Các yếu tố ảnh hưởng đến việc cải thiện môi trường kinh doanh tại Thanh Hóa
Môi trường kinh doanh địa phương là tổng thể các yếu tố và điều kiện khách quan, chủ quan bên ngoài doanh nghiệp ở địa phương, có mối quan hệ tương tác lẫn nhau, có ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp đến hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp ở địa phương. Nghiên cứu mức độ ảnh hưởng của các yếu tố thuộc về môi trường kinh doanh địa phương thông qua đánh giá của doanh nghiệp, nhằm giúp các nhà quản trị địa phương có cái nhìn đa chiều hơn. Từ đó có những chính sách phù hợp cải thiện môi trường kinh doanh thúc đẩy phát triển kinh tế tại địa phương.
Thanh Hóa là địa phương có vị trí thuận lợi của khu vực Bắc Trung Bộ, cũng như tiềm năng về tài nguyên thiên nhiên. Trong những năm qua, phát triển doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa đã đạt được những kết quả nhất định. Theo số liệu của Sở Kế hoạch và Đầu tư, lũy kế đến năm 2020, tỉnh Thanh Hóa có 26,4 nghìn doanh nghiệp, trong đó có 17,2 nghìn doanh nghiệp đang hoạt động, đóng góp 52,5% GRDP của tỉnh, tăng 16,1% so với giai đoạn 2011 – 2015; nộp ngân sách ước đạt 39,3 nghìn tỷ đồng, chiếm 50,1% tổng thu nội địa. Bên cạnh những kết quả đã đạt được, công tác phát triển doanh nghiệp vẫn còn một số hạn chế. Số doanh nghiệp hoạt động trên vạn dân còn thấp so với bình quân cả nước và một số tỉnh trong khu vực. Các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh chủ yếu là doanh nghiệp nhỏ, năng lực tài chính và quản trị kinh doanh còn hạn chế; khả năng thích ứng và hội nhập quốc tế, nhận thức về văn hóa kinh doanh, trách nhiệm với xã hội, cộng đồng của một bộ phận doanh nhân chưa đầy đủ; tính liên kết, hợp tác kinh doanh quy mô lớn nhằm tham gia chuỗi giá trị còn chưa có nhiều, nhất là giữa doanh nghiệp nhỏ với các doanh nghiệp lớn, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Trên thực tế môi trường kinh doanh của tỉnh còn nhiều thách thức đặt ra, việc cải thiện môi trường kinh doanh chưa đạt được như kỳ vọng, chưa đồng bộ so với các địa phương khác.
Các yếu tố cấu thành môi trường kinh doanh địa phương
(1) Yếu tố kinh tế (MTKT): Hệ thống kinh tế địa phương chịu tác động của tổng thể hệ thống kinh tế quốc dân về các chính sách kinh tế quốc gia như chu kỳ kinh doanh hay tỷ lệ lạm phát, thất nghiệp, tỷ lệ hối đoái, sự phát triển hệ thống tài chính, cơ cấu kinh tế, mô hình tăng trưởng và phát triển.
Trong nghiên cứu yếu tố kinh tế của MTKD được đo lường bằng các yếu tố khả năng tiếp cận vốn kinh doanh; chi phí vay vốn kinh doanh; và các thông tin kinh doanh. Các thang đo này được kế thừa từ các nghiên cứu trước đây của VCCI, Trần Thu Thủy (2018), Galan và cộng sự (2006), Oum và Park (2004); Galan và cộng sự (2007), Sun và cộng sự (2002).
(2) Yếu tố chính trị và pháp luật (MTPL): Yếu tố chính trị và pháp luật cấu thành nên MTKD địa phương chủ yếu cũng là các yếu tố chính trị và pháp luật của quốc gia. Các yếu tố này bao gồm chế độ pháp lý chung của nền kinh tế mà các doanh nghiệp trong nước nói chung và các doanh nghiệp địa phương nói riêng phải tuân thủ. Đồng thời, các công cụ chính sách và hệ thống quản lý của đất nước liên quan đến hoạt động kinh doanh cũng tác động đến các DN ở địa phương.
Các nội dung đo lường của yếu tố bao gồm: Mức độ tham nhũng; mức độ cải cách thủ tục hành chính tại địa phương; sự phân biệt của chính quyền tỉnh với các DN trong tiếp cận các nguồn lực của tỉnh; sự nhũng
nhiễu của cán bộ thuế tại địa phương; năng lực điều hành vĩ mô của chính quyền tỉnh; thời gian hoàn thành thủ tục chính thức gia nhập thị trường và thời gian thanh kiểm tra của doanh nghiệp. Các thang đo được kế thừa từ nghiên cứu của VCCI; Trần Thu Thủy (2018) Nguyễn Mạnh Cường (2019); Lu và cộng sự (2006), Galan và cộng sự (2007), Dollar và cộng sự (2005).
(3) Yếu tố văn hóa xã hội địa phương (MTVH): yếu tố văn hóa xã hội có liên quan và tương tác với hoạt động kinh doanh, bao gồm dân số và thu nhập. Yếu tố văn hóa bao gồm các giá trị văn hóa cốt lõi và thứ phát, vai trò của các tổ chức chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội cũng như mức sống, trình độ học vấn, thói quen tiêu dùng, thị hiếu, thu nhập của người dân trong khu vực…
Các thang đo thuộc yếu tố này được đo lường là chính sách phát triển chất lượng lao động địa phương; chính sách thu hút lao động của tỉnh; và cơ chế thúc đẩy nâng cao vai trò của các hiệp hội, hội DN tại địa phương. Các thang đo này được kế thừa từ các nghiên cứu của VCCI, Trần Thu Thủy (2018), Galan và cộng sự (2007).
(4) Yếu tố công nghệ (MTKHCN): Yếu tố công nghệ cũng là một trong những yếu tố tác động làm cho MTKD thay đổi. Xét trong MTKD địa phương có thể xem xét thông qua một số yếu tố như: Hệ thống chính sách về khoa học công nghệ của địa phương trên cơ sở hệ thống chính sách công nghệ quốc gia; lực lượng đội ngũ cán bộ kỹ thuật và công nghệ địa phương; hệ thống các cơ quan nghiên cứu khoa học và công nghệ địa phương.
Các thang đo thuộc yếu tố này được đo lường là Dịch vụ khoa học và công nghệ ở địa phương; Chính sách phát triển khoa học công nghệ; và Hệ thống các cơ quan nghiên cứu và triển khai công nghệ tại địa phương và sự hợp tác với DN. Các thang đo được kế thừa từ các nghiên cứu của VCCI, Trần Thu Thủy (2018), Michael Porter (2008); Nguyễn Mạnh Cường (2019); Lu và cộng sự (2006); Jose.I. Galan và cộng sự (2007); Sun và cộng sự (2002).
(5) Yếu tố tự nhiên, cơ sở hạ tầng kỹ thuật (MTTN): Xét trong MTKD địa phương có thể xem xét các yếu tố: Tài nguyên thiên nhiên, cơ sở hạ tầng kinh tế địa phương và các nhân tố tác động chậm và ít nhận thấy đối với các DN đó là các yếu tố tự nhiên. Đặc biệt đối với hệ thống cơ sở hạ tầng kinh tế cần có các chính sách của địa phương trong việc phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế địa phương, tạo MTKD thuận lợi cho DN hoạt động.
Các thang đo thuộc yếu tố này được đo lường là: Điện; nước sạch và quản lý xử lý chất thải và vệ sinh môi trường tại địa phương. Các thang đo này được kế thừa từ nghiên cứu của VCCI, Trần Thu Thủy (2018), Michael Porter (2008); Nguyễn Đình Thọ và cộng sự (2009), Michael Porter (2008); Lê Tấn Lộc và Nguyễn Thị Tuyết (2013).
(6) Các yếu tố quốc tế và hội nhập (MTHN): Sự hội nhập quốc tế của nền kinh tế địa phương đòi hỏi phải xem xét một số vấn đề liên quan đến quản lý quốc gia có ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh… Việc lồng ghép thực hiện các cam kết, theo các hiệp định song phương và đa phương đã tác động không nhỏ đến MTKD của địa phương về nhiều mặt. Các thang đo này được kế thừa từ nghiên cứu trước đây của VCCI, Trần Thu Thủy (2018), Galan và cộng sự (2006), Lu và cộng sự (2006), Oum và Park (2004); Sun và cộng sự (2002), Ekrem và Keith (1998).
Phương pháp nghiên cứu
(1) Thu thập thông tin: Tác giả thu thập và tiến hành ghi chép lại các thông tin thu thập để đưa ra các lý luận cơ bản về MTKD nhằm phát triển doanh nghiệp của một địa phương nói chung, của tỉnh Thanh Hóa nói riêng.
Các dữ liệu sơ cấp được thu thập một cách ngẫu nhiên theo mẫu phiếu (công thức số mẫu cần thu thập
> số thang đo; mẫu nghiên cứu được thiết kế với 22 thang đo, nên số phiếu thu thập tối thiểu là 110 phiếu) thông qua phát phiếu trực tiếp và gửi online với 156 phiếu hợp lệ đưa vào xử lý dữ liệu bằng phần mềm SPSS.22.
(2) Đánh giá các dữ liệu thu thập: Đây là bước lựa chọn ra những giá trị cần thiết nhất cho quá trình nghiên cứu và loại bỏ những thông tin không giá trị đã thu thập được ở bước 3.
(3) Phân tích các dữ liệu thu thập được: Trên cơ sở bộ tiêu chí về các yếu tố MTKD địa phương tác động đến phát triển doanh nghiệp, đề tài sử dụng mô hình đánh giá Binary logistic để phân tích. Biến phụ thuộc nhị phân là nhận thức/đánh giá về sự cải thiện môi trường kinh doanh của tỉnh từ phía doanh nghiệp với hai
giá trị 0 và 1 (0 nghĩa là không cải thiện, 1 nghĩa là cải thiện). Các biến độc lập phản ánh các thành phần của MTKD địa phương được xác định là các yếu tố đã được tổng hợp trên. Tuy nhiên, do thành phần của MTKD địa phương chứa nhiều yếu tố nên nhóm tác giả đánh giá độ tin cậy của thang đo để loại bỏ các yếu tố không phù hợp và thực hiện phân tích nhân tố để rút ra các yếu tố tổng hợp nhưng vẫn phản ánh bản chất cơ bản của các yếu tố này trước khi đưa vào mô hình phân tích. Qua mô hình phân tích có thể thấy nhân tố nào có tác động và ảnh hưởng đến việc cải thiện môi trường kinh doanh tại địa phương theo đánh giá của doanh nghiệp. Dấu của hệ số Bi phản ánh tỷ lệ xác suất dự đoán, và nếu hệ số là dương thì phản ánh xác suất MTKD có cải thiện và ngược lại nếu hệ số âm phản ánh xác suất MTKD không cải thiện.