Các trường phái lý thuyết chính trong nhân học – Tác giả: Tùng Nguyễn
CÁC TRƯỜNG PHÁI LÝ THUYẾT CHÍNH TRONG NHÂN HỌC
Tùng Nguyễn
(tổng hợp và biên soạn)
Một lý thuyết
tốt là một lý thuyết có thể giải thích được nhiều hiện tượng, có thể tiên đoán
được các hiện tượng mới và đượcthực
nghiệm kiểm chứng. Các thuyết sẽ cho phép các nhà nhân
học học diễn dịch được các nền văn hóa ở các vùng khác nhau trên thế giới. Thậm
chí các thuyết chưa được chứng minh, gọi là giả định (hypothesis) cũng có tính
hữu dụng với các nhà nghiên cứu. Nó sẽ là nền tảng cho các nghiên cứu sâu hơn
trong thực tế. Các thuyết nhân học cố gắng trả lời các câu hỏi dạng như:
Tại sao tộc người đó lại hành xử như vậy? và Họ đại diện cho sự đa dạng văn hóa
của loài người như thế nào? Các câu hỏi đó là định hướng cho các nhà nhân học
thế kỷ 19 và thậm chí ngày nay.
Vào giữa thế
kỷ 19, khi các nhà nhân học bắt đầu thu thập dữ liệu về các nền văn hóa
khác nhau, nảy sinh một nhu cầu là họ cần có chỗ dựa lý thuyết để giải
thích sự khác biệt và tương đồng giữa các nền văn hóa. Chính nhu cầu này
là tiền đề cho sự phát triển của các thuyết nhân học. Vậy thuyết là gì? Diễn
giải một cách đơn giản, thuyết là mô hình về mối quan hệ giữa hiện tượng tự
nhiên hay xã hội. Thuyết cho phép chúng ta quy nạp các hiện tượng thực tế thành
các quy tắc tóm tắt. Một lý thuyết tốt là một lý thuyết có thể giải thích được
nhiều hiện tượng, có thể tiên đoán được các hiện tượng mới và được thực
nghiệm kiểm chứng. Các thuyết sẽ cho phép các nhà nhân học học diễn dịch
được các nền văn hóa ở các vùng khác nhau trên thế giới. Thậm chí các thuyết
chưa được chứng minh, gọi là giả định (hypothesis) cũng có tính hữu dụng với
các nhà nghiên cứu. Nó sẽ là nền tảng cho các nghiên cứu sâu hơn trong thực
tế. Các thuyết nhân học cố gắng trả lời các câu hỏi dạng như: Tại
sao tộc người đó lại hành xử như vậy? và Họ đại diện cho sự đa dạng văn hóa của
loài người như thế nào?Các câu hỏi đó là định hướng cho các nhà nhân học
thế kỷ 19 và thậm chí ngày nay. Phần tiếp theo sẽ trình bày các trường phái
thuyết chính của Nhân học văn hóa theo trình tự thời gian phát triển của chúng
bắt đầu từ giữa thế kỷ 19. Ngày nay, có trường phái, ví dụ như Truyền bá văn
hóa (Diffusionism) đã không còn thu hút được sự quan tâm của giới học giả; hoặc
được cải biên ví dụ như Tiến hóa (Evolusionsim); hay như trường phái Chức
năng (Functionsim) vẫn được đa số ủng hộ… Tuy nhiên, cần nhớ rằng các trường
phái thuyết đương đại phát triển dựa trên nền tảng của các trường phái cũ chứ
không phải là loại bỏ hoàn toàn. Trong mục này, người viết sẽ giới thiệu sơ
lược về các trường phái lý thuyết chính của nhân học, bao gồm:
– Tiến hóa của
văn hóa
– Thuyết Truyền bá văn hóa
– Thuyết Đặc thù lịch sử Mỹ
– Trường phái Chức năng
– Nhân học Tâm lý
– Trường phái Tân tiến hóa
– Trường phái Cấu trúc Pháp
– Trường phái Duy vật văn hóa
– Hậu hiện đại
1. Tiến
hóa văn hóa
Tất cả các
nền văn hóa đều trải qua các giai doạn phát triển giống nhau theo một trật tự
nhất định.
Vào giữa thế
kỷ 19, trường phái được các nhà nhân học văn hóa hiện đại đầu tiên,
Edward Taylor, người được coi là ông tổ của nhân học hiện đại, và Lewis Henry
Morgan, giới thiệu. Theo thuyết này mọi nền văn hóa đều trải qua các giai
đoạn phát triển khác nhau theo cùng một hướng nhất định. Thuyết này sử dụng
cách tiếp cận suy diễn, áp một thuyết chung cho mọi nền văn hóa. Thuyết tiến
hóa được các đế quốc thực dân sử dụng để thanh minh cho công cuộc thuộc địa hóa
các vùng đất mới ở Châu Á, Châu Phi… dưới chiêu bài “Khai sáng văn
minh” cho các dân tộc thuộc địa, mà dưới thuyết này được xem là
đang ở các bậc thang tiến hóa thấp hơn số với các xã hội phương Tây.
2. Thuyết
Truyền bá văn hóa
Sự biến đổi
văn hóa của mọi xã hội là kết quả của sự vay mượn văn hóa từ các xã hội khác.
Grafton
Elliot Smith và W.J. Perry ở Anh, Fritz Graebner và Wilhelm Schmidt ở Đức
và Áo là các nhà nhân học tiêu biểu cho trường phái này. Tuy nhiên trường phái
này có nhiều điểm không logic hoặc không lý giải được nhiều câu hỏi. Dù không
thể phủ nhận vai trò quan trọng của truyền bá văn hóa (cultural difusion),
nhưng các nhà nhân học của trường phái này, đặc biệt là Smith và Perry đã làm
cho khái niệm này trở nên vô lý khi tuyên bố rằng tất cả mọi công nghệ tồn tại
trên thế giới này: cung tên, làm gốm… đều có nguồn gốc từ Ai Cập cổ đại. Hơn
thế nữa, mặc dù thu thập được các bằng chứng lịch sử nhưng họ cũng không chứng
minh được các trung tâm phát minh chính của thế giới. Thậm chí họ cũng không
thể lý giải một cách thuyết phục những câu hỏi liên quan tới quá trình truyền
bá văn hóa, ví dụ: Khi nào các nền văn hóa tiếp xúc với nhau? Tại sao
một vài công nghệ thì được truyền bá trong khi phần còn lại thì không? Điều
kiện cần thiết cho quá trình truyền bá văn hóa diễn ra là gì? Nhân tố nào có
ảnh hưởng tới tốc độ truyền bá của một công nghệ / vật trong một khu vực địa
lý?Cũng như thuyết tiến hóa thuyết này bị chỉ trích vì áp dụng cách tiếp
cận suy diễn cũng như quá nhấn mạnh khái niệm truyền bá.
3. Thuyết
Đặc thù lịch sử Mỹ
Đề cao tính
riêng biệt của mỗi nền văn hóa và nghiên cứu thực địa.
Vào điểm
chuyển giao giữa hai thế kỷ, trường phái Đặc thù lịch sử được giới thiệu, được
xem như sự đáp lại với cách tiếp cận suy diễn của hai trường phái Tiến hóa và
Truyền bá. Franz Boas (1858-1942), một nhà nhân học gốc Đức được đào tạo bài
bản về cả Vật lý và Địa lý, được xem là người sáng lập ra trường phái này.
Thuyết này chú trọng cách tiếp cận quy nạp nên đề cao công tác nghiên cứu thực
địa. Thuyết này đặt nền móng cho chủ nghĩa tương đối văn hóa khi cho rằng mỗi
nền văn hóa, trong một chừng mực nào đó là, độc nhất. Do đó các nhà nhân học
nên đồng hóa bản thân để nhìn mỗi nền văn hóa theo cách mà người bản địa nhìn.
4. Trường
phái Chức năng
Xã hội như là
một cơ thế sống trong đó mọi cơ quan có liên quan chặt chẽ với nhau.
Cũng vào cùng
giai đoạn với Boas Mỹ, Bronislav Malinowski (1884-1942) cũng bắt đầu quá trình
đặt nền tảng “thực chứng” cho nghành Nhân học ở Anh. Giống như Boas,
Ông là người tích cực ủng hộ công tác thực địa. Cả hai đều nhấn mạnh tầm quan
trọng của việc học bản ngữ và cố gắng khám phá một nền văn hóa từ góc độ của
người bản xứ. Tuy nhiên giữa hai người cũng có sự khác biệt.Khác với Boas,
Malinowski không quan tâm tới nguồn gốc và cách thức hình thành của các yếu tố
văn hóa cụ thể (công nghệ, tập tục…). Ông tập trung vào nghiên cứu việc các
nền văn hóa đương đại vận hành như thế nào. Theo quan điểm của Ông, văn
hóa là phương tiện để thỏa mãn các nhu cầu của các cá nhân riêng biệt và
cộng đồng nói chung. Do đó, mọi vật thể văn hóa (hữu hình hay vô hình) đều có ý
nghĩa và chức năng cụ thể nhằm phục vụ cho các cá nhân riêng rẽ hay xã hội nói
chung. Công việc của các nhà nhân học, theo Ông là “hòa nhập” vào nền
văn hóa đó, bao gồm cả việc học bản ngữ, để khám phá các chức năng đó. Đó là lý
do mà cách tiếp cận của Ông được đặt tên là trường phái Chức năng.
5. Nhân
học tâm lý
Các nhà nhân
học cần khám phá mối liên hệ giữa tâm lý cá nhân và văn hóa.
Vào những
thập kỷ 20 và 30 của thế kỷ 19, một số nhà nhân học Mỹ, bao gồm cả các học trò
của Boas, bắt đầu quan tâm với việc nghiên cứu mối quan hệ giữa các cá nhân và
văn hóa. Họ quan tâm tới các câu hỏi như: Tính cách đóng vai trò như thế nào
trong việc hình thành hành vi của con người? Có nên xem tính cánh như là một
phần của văn hóa không? Nó có liên quan tới các khía cạnh khác của văn hóa thế
nào? Kết hợp trường phái tâm lý cấu trúc và Freud và Gestalt vào nghiên cứu văn
hóa, các nhà nhân học bắt đầu với việc nghiên cứu nghiên cứu mối liên hệ giữa
việc nuôi dạy trẻ và sự hình thành tính cách ở các nền văn hóa khác nhau. Họ đi
đến kết luận là việc nuôi nấng trẻ (tồn tại ở mọi nền văn hóa)
có ảnh hưởng tới sự phát triển tính cách, và đến lượt tính cách có
ảnh hưởng tới văn hóa.
Sự nuôi nấng
=> Tính cách => Văn hóa
Margaret Mead
(1901-1978), học trò của cả Benedit và Boas, đánh đặt dấu ấn đầu tiên trong
lĩnh vực tính cách và văn hóa bằng nghiên cứu về “Những vấn đề tâm lý ở
trẻ vị thành niên Mỹ”. Vào thời điểm đó các nhà tâm lý cho rằng những vấn
đề tâm lý ở trẻ vị thành niên là do nhân tố sinh học xảy ra ở độ tuổi thành
niên và nó tồn tại ở mọi nền văn hóa. Để kiểm chứng, năm 1925 Bà tới Samoa để
nghiên cứu liệu các “căng thẳng” ở vị thành niên có xảy ra ở mọi nền
văn hóa (do yếu tố sinh học) hay do văn hóa quyết định. Trong tác phẩm đầu
tay, Tuổi dậy thì ở Samoa (Coming of Age) xuất bản năm 1928,
Bà cho biết quan điểm thông thoáng của gia đình và đời sống tình dục tự do là
nguyên nhân cho sự khác biệt tâm lý ở độ tuổi dậy thì giữa trẻ ở Mỹ và Samoa. Do
đó, Bà đi đến kết luận là sự căng thẳng ở trẻ thành niên ở Mỹ là do yếu tố văn
hóa hơn là yếu tố sinh học, quan điểm phổ biến bấy giờ.
6. Trường
phái Tân tiến hóa
Một nền văn
hóa tiến hóa theo tỉ lệ thuận với khả năng kiểm soát năng lượng của nó. Các điều
kiện môi trường có ảnh hưởng tới sự hình thành văn hóa.
Vào đầu thập
kỷ 30s, Leslie White (1900-1975), một nhà nhân học văn hóa được đào tạo theo
trường phái của Boas, đã lật lại thuyết Tiến hóa. Theo Ông, đây là một học
thuyết hữu dụng nhưng thiếu dữ liệu chứng minh. Ông cũng tin là văn hóa tiến
hóa từ đơn giản đến phức tạp, và tiến hóa văn hóa, như tiến hóa sinh học, là có
thật. Đóng ghóp của ông cho trường phái Tiến hóa là đề xuất được nguyên nhân
tiến hóa mà Ông gọi là “Quy luật cơ bản của tiến hóa”. Theo thuyết
“Tân tiến hóa” của Leslie, văn hóa tiến hóa khi mà con người có thể
tăng được nguồn lực dưới sự điều khiển của họ. Trong phần lớn lịch sử của
mình, loài người chỉ dựa vào săn bắn hái lượm, và nguồn lực chính chỉ là sức
người. Nhưng với sự xuất hiện của sức kéo từ các động vật thuần hóa: trâu, bò,
ngựa… máy hơi nước, động cơ đốt trong, năng lượng hạt nhân, nguồn lực dưới sự
kiểm soát của con người đã tăng một cách vượt bậc. Ví dụ một cách cụ thể, nguồn
lực mà một người đàn ông khỏe mạnh sản sinh một ngày chỉ bằng một phần nhỏ của
sức ngựa, trong khi đó nguồn năng lượng giải phóng từ 1 kg u-ra-ni-um trong lò
phản ứng tương đương với 33 tỉ sức ngựa. Ông đề xuất ra công thức sau:
C = E × T
Trong đó C là
văn hóa, E là năng lượng và T là công nghệ. Hiểu một cách đơn giản tiến bộ công
nghệ và khả năng kiểm soát năng lượng ngày càng tăng là động lực cho tiến hóa
văn hóa. Một nhà nhân học khác có cùng quan điểm với White là Julian Steward.
Ông cũng quan tâm tới mối liên hệ giữa tiến hóa văn hóa và môi trường. Nhưng
Ông xem cách tiếp cận của White, tập trung vào văn hóa loài người nói chung, là
quá chung chung. Theo Ông điểm yếu của học thuyết của White là chưa giải thích
được tại sao một vài nền văn hóa tiến hóa thông qua tăng nguồn năng lượng còn
các nền văn hóa khác thi không. Diễn giải theo cách khác, White quan tâm tới
văn hóa nói chung, còn Steward quan tâm tới các nền văn hóa cụ thể hay các nhóm
văn hóa cụ thể.
Ông phân chia
tiến hóa thành ba loại:
– Độc đạo: do Tylor và Morgan đại diện, đặt các
nền văn hóa vào một con đường tiến hóa đơn nhất.
– Phổ quát: do White đại diện, cố gắng phát
triển định luật có thể áp dụng cho toàn bộ văn hóa loài người.
– Đa đạo: tập trung vào sự phát triển của các
nền văn hóa cụ thể mà không giả định là tất cả các nền văn hóa theo một quá
trình tiến hóa đơn nhất.
Cách tiếp cận
của Ông dựa trên việc phân tích mối liên hệ giữa văn hóa và môi trường. Ông giả
thuyết rằng các nhóm người sống trong các điều kiện tự nhiên tương tự, sẽ phát
triển các công nghệ tương tự, và sự tương đồng về công nghệ sẽ dẫn đến sự tương
đồng trong thể chế chính trị và xã hội. Ví dụ trong các nền nông nghiệp cổ đại,
tưới tiêu là giải pháp được chọn để đối mặt với môi trường khô hạn. Mặc dù môi
trường là một nhân tố quan trọng trong học thuyết nhưng Steward không phải là
là người theo trường phái duy môi trường (xem môi trường là nhân tố không thể
thiếu). Với việc tập trung nghiên cứu mối lên hệ giữa con người – môi trường –
văn hóa, Ông được xem là người tiên phong và dẫn đầu trong việc nghiên cứu Sinh
thái học văn hóa (Cultural Ecology).
7. Trường
phái Cấu trúc Pháp
Văn hóa do
một số mã được lập trình sẵn trong não bộ người quyết định.
Không có
trường phái lý thuyết nào mà gần như chỉ gắn với tên tuổi một cá nhân giống
trường phái Cấu trúc Pháp và Claude Levi-Strauss (1908-). Mặc dù cả Radcliffe
Brown và Levi-Strauss đều được gọi là các nhà nhân học cấu trúc, nhưng
cách tiếp cận của họ có sự khác biệt lớn. Trong khi Radcliffe tập trung vào
nghiên cứu các phần của xã hội hoạt động thế nào trong tổng thể chung,
thìLevi-Strauss tập trung bào nghiên cứu cấu trúc trí tuệ / tinh thần nằm
dưới các hành vi xã hội. Đối với Ông, dân tộc học có vẻ nghiêng về tâm lý hay
nhận thức hơn là xã hội. Theo trường phái này văn hóa do một số mã được lập
trình sẵn trong não bộ người quyết định hơn là do các yếu tố bên ngoài.
8. Trường
phái Duy vật văn hóa
Các điều kiện
vật chất quyết định suy nghĩ và hành vi của con người. Nghiên cứu nên dựa trên
dữ liệu thực chứng hơn là cách giải thích của người bản địa.
Gắn liền với
tên tuổi của Marvin Harris (1927-2001), trường phái này dựa trên giả định rằng
các điều kiện vật chất hay phương thức sản xuất quyết định hành vi và suy nghĩ
của con người. Theo cách tiếp cận này, nhiệm vụ chính của các nhà nhân học là
tìm cách giải thích sự tương đồng và khác biệt giữa hành vi và suy nghĩ của các
nhóm người. Harris và các đồng sự xem các nhân tố vật chất có vai trò quyết
định. Thuyết này dựa trên hai giả định chính. Thứ nhất, mọi cấu phần của
xã hội có liên quan chặt chẽ với nhau. Sự thay đổi ở bất cứ phần nào cũng sẽ
tạo ra sự biến đổi tương ứng ở các cấu phần khác. Giả định thứ hai và là
cốt lõi của trường phái này là môi trường sống có vai trò quyết định trong việc
hình thành văn hóa. Mọi nền văn hóa, dưới góc độ của trường phái này được chia
thành ba cấu phần:
– Hạ tầng xã hội gồm dân số; các nhu cầu sinh học (ăn, ở,
mặc… ) của con người; và các nguồn lực (lao động, công cụ và công nghệ)
– Trung tầng xã hội gồm hình mẫu tổ chức: tổ chức chính
quyền, giáo dục, tổ chức sản xuất..
– Thượng tầng xã hội gồm có các thiết chế xã hội như luật,
tôn giáo, chính trị, nghệ thuật, khoa học……
Nội dung của
hạ tầng xã hội có ảnh hưởng tới trung tầng xã hội, rồi tới Thượng tầng xã hội.
Bất cứ sự thay đổi nào ở hạ tầng xã hội đều dẫn đến sự thay đổi ở trung tầng và
thượng tầng. Một điểm khác biệt của trường phái này so với các trường phái hiện
hành bấy giờ là nhấn mạnh việc có một cách tiếp cận etic (đưa ra kết luận giữa
trên thực chứng) hơn là emic (nhìn nhận như người bản địa.)
9. Hậu
hiện đại
Kêu gọi các
nhà nhân học chuyển từ quy nạp văn hóa và xây dựng các thuyết văn hóa sang mô
tả, diễn dịch văn hóa với sự tham gia của hơn một nhà nhân học cũng như người
bản địa trong quá trình nghiên cứu.
Các bậc tiền
bối của Nhân học trong thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20 đã có công trong việc đưa ra
cách giải thích mới về văn hóa và hành vi của con người thay cho cách giải
thích thần học đương thời. Trong phần lớn thế kỷ 20, các nhà nhân học dù thuộc
trường phái nào đều áp dụng cách tiếp cận thực chứng khoa học trong nghiên cứu:
thu thập dữ liệu, kiểm tra giả thuyết, tìm mối quan hệ nhân quả….Tuy nhiên
vào thập kỷ 70 và 80, một số nhà nhân học, được gọi chung là các nhà nhân học
hậu hiện đại, đặt dấu hỏi cho bản chất khoa học của nghành nhân học đương thời.
Mặc dù khái niệm các nhà nhân học hậu hiện đại có ý nghĩa khác nhau với người
khác nhau, nhưng họ có nguồn gốc từ các trường phái cấu trúc
(structuralism), diễn dịch (interpretative anthropology) và nữ quyền
(feminist).
Họ nghi ngờ
về khả năng các nhà nhân học hiện đại có thể xây dựng một thuyết chung cho sự
phát triển văn hóa của loài người. Theo họ, các nhà nhân học đương thời quá
“kiêu ngạo” khi nghĩ rằng mình có thể mô tả, diễn dịch và giải thích
cuộc sống của những người ở nền văn hóa khác mình. Về bản chất khoa học của
nhân học đương thời, theo họ nó chỉ phản ảnh sự mất cân bằng về quyền lực giữa
nước giàu và nước nghèo, giữa các nước thuộc địa và nước xâm chiếm thuộc địa
nơi mà các nghiên cứu được khởi nguồn. Theo họ các nhà nhân học nam giới có gốc
Âu Mỹ không thể thoát ra khỏi nền văn hóa của họ để làm những nghiên cứu có
khách quan. Do đó các nghiên cứu mô tả dân tộc học bị kinh nghiệm và trình độ
chủ quan của các nhà nhân học chi phối. Các nhà nhân học hậu hiện đại kêu gọi
một cách tiếp cận có tính “tập thể, có sự tham gia” hơn trong nghiên
cứu, đối thoại thay vì độc thoại như hiện tại. Tức là một nghiên cứu nhân học
nên do một nhóm, thay vì một nhà nhân học làm vì hiện này và trong đó đối tượng
nghiên cứu cũng có chỗ để đối thoại với người nghiên cứu họ. Một điểm khác của
các nhà nhân học hậu hiện đại là họ phản đối việc xây dựng mọt thuyết chung cho
sự tiến hóa văn hóa. Họ nhấn mạnh tính đơn nhất của các nền văn hóa. Họ xem văn
hóa như một tập hợp luôn thay đổi của các ý nghĩa do các thành viên xã hội xây
dựng. Do đó nó đòi hỏi sự liên tục trong nghiên cứu và diễn dịch.
BẢNG TÓM TẮT
CÁC TRƯỜNG PHÁI LÝ THUYẾT CHÍNH
Trường phái
Điểm chính
Người sáng lập
Tiến hóa
Mọi xã hội đều trải qua các giai đoạn phát triển
nhất định
Tylor, Morgan
Truyền bá
Thay đổi văn hóa của xã hội là kết quả của sự vay
mượn từ xã hội khác
Graebner, Smith
Đặc thù lịch sử
Công tác thực địa phải được tiến hành trước việc xây
dựng thuyết
Boas, Kroeber
Chức năng
Các hợp phần của văn hóa phối hợp với nhau để phục
vụ như cầu của con người
Mlinowski
Chức năng
Các nhân tố văn hóa hoạt động với nhau thế nào để
đáp ứng nhu cầu của toàn xã hội
Radcliffe Brown
Nhân học tâm lý
Tìm hiểu mối quan hệ giữa tâm lý và văn hóa
Benedict Mead
Tân tiến hóa
Tiến hóa văn hóa phụ thuộc vào khả năng kiểm soát
năng lượng.
White, Steward
Cơ cấu Pháp
Các nền văn hóa do các mã được quy định sẵn trong
trí óc con người quyết định
Lévi-Strauss
Duy vật văn hóa
Các điều kiện vật chất quyết định ý thức và hành vi
của con người
Marvin Harris
Hậu hiện đại
Hành vi của con người bắt nguồn từ cách con người
hiểu và phân loại thế giới xung quanh
Geertz
Nguồn: http://nhanhocvn.net
Share Post
Một số bài viết khác
– Lý thuyết “trung tâm và ngoại vi” trong nghiên cứu không gian văn hóa – Tác giả: GS.TS. Ngô Đức Thịnh
– Các lý thuyết về chính trị thế giới – Tác giả: Charles W. Kegley, JR. & Gregory A. Raymond – Biên dịch: Lê Thùy Trang – Hiệu đính: Lê Hồng Hiệp
– Cách tiếp cận hệ thống và các lý thuyết, biên dịch: Nguyễn Việt Vân Anh | Hiệu đính: Nguyễn Hoàng Như Thanh
– Tiếp cận lý thuyết về hệ giá trị – Tổng hợp Th/s Trần Minh Hoàng
– Lý thuyết về thực thể tôn giáo – Dẫn theo đề tài TN3/X6 “Vấn đề tôn giáo trong phát triển bền vững Tây Nguyên”
– Lý thuyết về thể chế và thể chế phát triển vùng – Dẫn theo PGS.TS Hà Huy Thành
– Lý thuyết về chức năng vùng – Dẫn theo GS.TS Nguyễn Xuân Thắng
– Lý luận tự quản xã hội chủ nghĩa của Nam Tư – Tổng hợp Ths. Trần Minh Hoàng