Cơ cấu xã hội, phân tầng xã hội – quá trình nghiên cứu lý luận và ứng dụng thực tiễn

Thứ tư, 02 Tháng 11 2022 09:26

2165 Lượt xem

(LLCT) – Cơ cấu xã hội và phân tầng xã hội là những nội dung then chốt của xã hội học. Trong bài viết, tác giả rà soát và đúc rút khái quát những bước tiến trong sự phát triển lý luận về cơ cấu xã hội, phân tầng xã hội, những ứng dụng thực tiễn ở nước ta.

Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội là một mục tiêu cao cả và định hướng mạnh mẽ của Chính phủ Việt Nam từ khi lập nước đến nay – Ảnh: tuyengiao.vn

Cơ cấu xã hội, phân tầng xã hội (CCXH, PTXH) là những nội dung được trao đổi, thảo luận khá đa dạng trong các nhà xã hội học cũng như một số bộ môn khoa học xã hội lân cận. Những nội dung này đã được tác giả tập trung nghiên cứu từ những năm đầu thập niên 90 thế kỷ XX, mở đầu bằng bài báo đăng trên Tạp chí Xã hội học, số 4-1992: Phân tích cơ cấu xã hội từ giác độ xã hội học, và bài báo: Góp phần tìm hiểu khái niệm phân tầng xã hội đăng trên Tạp chí Xã hội học, số 3-1993, và sau đó đã xuất bản cuốn sách Cơ cấu xã hội và phân tầng xã hội (Nxb Chính trị quốc gia, năm1998), cuốn sách được tái bản có bổ sung tại Nxb Lý luận chính trị (năm 2005).

Theo hướng nghiên cứu như vậy, tác giả tiếp tục đưa ra khái niệm cơ cấu – giai tầng xã hội nhằm kịp thời phản ánh những biến đổi trong cơ cấu xã hội nước ta, sự ra đời, biến đổi của tầng lớp trung lưu – “tầng lớp xã hội ưu trội”; đồng thời, tác giả cũng đưa ra những dự báo, khuyến nghị, giải pháp với các cấp, các ngành và cùng các tổ chức, cá nhân nhà khoa học tiếp tục nghiên cứu và đưa ra những khuyến nghị chính sách nhằm thúc đẩy mạnh mẽ tầng lớp trung lưu, tầng lớp doanh nhân, đặc biệt là những doanh nhân ưu tú, tiêu biểu. Cuốn sách cũng được tái bản có bổ sung vào cuối năm 2019 có tên là Cơ cấu xã hội – phân tầng xã hội và phát triển xã hội bền vững.

Trong 30 năm qua, nhiều bài báo có nội dung trực tiếp hoặc liên quan đến CCXH và PTXH đã được công bố trên các tạp chí, kỷ yếu khoa học, sách… Những nội dung đó đã được nghiên cứu, mở rộng và phát triển thành các chuyên đề CCXH và PTXH trong các sách chuyên khảo, giáo trình.

1. Về cơ cấu xã hội

Trước đổi mới, chúng ta chưa có nhiều những nghiên cứu về CCXH. Hơn nữa, CCXH chủ yếu được nghiên cứu từ tiếp cận của bộ môn chủ nghĩa duy vật lịch sử – thực chất là nghiên cứu theo hướng tiếp cận của quan niệm về hình thái kinh tế – xã hội.

Theo hướng tiếp cận này, xã hội được xem xét như một “mô hình cấu trúc phân đôi”, rằng bất kỳ một xã hội nào, nếu nhìn một cách đại thể, khái quát thì cũng luôn là một thể thống nhất bao hàm trong đó hai thành tố cơ bản: Cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng.

Cũng trên cơ sở của một sự phân tích như vậy, chủ nghĩa duy vật lịch sử chủ yếu chỉ tập trung vào việc xem xét mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội, cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng, khẳng định quyết định luận duy vật lịch sử, rằng tồn tại xã hội là cái quyết định ý thức xã hội, cơ sở hạ tầng là cái quyết định kiến trúc thượng tầng.

Bộ môn duy vật lịch sử không coi CCXH là đối tượng nghiên cứu trực tiếp của mình. Đối tượng của nó là mối quan hệ cơ bản giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội, cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng, các quy luật chung nhất của xã hội lịch sử hay nói một cách khác, là những quy luật của chủ nghĩa duy vật biện chứng được biểu hiện trong đời sống xã hội.

Trong khi nghiên cứu CCXH, bộ môn chủ nghĩa duy vật lịch sử cũng như bộ môn chủ nghĩa xã hội khoa học (trước đây) chủ yếu tập trung vào việc phân tích CCXH giai cấp và mối quan hệ giữa các giai cấp, tầng lớp xã hội. Các phân hệ CCXH khác như CCXH nghề nghiệp, CCXH dân số, CCXH lãnh thổ, CCXH dân tộc, CCXH tôn giáo chỉ được đề cập đến trong một chừng mực nhất định.

Cũng trên một tuyến phân tích như vậy, bộ môn này chỉ đặt tiêu điểm vào sự phân tích và làm sáng tỏ mức độ khắc phục những sự khác biệt xã hội và xu hướng phân hóa xã hội, từ đó đưa xã hội đến sự đồng nhất, thuần nhất.

Ngoài sự phân tích trên, ở Việt Nam trước đổi mới cũng có một số sách xã hội học về CCXH, được dịch từ tiếng Anh, tiếng Nga, tiếng Bungari; đồng thời, cũng có một số bài báo của các nhà khoa học Việt Nam viết về CCXH. Những sách và bài báo này đã gợi mở những hướng nghiên cứu và thúc đẩy tích cực hơn nữa sự phát triển tư duy về CCXH.

Tuy nhiên, trong các tài liệu đã có, các nhà khoa học chưa sử dụng giác độ tiếp cận của khoa học tự nhiên vào xem xét, định nghĩa CCXH.

Trên cơ sở tổng kết, khái quát, kế thừa một cách có phê phán các quan niệm đã có về CCXH và trong một chừng mực nhất định có sự bổ sung và phát triển, tác giả đưa ra định nghĩa sau đây về CCXH: “cơ cấu xã hội là kết cấu và hình thức tổ chức bên trong của một hệ thống xã hội nhất định – biểu hiện như là sự thống nhất tương đối bền vững của các yếu tố, các mối quan hệ, các thành phần cơ bản nhất cấu thành nên xã hội. Những thành phần này tạo ra “bộ khung” cho tất cả xã hội loài người. Những thành tố cơ bản nhất của cơ cấu xã hội là nhóm với vị thế, vai trò xã hội, mạng lưới và các thiết chế”.

Đặc trưng thứ nhất của định nghĩa trên đã thể hiện sự tiếp cận từ triết học và khoa học tự nhiên trong xem xét xã hội, coi xã hội như là một khách thể vật chất đặc thù có kết cấu và hình thức tổ chức bên trong của nó. Đưa đặc trưng này vào định nghĩa đã mang lại một cách nhìn mới mẻ, duy vật về CCXH. Bởi, cũng như mọi khách thể vật chất khách quan khác, xã hội là một khách thể vật chất có kết cấu. Và điều quan trọng là, nghiên cứu CCXH để hiểu được đặc trưng, đặc tính của nó. Chỉ có thể hiểu một xã hội như là một hệ thống khi đi vào phân tích cơ cấu của nó.

Tuy nhiên, không đồng nhất xã hội với các khách thể vật chất tự nhiên nói chung (không đặt dấu ngang bằng giữa xã hội với các khách thể vật chất thuần túy khác). Vì vậy, khi phân tích CCXH, thay vì cho việc đặt ra câu hỏi: Nguyên tử được cấu thành từ những phần tử vật chất nào… hay hệ thống mặt trời gồm những hành tinh nào, được sắp xếp vận hành ra sao thì khi áp dụng vào xã hội, chúng ta cần đặt câu hỏi: xã hội bao gồm những thành phần (các giai cấp, tầng lớp, tổ chức, đảng phái, nghề nghiệp) nào và nó được cấu thành như thế nào (tức là nó được sắp xếp, tổ chức, phân bố ra sao, theo mô hình gì?).

Đặt ra và trả lời hai câu hỏi này có nghĩa là bước đầu chúng ta đã sử dụng giác độ tiếp cận của xã hội học vào việc phân tích CCXH. Nó cho phép nhận diện và phân biệt được một xã hội này với một xã hội khác. Thí dụ, sự khác biệt giữa xã hội công xã nguyên thủy với xã hội phong kiến, tư bản; sự khác nhau giữa một quốc gia dân chủ với một chính thể chuyên chế. Theo đó, cũng đánh giá được bản chất, trình độ của một xã hội nhất định nào đó.

Quán triệt đặc trưng đầu tiên này giúp khắc phục được quan niệm đơn giản trước đây của một số nhà xã hội học về CCXH, coi CCXH chỉ như là một tập hợp, một tổng thể các giai cấp, các cộng đồng người tồn tại bên cạnh nhau hoặc chỉ có quan hệ qua lại đơn thuần với nhau mà đã bỏ qua, không tính tới mặt kết cấu, tổ chức – một đặc tính không thể thiếu của mọi khách thể vật chất.

Như chúng ta đã biết, kim cương được cấu thành từ cácbon… nó rất cứng. Một mũi khoan hay một lưỡi cưa bằng kim cương có thể khoan thủng hay cắt đứt được một thanh kim loại cứng (như sắt, thép). Than bùn cũng được cấu thành từ cácbon, song do cấu trúc, sắp xếp như thế nào đấy chúng ta có thể bóp nát trong tay. Xã hội cũng vậy, cũng là những con người ấy, song nếu được tổ chức một cách khoa học, chặt chẽ, chúng ta sẽ có một tổ chức đồng thuận, đoàn kết, vững mạnh, năng động, làm việc có năng suất, chất lượng cao. Song, một khi tổ chức một cách lỏng lẻo, nó có thể sẽ trở thành một đám đông rời rạc, lỏng lẻo, yếu kém, thường xuyên xung đột hoặc hỗn loạn.

Đặc trưng thứ hai của định nghĩa: “cơ cấu xã hội là sự thống nhất giữa hai thành tố: các thành phần xã hội và các quan hệ xã hội”, trước hết, nó cho phép chúng ta có một cách nhìn đơn giản hóa song mang tính khái quát về một xã hội phức tạp. Bằng cách nhóm lại rất nhiều các yếu tố, thành tố khác nhau về hai thành tố cơ bản: các thành phần xã hội và các quan hệ xã hội (các thành phần xã hội bao gồm các giai cấp, tầng lớp, tổ chức, đoàn thể, nghề nghiệp xã hội; các quan hệ xã hội liên hệ gắn kết các thành phần xã hội thành một chỉnh thể thống nhất, một hệ thống xã hội hoàn chỉnh).

Đặc trưng này của định nghĩa đã mang lại một cách nhìn đúng đắn và toàn vẹn về xã hội hiện thực, cho phép khắc phục những quan niệm phiến diện trước đây khi xem xét CCXH chỉ như là một tổng hòa các quan hệ xã hội mà đã bỏ qua – không phân tích một cách thích đáng các thành phần xã hội hoặc (ngược lại) coi CCXH chỉ như là một tập hợp các đoàn thể xã hội mà đã không xem xét một cách đầy đủ, thỏa đáng đến sự hiện diện của các quan hệ xã hội.

Thật ra, CCXH luôn vận động và biến đổi không ngừng. Sự vận động và biến đổi của nó có nguồn gốc từ sự thống nhất và đấu tranh của các mặt, các mối liên hệ, các thành tố đã cấu thành nên xã hội.

Điều này, OSipov, một nhà xã hội học Xôviết đã nói tới(1). Song, điểm mới về CCXH ở đây là đã xem xét các thành phần xã hội và các quan hệ xã hội như là những khái niệm “mở”. Có nghĩa rằng, nó không chỉ bao quát những giai cấp, tầng lớp, nghề nghiệp và những quan hệ đang có, đang tồn tại, mà còn bao hàm các giai cấp, tầng lớp, nghề nghiệp, tổ chức, đảng phái… và những quan hệ xã hội sẽ xuất hiện trong tương lai. Từ đó nó mang lại cách nhìn “động”, tính khả biến, xu hướng vận động, biến đổi và phát triển không ngừng của những CCXH hiện thực.

Đặc trưng thứ ba, coi CCXH như là “bộ khung” của mọi xã hội, các thành tố cơ bản của CCXH là các nhóm, vị thế, vai trò, thiết chế và các mạng lưới xã hội.

Về điểm này, Ian Robertsons đã nói đến 4 thành tố đầu và W.E.Thompson & J.V.Hickey đã bổ sung thành tố thứ 5 “mạng lưới xã hội”. Song, điểm mới trong định nghĩa này là ở chỗ, đã xếp nhóm xã hội vào vị trí thứ nhất thay cho vị thế xã hội trong trật tự 5 thành tố cơ bản của CCXH. Sự thay đổi vị trí của các thành tố với việc coi nhóm là đơn vị phân tích cơ bản, đầu tiên của CCXH có một ý nghĩa quan trọng và mang lại một sự tiện lợi đáng kể cho việc phân tích CCXH hiện thực:

Xét về mặt tính chất, vị thế xã hội là một “thuộc tính”, trong khi đó, nhóm là một “sự vật”. Nhóm là một tập hợp người có thể dễ dàng đo đếm được, rất tiện lợi và ít phức tạp hơn so với việc coi vị thế là đơn vị phân tích đầu tiên. Đặc biệt là, nó dễ dàng trong việc sử dụng các phương pháp nghiên cứu định lượng trong tính toán, đo lường, phân tích, so sánh các con số, chỉ báo, đại lượng, tỷ lệ % (một phương pháp vốn là thế mạnh của xã hội học). Trên cơ sở nhận diện, phân tích được dễ dàng các nhóm, có thể chuyển sang phân tích vị thế, vai trò của các nhóm trong xã hội, cũng như phân tích thiết chế nhóm, mạng lưới, trật tự, thứ bậc trong nhóm cũng như trong hệ thống xã hội nói chung.

Việc xem xét nhóm như là thành tố cơ bản, đầu tiên để xem xét CCXH và sự phân “tách” nhóm ra thành các nhóm lớn, nhóm nhỏ, cũng như các nhóm theo dấu hiệu giai cấp, nghề nghiệp, lãnh thổ, nhân khẩu, dân tộc, tôn giáo đã vừa khắc phục được cách xem xét cứng nhắc của Đôbờri Anốp về CCXH(2), vừa mang lại một cách nhìn mới mẻ, đậm màu sắc xã hội học, khác biệt một cách căn bản với cách xem xét của Đôbờri Anốp.

Rõ ràng rằng, nếu coi hoạt động của con người là những đơn vị phân tích cơ bản của CCXH thì sẽ gây ra những trừu tượng và khó khăn đáng kể trong triển khai phân tích CCXH. Bởi hoạt động cũng là một thuộc tính giống như vị thế xã hội (như đã phân tích ở trên), khá khó khăn trong việc đo đếm, lượng hóa trong phân tích CCXH.

Với việc coi nhóm là đơn vị phân tích cơ bản đầu tiên để tìm hiểu CCXH đã mang lại cách tiếp cận về một hệ thống xã hội đa cơ cấu – tiếp cận về một hệ thống CCXH nhiều chiều, nhiều khía cạnh, nhiều cấp độ.

Phân tích CCXH theo cách thức trên vừa khắc phục được cách nhìn trừu tượng, khuôn cứng về CCXH, vừa khắc phục được việc quy giản CCXH chỉ vào CCXH – giai cấp, coi CCXH – giai cấp là sự rút gọn của hệ thống CCXH tổng thể.

Thật ra, mỗi xã hội luôn là một hệ thống đa cơ cấu, bao gồm nhiều phân hệ CCXH cơ bản: CCXH – giai cấp, CCXH – nghề nghiệp, CCXH – lãnh thổ, CCXH – dân số, CCXH – dân tộc, CCXH – tôn giáo… Các phân hệ CCXH không tồn tại cô lập, tách rời nhau mà luôn đan xen với nhau, tác động lẫn nhau trong một chỉnh thể thống nhất hữu cơ sinh động. Mỗi phân hệ CCXH tự nó lại được coi như là một chỉnh thể thống nhất, có vị trí, vai trò và chức năng nhất định trong CCXH tổng thể; đồng thời nó lại bao hàm trong nó những hệ thống con. Vì vậy, CCXH theo giác độ tiếp cận của xã hội học là một hệ thống của các hệ thống (đó là hệ thống CCXH đa chiều, đa khía cạnh, đa cấp độ).

Với tiếp cận như vậy đã mang lại cho các nhà khoa học, các nhà lãnh đạo, quản lý một cách nhìn biện chứng, uyển chuyển trong sự xem xét những CCXH hiện thực. Nó đòi hỏi chúng ta có quan điểm toàn diện – cách nhìn chỉnh thể, hệ thống trong xem xét CCXH. Đồng thời, cần phải có những giải pháp đồng bộ trong xây dựng cũng như trong đổi mới những mô hình CCXH theo hướng tối ưu, năng động, hiệu quả.

Định nghĩa này được đổi mới và phát triển trong giáo trình đào tạo thử nghiệm của Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (năm 2008) khi đã thay thế cụm từ “cơ cấu xã hội… là sự thống nhất tương đối bền vững của các nhân tố, các mối liên hệ, các thành phần cơ bản nhất của một hệ thống xã hội” bằng cụm từ: “cơ cấu xã hội là sự thống nhất giữa các nhóm xã hội cơ bản (các nhóm giai cấp, nghề nghiệp, lãnh thổ, nhân khẩu, dân tộc, tôn giáo)”; thay cụm từ mới này cho cụm từ cũ, giúp nhận thức dễ dàng hơn về các thành phần xã hội cơ bản; theo đó vận dụng thuận tiện hơn vào thực tiễn xã hội.

2. Về phân tầng xã hội

Điểm nổi bật trong tiếp cận mới về CCXH ở đây là, khi phân tích về phân tầng xã hội được xem như là cấu trúc “dọc” của xã hội như một số nhà xã hội học trên thế giới, tác giả cho rằng, cần phải tổng tích hợp các kiến giải của các lý thuyết đã có về phân tầng xã hội, không trả lời một cách vo tròn về bản chất của phân tầng xã hội; đồng thời, cần tiến hành thao tác hóa về mặt khái niệm, bằng cách tách khái niệm phân tầng xã hội nói chung thành hai khái niệm bộ phận: “phân tầng xã hội hợp thức” và “phân tầng xã hội không hợp thức”. Hiểu phân tầng xã hội trong hiện thực không phải “một chiều”, “đơn tuyến” mà là “phức tạp”, “đan kết” ở trong nó, có cả hai mặt “tốt” và “xấu”, “tích cực” và “tiêu cực” tùy thuộc vào việc xem xét nguồn gốc hình thành của chúng.

Với sự phân tích như vậy, phân tầng xã hội có thể được hình thành một cách tự nhiên, từ sự khác nhau một cách tự nhiên về năng lực (thể chất, trí tuệ), tài năng, đức độ giữa các cá nhân, tổ chức xã hội. Người nào có năng lực (thể chất, trí tuệ), tài năng, đức độ cao sẽ có cơ hội được sắp xếp vào nhũng vị trí xã hội cao (tiền lương, tiền thưởng cao), được tín nhiệm và tôn vinh cao. Những người có năng lực (thể chất, trí tuệ), tài năng, đức độ trung bình sẽ có cơ hội được sắp xếp vào những vị trí trung bình, được nhận về mình những thù lao (tiền lương, tiền thưởng) trung bình, được xã hội tín nhiệm và đánh giá ở mức trung bình. Những người năng lực (thể chất, trí tuệ thấp), tài năng, đức độ thấp sẽ được sắp xếp vào những vị trí xã hội thấp, được nhận về mình những thù lao (tiền lương, tiền thưởng thấp), được xã hội đánh giá một cách tương xứng.

Phân tầng xã hội đang được nói tới, được giả định là chưa bị biến dạng, chưa có sự can thiệp bởi một lực lượng nào vào quá trình hình thành nó, phân tầng xã hội như vậy được gọi là “phân tầng xã hội hợp thức”.

Hiểu theo nghĩa là một cấu trúc tầng bậc xã hội được hình thành phù hợp với chuẩn mực pháp luật, đạo đức xã hội (vừa phù hợp với đạo lý, vừa phù hợp với pháp lý) mà nhân tố “cốt lõi” của nó là quy luật “làm theo năng lực và hưởng theo lao động” – quy luật đã được C.Mác phát hiện và coi nó là nguyên tắc phân phối phổ biến trong giai đoạn đầu của chủ nghĩa cộng sản.

Hợp thức không hiểu theo nghĩa thông thường hay chỉ đồng nhất với các chuẩn mực, quy tắc của đạo đức, pháp luật thông thường hay chỉ đồng nhất với các chuẩn mực, quy tắc của đạo đức, pháp luật trong hiện tại mà là một khái niệm khoa học mới, bao hàm cả ba mặt: đạo lý, pháp lý và hệ giá trị chuẩn mực văn hóa xã hội; nó vừa phù hợp với các quy tắc, chuẩn mực trong đời sống hiện tại, vừa phù hợp với quy luật xu hướng trong tương lai.

Song hành với cấu trúc “phân tầng xã hội hợp thức” là một cấu trúc hoàn toàn đối lập với nó – cấu trúc “phân tầng xã hội không hợp thức”. Cấu trúc này không được hình thành do sự khác biệt tự nhiên về năng lực (thể chất, trí tuệ), tài năng, đức độ giữa các cá nhân, sự đóng góp, cống hiến của mỗi cá nhân, tổ chức cho xã hội mà lại dựa vào sự liên minh theo “lợi ích nhóm”, những quy tắc, chuẩn mực xã hội bị bóp méo, những chính sách, pháp luật thiếu đúng đắn, thiếu khoa học, lạc hậu, bị sơ hở, bị lợi dụng, chậm đổi mới; những hành vi tham nhũng, làm ăn phi pháp (trốn thuế, lậu thuế, làm hàng giả, hàng nhái…); sự thao túng hay tha hóa quyền lực. Phân tầng xã hội được hình thành trên những cơ sở đó được gọi là “phân tầng xã hội không hợp thức”.

Với những đóng góp mới về cơ cấu – phân tầng như vậy, thật sự là những bứt phá về mặt lý luận, là những thành tựu khoa học của xã hội học Việt Nam.

3. Phân tầng xã hội hợp thức và công bằng xã hội

Phân tầng xã hội hợp thức thực chất là trật tự của công bằng xã hội, là điều kiện, phương thức và nền tảng xã hội bảo đảm cho việc thực hiện công bằng xã hội, còn công bằng xã hội là tiêu chuẩn “nhân lõi” cốt yếu bên trong của phân tầng xã hội hợp thức.

Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội là một mục tiêu cao cả và định hướng mạnh mẽ của Chính phủ Việt Nam suốt từ khi lập nước đến nay. Tuy nhiên, để đi đến một nhận thức đúng đắn cũng như đưa ra các giải pháp thực hiện một cách sát hợp là cả một quá trình tìm tòi với những bước đi quanh co, khúc khuỷu của nó.

Đã có một thời kỳ dài, khái niệm công bằng xã hội chưa được nhận thức và phân biệt rõ ràng, rành mạch với khái niệm bình đẳng xã hội. Hai khái niệm này thường đi kèm với nhau. Thường thì, công bằng xã hội được hiểu như ngang bằng nhau, còn bất bình đẳng xã hội, có lúc, có nơi lại được một số người xem như là bất công bằng xã hội.

Chính những nhận thức thiếu rõ ràng và có phần sai lệch này đã dẫn đến việc dư luận xã hội cũng như các chính sách xã hội có xu hướng bình quân chủ nghĩa, thậm chí có những nơi, những lúc, người ta đã coi phương thức phân phối bình quân chủ nghĩa như là phương thức phân phối tốt nhất để thực hiện công bằng xã hội. Hệ lụy của nó là đã làm thủ tiêu động lực của các tầng lớp xã hội và theo đó là một thời kỳ xã hội trì trệ kéo dài… Điều này đã được Đảng và Nhà nước ta nghiêm túc thừa nhận trong các văn kiện chính thức của mình.

Để khắc phục những vướng mắc về mặt nhận thức lý luận cũng như những bất cập trong thực tiễn về việc thực hiện và áp dụng những tiêu chuẩn của công bằng xã hội, cần phải có những nhận thức đúng đắn về cả phân tầng xã hội hợp thức và cả với công bằng xã hội; phải thấy rõ mối quan hệ bản chất giữa phân tầng xã hội hợp thức và công bằng xã hội. Không thể xây dựng một xã hội phân tầng xã hội hợp thức nếu vẫn tồn tại phổ biến những tiêu chuẩn và phương thức áp dụng phi quy tắc về công bằng xã hội. Ngược lại, không thể có công bằng xã hội nếu chúng ta đã đồng nhất phân tầng xã hội nói chung với bất công bằng xã hội.

Chỉ một khi nhận thức được rằng, trong phân tầng xã hội nói chung có cả phân tầng xã hội hợp thức và phân tầng xã hội không hợp thức, trong đó, phân tầng xã hội hợp thức là một cấu trúc bất bình đẳng xã hội, song được xây dựng trên những nguyên tắc của công bằng xã hội thì chúng ta mới có cơ sở khoa học để vừa xây dựng xã hội phân tầng xã hội hợp thức, vừa thực hiện những mục tiêu của công bằng xã hội.

Chính vì vậy, cần phải phân biệt thật sự rạch ròi giữa bình đẳng xã hội và công bằng xã hội. Theo giác độ tiếp cận của xã hội học, bình đẳng xã hội là sự ngang bằng nhau giữa các cá nhân (các thành viên trong xã hội) về mặt năng lực, thể chất, trí tuệ, điều kiện, cơ hội, vị thế, nghề nghiệp trong xã hội, những lợi ích vật chất, tinh thần mà mỗi người nhận được từ vị thế, vai trò xã hội của họ. Theo nghĩa đó, bình đẳng xã hội là cái mà nhân loại tiến bộ mưu cầu, mong muốn và hướng tới. Song, không phải là cái có ngay được ở mọi nơi, mọi lúc (đất nước, khu vực, thế giới) mà là mục tiêu lâu dài. Để tiếp cận đến nó, loài người phải trải qua những nỗ lực bền bỉ, phi thường, kế tục lớp lớp các thế hệ trong cuộc đấu tranh chinh phục thiên nhiên và tự giải phóng mình.

Rõ ràng rằng, không thể đồng nhất giữa bình đẳng xã hội và công bằng xã hội. Bình đẳng xã hội là mục tiêu lâu dài, là cái chỉ có thể đạt được ở từng tầng, từng lớp, từng bộ phận, từng thời kỳ của xã hội; còn công bằng xã hội là cái cần thiết và có thể thiết lập ngay trong từng bước phát triển của xã hội, nếu chúng ta có một thể chế chính trị – xã hội tiến bộ – nhân đạo, nhân văn, nhân bản và nhân ái.

Tại Đại hội VI, Đảng ta khẳng định, điều kiện đất nước còn nhiều khó khăn, song cần phải “thực hiện công bằng xã hội phù hợp với điều kiện cụ thể của đất nước”(3). Tại Đại hội VIII, Đảng ta đã khẳng định: “Tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ xã hội và công bằng xã hội ngay trong từng bước đi và trong suốt quá trình phát triển”(4).

“Công bằng xã hội là một khái niệm đạo đức, pháp quyền, đồng thời cũng là một khái niệm chính trị – xã hội”(5). Nó là kết quả của những tiến bộ chính trị – xã hội, đạo đức, do con người và sự đấu tranh của con người tạo nên. Nó không chỉ thuần túy là sự giống nhau, ngang nhau một cách tự nhiên giữa các cá nhân, các tổ chức xã hội. Theo sự phân tích này, nếu sự bình đẳng ngang nhau, bằng nhau thuần túy, không tính đến sự khác biệt trong sự đóng góp, cống hiến thực tế của mỗi người trong xã hội thì đó là sự cào bằng, sự bất công bằng (xem phân tầng xã hội không hợp thức). Ngược lại, những sự khác nhau, sự không ngang bằng nhau (hay còn gọi là sự bất bình đẳng), do sự khác biệt về năng lực (thể chất, trí tuệ), những đóng góp và cống hiến thực tế tương ứng của mỗi cá nhân cho xã hội (như trong phần phân tích phân tầng xã hội hợp thức) thì đó lại là công bằng xã hội…

Sự phân tích lý luận này đã giúp chúng ta có cơ sở khoa học tin cậy trong đấu tranh chống lại chủ nghĩa bình quân, cào bằng xã hội; nó vừa cung cấp những cơ sở khoa học vững chắc cho việc khuyến khích mọi cá nhân phấn đấu, tích cực làm giàu, tích cực vươn lên thịnh vượng, góp phần làm giàu cho mình, cho doanh nghiệp của mình, tổ chức của mình, đồng thời làm giàu cho toàn xã hội.

Sự phân tích này góp phần tháo gỡ rất nhiều vấn đề lý luận ở nước ta như vấn đề đảng viên có được làm kinh tế tư bản tư nhân hay không, đảng viên có thể trở nên giàu có hay không, nếu đó là những đảng viên năng động, giỏi giang, sản xuất, kinh doanh một cách hợp pháp, hợp thức, đóng góp một cách tích cực vào các nguồn lực của xã hội… Những vấn đề như tuyển chọn và sắp xếp cán bộ, đào tạo và bố trí cán bộ, vấn đề kết nạp đảng viên mới là những người sản xuất, kinh doanh ưu tú, tự nguyện đứng vào tổ chức Đảng và chấp hành nghiêm túc mọi nguyên tắc, Điều lệ của Đảng. Hàng loạt những vấn đề khác như chính sách khuyến khích những người sản xuất, kinh doanh hợp pháp, hợp thức, chính sách đền ơn đáp nghĩa đối với các gia đình thương binh, liệt sĩ, Mẹ Việt Nam Anh hùng, người có công với cách mạng, chính sách xóa đói, giảm nghèo, giúp người nghèo vươn lên thoát nghèo, chính sách, giải pháp và thái độ nghiêm khắc với những người làm ăn phi pháp, lười biếng, ỷ lại…

CCXH và phân tầng xã hội là những khái niệm cơ bản, then chốt của xã hội học. Nó cũng đồng thời là những khái niệm chính trị – xã hội hết sức nhạy cảm. Việc nghiên cứu, tìm hiểu và làm sáng tỏ nó, từ đó có cơ sở khoa học để tiếp tục phát triển lý luận, ứng dụng thực tiễn là một nhiệm vụ quan trọng và có ý nghĩa thiết thực. Những nỗ lực tìm kiếm, phân tích, luận giải khoa học các khái niệm này là góp phần vào việc phát triển lý luận chung, triển khai những khái niệm “công cụ” vào việc phân tích, kiến giải thực trạng và xu hướng biến đổi của CCXH nước ta hiện nay.

_________________

Bài đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị số 535 (tháng 9-2022)

Ngày nhận bài: 25-5-2022; Ngày bình duyệt: 2-6-2022; Ngày duyệt đăng: 26-9-2022.

 

(1) Những cơ sở nghiên cứu xã hội học, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1998 (tiếng Nga) và Sổ tay công tác của những nhà xã hội học Liên Xô, Mátxcơva, 1983.

(2) Đôbờri Anốp: Xã hội học Mác – Lênin, Nxb Thông tin lý luận, Hà Nội, 1985. Theo Đôbờri Anốp, CCXH là sự tác động qua lại của các lĩnh vực cơ bản của hệ thống xã hội được hình thành trên cơ sở của năm hình thức hoạt động cơ bản của con người: hoạt động sản xuất vật chất, hoạt động tinh thần, hoạt động tái sản xuất ra con người, hoạt động giao tiếp và hoạt động quản lý. Và sự trừu tượng hóa phạm trù CCXH là tiêu chuẩn ba ngôi một thể gồm hoạt động xã hội, quan hệ xã hội và thiết chế xã hội.

(3) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1987, tr.45.

(4) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tr.113.

(5) Từ điển bách khoa triết học Liên Xô, Hà Nội, 1985 (tiếng Nga), tr.65.

GS, TS NGUYỄN ĐÌNH TẤN