Cơ sở tế bào và phân tử của ung thư – Huyết học và ung thư học – Cẩm nang MSD – Phiên bản dành cho chuyên gia
Estrogen trong thuốc ngừa thai đường uống có thể làm tăng nhẹ nguy cơ ung thư vú, nhưng nguy cơ này giảm theo thời gian. Chỉ sử dụng riêng Estrogen cho liệu pháp thay thế horrmone cũng làm tăng nguy cơ ung thư vú. Sử dụng Estrogen và progesterone kết hợp làm tăng nguy cơ ung thư vú và ung thư buồng trứng tương tự như chỉ sử dụng riêng estrogen. Những rủi ro gia tăng này ở mức độ vừa phải.
Diethylstilbestrol (DES) làm tăng nguy cơ ung thư vú ở những phụ nữ dùng thuốc và tăng nguy cơ ung thư âm đạo ở con gái của những phụ nữ này đã dùng thuốc trước khi sinh.
Sử dụng lâu dài các steroid tổng hợp có thể làm tăng nguy cơ ung thư gan và tăng tốc ung thư tuyến tiền liệt.
Điều trị ung thư bằng hóa trị đơn thuần hay kết hợp với xạ trị làm tăng nguy cơ phát sinh ung thư thứ hai. Bệnh ung thư thường gia tăng do dùng thuốc ức chế miễn dịch là hội chứng loạn sản tủy và bệnh bạch cầu cấp dòng tủy. Hydroxyurea làm tăng nguy cơ ung thư da do tiếp xúc với ánh nắng mặt trời, ngoài ra còn làm tăng nguy cơ mắc bệnh bạch cầu cấp tính ở những bệnh nhân bị rối loạn tăng sinh tủy (ví dụ, bệnh đa hồng cầu, tăng tiểu cầu) được điều trị lâu dài bằng hydroxyurea.
Chất hóa học gây ung thư có thể gây đột biến gen và dẫn đến sự tăng sinh không kiểm soát và hình thành khối u (xem bảng Các chất hóa học phổ biến gây ung thư Hóa chất thường gặp gây ung thư ). Các chất khác, được gọi là hiệp đồng gây ung thư, có ít hoặc không có tiềm năng gây ung thư nhưng tăng cường khả năng gây ung thư của tác nhân khác khi phơi nhiễm đồng thời.
Bảng