi khúc suối đĩ đang chứa bom nổ chậm và rất hồn nhiên – cái hồn nhiên của trẻ thơ : « vừa tắm ở dưới suối lên, cứ quần áo ướt, Nho ngồi, địi ăn kẹo ». Hồn nhiên là thế nhưng cơ lại bình thản vơ cùng khi bị thương : « Khơng chết đâu. Đơn vị đang làm đường kia mà. Việc gì phải khiến cho nhiều người lo lắng ». Ngay cả lúc đau đớn như vậy nhưng gặp mưa đá, Nho vẫn nhổm dậy, mơi hé mở xoè tay xin mấy viên đá mưa : « Nào, mày cho tao mấy viên nữa ». Đặc biệt, khi máy bay giặc đến thì chiến đấu rất dũng cảm, hành động thật nhanh gọn : « Nho cuộn trịn cái gối, cất nhanh vào túi », Nho quay lưng lại chúng tơi, chụp cái mũ sắt lên đầu »  Và trong một lần phá bom, cơ đã bị sập hầm, đất phủ kín lên người. Cĩ lẽ với những người con gái ấy, sự sống luơn cao hơn cái chết.
+ Phương Định là cơ gái để lại nhiều ấn tượng sâu sắc trong lịng ta. Phương Định cũng trẻ trung như Nho là một cơ học sinh thành phố xinh đẹp, dũng cảm trong lửa đạn, giàu yêu thương đồng đội. Cơ rất nhạy cảm và hồn nhiên, thích mơ mộng và hay sống với những kỉ niệm của tuổi thiếu nữ vơ từ về gia đình và về thành phố của mình. (d/c). Ở đoạn cuối truyện, sau khi trận mưa đá tạnh, là cả một dịng thác kỉ niệm về gia đình, về thành phố trào lên và xốy mạnh như sĩng trong tâm trí cơ gái. Cĩ thể nĩi đây là những nét riêng của các cơ gái trẻ Hà Nội vào chiến trường tham gia đánh giặc, tuy gian khổ nhưng vẫn giữ được cái phong cách riêng của người Hà Nội, rất trữ tình và đáng yêu.
Những nét riêng đĩ đã làm cho các nhân vật sống hơn và cũng đáng yêu hơn. Trái tim đỏ rực của họ là « những ngơi sao xa xơi » mãi mãi lung linh, toả sáng. 
C. Kết luận.
- Chiến tranh đã qua đi, sau hơn ba mươi năm, nhưng đọc truyện « Những ngơi sao xa xơi » của Lê Minh Khuê, ta như được sống lại những năm tháng hào hùng của đất nước. Nhà văn khiến lịng ta sống lại hình ảnh tuyệt đẹp và những chiến cơng phi thường của tổ trinh sát mặt đường, của Định, của Nho, của Thao, của hàng ngàn, hàng vạn cơ thanh niên xung phong thời chống Mĩ. Chiến cơng thầm lặng của họ mãi mãi là một bài ca bất tử.
Đề 2 : Cảm nghĩ về nhân vật Phương Định trong truyện ngắn « Những ngơi sao xa xơi » của Lê Minh Khuê
A. Mở bài : 
 - Giới thiệu con đường Trường Sơn trong kháng chiến chống Mĩ - được coi là biểu tượng anh hùng của cuộc chiến đấu giành độc lập tự do. 
- Nhà văn Lê Minh Khuê đã từng là thanh niên xung phong trên tuyến đường TS máu lửa. 
- Những tác phẩm của chị viết về cuộc sống chiến đấu của bộ đội và thanh niên xung phong ở đây đã gây được sự chú ý của bạn đọc mà truyện ngắn « những ngơi sao xa xơi » là một trong những tác phẩm ấy. 
- Truyện viết về 3 cơ gái trong một tổ trinh sát mặt đường làm nhiệm vụ phá bom trên tuyến đường TS đạn bom khốc liệt. Phương Định, nhân vật kể chuyện cũng là nhân vật chính để lại nhiều ấn tượng đẹp và tình cảm sâu sắc trong lịng người đọc. 
B. Thân bài. 
1. Cảm nhận về tính hồn nhiên, ngây thơ, tinh nghịch của Phương Định. 
+ Phương Định là một cơ gái xinh xắn. Cũng như các cơ gái mới lớn, cơ nhạy cảm và quan tâm đến hình thức của mình. Chiến trường khốc liệt nhưng khơng đốt cháy nổi tâm hồn nhạu cảm của cơ. Cơ biết mình đẹp và được nhiều người để ý : « Tơi là con gái Hà Nội. Nĩi một cách khiêm tốn, tơi là một cơ gái khá.. » ; cịn mặt tơi thì các anh lái xe bảo « : Cơ cĩ cái nhìn sao mà xa xăm ». Điều đĩ làm cơ thấy vui và tự hào. 
+ Biết mình được cánh lính trẻ để ý nhưng cơ « khơng săn sĩc, vồn vã », khơng biểu lộ tình cảm của mình, nhưng chưa để lịng mình xao động vì ai : « thường đứng ra xa, khoanh tay lại trước ngực và nhìn đi nơi khác, mơi mím chặt ». Đĩ là cái vẻ kiêu kì đáng yêu của các cơ gái Hà Nội như chính cơ đã thú nhận : « chẳng qua là tơi điệu đấy thơi ». 
- Những thử thách và nguy hiểm ở chiến trường, thậm chí cả cái chết khơng làm mất đi ở cơ sự hồn nhiên trong sáng và những ước mơ về tương lai. Phương Định vẫn là người con gái nhậy cảm, hồn nhiên, hay mơ mộng và thích hát. 
- Cơ đem cả lịng say mê ca hát vào chiến trường TS ác liệt. Cơ thích hát những hành khúc bộ đội, những bài dân ca quan họ, dân ca Nga, dân ca Ý. Giọng của Phương Định chắc là hay lắm nên « chị Thao thường yêu cầu cơ hát đấy sao » ? Định cịn cĩ tài bịa ra lời bài hát nữa. Chị Thao đã ghi cả vào sổ những lời hát cơ bịa ra.
- Cơ luơn yêu mến đồng đội của mình, yêu mến và cảm phục tất cả các chiến sĩ mà cơ gặp trên truyến đường Trường Sơn.
- Phương Định là nữ sinh của thủ đơ thanh lịch bước vào chiến trường. Phương Định cĩ một thời học sinh- cái thời áo trắng ngây thơ, hồn nhiên và vơ tư lự của cơ thật vui sướng ! Những hồi niệm của cơ về thời học sinh thật đáng yêu  luơn sống trong cơ ngay giữa chiến trường. 
- Cơn mưa đá ngắn ngủi đột ngột xuất hiện ở cuối truyện, ngay sau trận phá bom đầy nguy hiểm cũng thức dậy trong cơ bao niềm vui thơ trẻ : cơ nhớ về mẹ, cái cửa sổ căn nhà, những ngơi sao to trên bầu trời thành phố Nĩ thức dậy những kỉ niệm và nỗi nhớ về thành phố, gia đình, về tuổi thơ thanh bình của mình. Nĩ vừa là niềm khao khát, vừa làm dịu mát tâm hồn trong hồn cảnh, khốc liệt và nĩng bỏng của chiến trường. 
2. Cảm nhận về chất anh hùng trong cơng việc của cơ. 
- Là một nữ sinh, Phương Định xung phong ra mặt trận, cùng thế hệ của mình « xẻ dọc TS đi cứu nước – mà lịng phơi phới dậy tương lai » để giành độc lập tự do cho TQ. Cơ ra đi mà khơng tiếc tuổi thanh xuân, nguyện dâng hiến hết mình cho Tổ quốc. 
+ Cơ kể : « chúng tơi cĩ ba người. Ba cơ gái. Chúng tơi ở trong một cái hang dưới chân cao điểm. Con đường đi qua trước hang bị đánh lở loét, màu đất đỏ, trắng lẫn lộn. Hai bên đường khơng cĩ lá xanh. Chỉ cĩ thân cây bị tước khơ cháy. Trên cao điểm trống trơn, cơ và các bạn phải chạy giữa ban ngày phơi mình ra giữa vùng trọng điểm đánh phá của máy bay địch. 
+ Cơ nĩi về cơng việc của mình gọn gàng khơ khốc, tĩnh nhẹ như khơng : « việc của chúng tơi là ngồi đây. KHi cĩ bom nổ thì chạy lên, đo khối lượng đất lấp vào hố bom, đếm bom chưa nổ và nếu cần thì phá bom ». 
+ P Đnghĩ về cơng việc của mình quá giản dị, cơ cho là cái thú riêng : « cĩ ở đâu như thế này khơng : đất bốc khĩi, khơng khí bàng hồng, máy bay đang ầm ĩ xa dần. Thần kinh căng như chão, tim đập bất chấp cả nhịp điệu, chân chạy mà vẫn khơng hay biết rằng khắp xung quanh cĩ nhiều quả bom chưa nổ. Cĩ thể nổ bây giờ, cĩ thể chốc nữa. Nhưng nhất định sẽ nổ ». Giản dị mà cũng thật anh hùng. Chiến tranh và đạn bom đã làm cơ lớn lên, trở thành dũng sĩ mạnh mẽ mà cơ khơng hề biết. Thật đáng phục !
3. Cảm nhận về tình thần dũng cảm trong một cuộc phá bom đầy nguy hiểm. 
- Lúc đến gần quả bom : 
+ Trong khơng khí căng thẳng và vắng lặng đến rợn người, nhưng rồi một cảm giác bỗng đến với cơ làm cơ khơng sợ nữa : « tơi đến gần quả bom. Cảm thấy ánh mắt cás chiến sĩ dõi theo mình, tơi khơng sợ nữa. Tơi sẽ khơng đi khom. Các anh ấy khơng thích cái kiểu đi khom khi cĩ thể cứ đàng hồng mà bước tới ». Lịng dũng cảm của cơ như được kích thích bởi sự tự trọng. 
+ Và khi đã ở bên quả bom, kề sát với cái chết cĩ thể đến tức khắc, từng cảm giác của cơ như cũng trở nên sắc nhọn hơn và căng như dây đàn : « thỉnh thoảng lưỡi xẻng chạm vào quả bom. Một tiếng động sắc đến gai người cứa vào da thịt tơi, tơi rùng mình và bỗng thấy tại sao mình làm quá chậm. Nhanh lên một tí ! Vỏ quả bom nĩng. Một dấu hiệu chẳng lành ». Thần chết nằm chực ở đĩ chờ phút ra tay. Cơ phải nhanh hơn, mạnh hơn nĩ, khơng được phép chậm chễ một giây.
- Tiếp đĩ là cảm giác căng thẳng chờ đợi tiếng nổ của quả bom. Thật đáng sợ cái cơng việc chọc giận Thần Chết đĩ. Ai dám chắc là quả bom sẽ khơng nổ ngay bây giờ, lúc Phương định đang lúi húi đào đào, bới bới ấy. Thế mà cơ vẫn khơng run tây, vẫn tiếp tục cái cơng việc đáng sợ : « tơi cẩn thận bỏ gĩi thuốc mình xuống cái lỗ đã đào, châm ngịi. Tơi khoả đất rồi chạy lại chỗ ẩn nấp của mình : liệu mìn cĩ nổ, bom cĩ nổ khơng ? Khơng thì làm cách nào để châm mìn lần thứ hai.. Nhưng quả bom nổ. Một thứ tiếng kì quái đến váng ĩc. Ngực tơi nhĩi, mắt cay mãi mới mở ra được. Mùi thuốc bom buồn nơn. Ba tiếng nổ nữa tiếp theo. Đất rơi lộp bộp, tan đi âm thanh trong những bụi cây. Mảnh bom xé khơng khí, lao và rít vơ hình trên đầu. Bốn quả bom đã nổ. Thắng rồi ! Nhưng một đồng đội đã bị bom vùi ! Máu túa ra từ cánh tay Nho, túa ra, ngấm vào đất. Da xanh, mắt nhắm nghiền, quần áo đầy bụi ». Nhưng khơng ai được khĩc trong giờ phút rất cần sự cứng cỏi của mỗi người. 
- Cái cơng việc khủng khiếp bĩp nghẹt trái tim ấy khơng chỉ đến một lần trong đời mà đến hàng ngày : « Quen rồi. Một ngày tơi phá bom đến năm lần. Ngày nào ít : ba lần. Tơi cĩ nghĩ đến cái chết. Nhưng một cái chết mờ nhạt, khơng cụ thể. » 
=>Cảm xúc và suy nghĩ chân thực của cơ đã truyền sang cho người đọc nỗi niềm đồng cảm yêu mến và sự kính phục. Một cơ nữ sinh nhỏ bé, hồn nhên, giàu mơ mộng và nhạy cảm mà cũng thật anh hùng, thật xứng đáng với những kì tích khắc nghi trên những tuyến đường TS bi tráng. Một ngày trong những năm tháng TS của cơ là như vậy. Những trang lịch sử TS khơng thể quên ghi một ngày như thế. 
C. Kết luận. 
- Chúng ta luơn tự hào về những chiến sĩ, những thanh niên xung phong TS như Phương Định và đồng đội của cơ. Lịch sử những cuộc kháng chiến và chiến thắng hào hùng của dân tộc khơng thể thiếu những tấm gương như cơ và thế hệ những người đã đổ máu cho nền độc lập của Tổ Quốc. 
- Chúng ta càng yêu mến tự hào về cơ, càng biết ơn và học tập tinh thần của những người như cơ trong cơng cuộc xây dựng đất nước hơm nay.