Bàn về tính mới trong nghiên cứu khoa học – Tài liệu text

Bàn về tính mới trong nghiên cứu khoa học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (263.87 KB, 6 trang )

BÀN VỀ TÍNH MỚI TRONG NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
TS.Lương Cơng Nguyên
Khoa Quản trị, Trường Đại học Luật TP.HCM
TÓM TẮT
Theo nhà xuất bản Elsevier, khơng đủ tính mới thuộc nhóm ngun nhân hàng đầu mà
các cơng trình nghiên cứu khoa học bị các tạp chí quốc tế từ chối cơng bố mà khơng cần xem
xét. Có thể nói rằng ban biên tập của hầu hết các tạp chí đều yêu cầu tính mới trong một cơng
bố khoa học. Do đó, những cơng trình nghiên cứu khơng có tính mới, khơng lơi cuốn người
đọc, thì khó có cơ hội cơng bố trên các tạp chí quốc tế. Về ngun tắc, mỗi cơng trình nghiên
cứu khoa học được xuất bản phải có một hoặc nhiều khía cạnh mới lạ. Tuy nhiên, khơng phải
tất cả các cơng trình được cơng bố đều mới lạ hồn tồn. Một số cơng trình cơng bố những ý
tưởng mới, chưa từng được công bố trước đây, trong khi những cơng trình khác củng cố hoặc
xác nhận những ý tưởng đã được công bố trong một bối cảnh mới hoặc mơi trường mới. Vậy
tính mới là gì? Cách thức nào để tìm được tính mới trong nghiên cứu và trình bày tính mới
trong cơng bố cơng trình nghiên cứu như thế nào?

1. Tính mới trong nghiên cứu khoa học
Tính mới, tính độc đáo và tính tiên phong là ba khái niệm quan trọng liên quan đến xuất
bản khoa học (Morgan 1985, 2), trong đó tính mới là một khía cạnh quan trọng của bất kỳ
nghiên cứu nào, đặc biệt là trong thời hiện đại. Tính mới của một nghiên cứu có nhiều khái
niệm khác nhau. Một số học giả đã thảo luận về tính mới của nghiên cứu liên quan đến những
kết quả mới nhất, trong khi những người khác cho rằng tính mới liên quan đến sự thú vị của
nghiên cứu. Kuhn (2012) cho rằng khoa học phát triển thông qua sự đổi mới và nghiên cứu trên
những khái niệm mới lạ. Theo Cohen (2017) thì tính mới có thể bao gồm việc chứng minh một
vấn đề đã được cơng bố trước đó trong một hệ thống mới để kiểm tra một giả thuyết chưa được
đề cập trong cơng bố đó. Trong khi đó, Raymond (2014) cho rằng tính mới của một nghiên cứu
dựa trên nguyên tắc cơ bản rằng giá trị của một nghiên cứu không nằm ở mức độ nỗ lực của
nhà nghiên cứu dành cho nó; đúng hơn, giá trị của nghiên cứu nằm ở tính mới của kết quả.
Mishra và Torvik (2016) định nghĩa tính mới là sự kết hợp của một trong ba nội dung: Giả
thuyết, Phương pháp và Kết quả. Nhìn chung, tính mới có thể là phương pháp mới, cách tiếp
cận mới, kết quả mới, cách diễn giải mới, v.v…

Tính mới là giá trị chính của hầu hết các nghiên cứu khoa học. Một nghiên cứu khơng có
tính mới thì gần như khơng có giá trị để thực hiện. Với những tiến bộ công nghệ trong mọi lĩnh
vực nghiên cứu khác nhau, việc tìm kiếm một chủ đề có tính mới thường là một thách thức.
Tuy nhiên, cũng không nhất thiết mọi nghiên cứu khoa học đều phải hoàn toàn mới nguyên
93

bản, thông thường các nghiên cứu khoa học sẽ luôn có một số trùng lặp nhất định với các
nghiên cứu đã thực hiện trước đó. Ví dụ, một phương pháp mới có thể được sử dụng để tạo ra
kết quả cho một vấn đề cần nghiên cứu mà đã có sẵn một phương pháp luận được cơng bố
trước đó, ở đây, tính mới nằm ở phương pháp luận, là hệ thống cơ sở lý luận cho phương pháp
nghiên cứu mới được sử dụng. Đơi khi, tính mới cũng có thể là kết quả nghiên cứu trái ngược
với kết quả đã được cơng bố trước đó. Những thay đổi trong các phương pháp luận được công
bố trước đây dẫn đến một kết quả khác nhau cũng có thể được coi là mới lạ.
Cơng trình nghiên cứu khoa học bắt đầu từ việc (i) phát sinh ý tưởng (ideas), (ii) đưa ra
giả thuyết (hypothesis), (iii) tìm phương pháp (methods), (iv) đưa ra kết quả nghiên cứu
(results), và (v) diễn giải kết quả nghiên cứu (interpretation), vậy nên khi đề cập đến tính mới
trong nghiên cứu cũng có thể đề cập đến những yếu tố mới có liên quan đến ít nhất một trong 5
nội dung trên, tuy nhiên, vì kết quả nghiên cứu và diễn giải kết quả phụ thuộc vào dữ liệu thu
thập được và phương pháp phân tích. Do đó, có thể xem tính mới trong nghiên cứu khoa học là
một sự liên kết giữa ý tưởng, phương pháp và dữ liệu nghiên cứu. Sau khi kết hợp các yếu tố
chính, nhà nghiên cứu có 8 trường hợp về tính mới trong nghiên cứu khoa học, bao gồm:
1) Ý tưởng mới + Dữ liệu mới + Phương pháp mới
2) Ý tưởng mới + Dữ liệu mới + Phương pháp cũ
3) Ý tưởng mới + Dữ liệu cũ + Phương pháp mới
4) Ý tưởng mới + Dữ liệu cũ + Phương pháp cũ
5) Ý tưởng cũ + Dữ liệu mới + Phương pháp mới
6) Ý tưởng cũ + Dữ liệu mới + Phương pháp cũ
7) Ý tưởng cũ + Dữ liệu cũ + Phương pháp mới
8) Ý tưởng cũ + Dữ liệu cũ + Phương pháp cũ

Trong 8 trường hợp trên, chỉ có trường hợp cuối cùng là khơng mới; 7 trường hợp cịn lại
đều có thể xem là có đóng góp mới cho khoa học. Do đó, khi nói đến tính mới trong nghiên
cứu khoa học, có thể xem rằng ý tưởng hay vấn đề có thể cũ, nhưng nếu các nhà nghiên cứu có
một cách tiếp cận bằng một phương pháp mới hay dữ liệu mới thì vẫn được xem là đóng góp
nội dung có tính mới vào tri thức khoa học. Thậm chí, có khi ý tưởng và phương pháp không
mới, nhưng được thực hiện trên một cơ sở dữ liệu mới để có được kết quả và cách diễn giải
mới thì vẫn được xem là một đóng góp mới vào tri thức khoa học.
Từ cách tiếp cận trên, để nghiên cứu có tính mới có thể xem xét thực hiện các nội dung
liên quan đến:
1) Phát triển một lí thuyết mới, mơ hình mới.
94

2) Thực hiện những giả thuyết mới về một vấn đề mà chưa công bố trước đây.
3) Phát triển một công cụ nghiên cứu mới hay một kĩ thuật phân tích mới.
4) Thực hiện nghiên cứu về một vấn đề mới trong bối cảnh hiện tại.
5) Phát triển một mô hình mới để tiếp cận và giải quyết một vấn đề đã công bố.
6) Cung cấp dữ liệu mới hay kết luận mới cho vấn đề đã công bố trước đây.
7) Đánh giá lại tác động của một lí thuyết hoặc mơ hình trong bối cảnh mới.
2. Cách thức tìm tính mới trong nghiên cứu khoa học
Để thực hiện tìm kiếm tính mới cho cơng trình nghiên cứu, nhà nghiên cứu sẽ cần tìm
kiếm nhiều bài báo, cơng trình nghiên cứu đã được cơng bố, tài liệu, tạp chí, sách để xem
những gì đã được viết liên quan đến ý tưởng chủ đề mà nhà nghiên cứu dự kiến tiến hành thực
hiện nghiên cứu.
Bằng cách thực hiện tìm kiếm tính mới, nhà nghiên cứu sẽ hoàn thành một phần quan
trọng trong nghiên cứu của mình. Đánh giá tổng quan vấn đề nghiên cứu là một bước cần thiết
trong quá trình viết và khi thực hiện tìm kiếm tính mới, về cơ bản, nhà nghiên cứu sẽ hoàn
thành đánh giá tổng quan về chủ đề nghiên cứu của mình.
2.1. Đọc và đánh giá nhiều cơng trình nghiên cứu đã được cơng bố
Khi thực hiện cơng trình nghiên cứu, nhà nghiên cứu phải chấp nhận rằng cần đọc và

đánh giá rất nhiều nghiên cứu đã được công bố trước khi thực sự tiến hành dự án nghiên cứu
của riêng mình. Điều này giúp nhà nghiên cứu hiểu công việc đã được thực hiện và cơng bố
bởi các nhà nghiên cứu khác. Ngồi ra, nó cịn cho nhà nghiên cứu biết đâu là những lĩnh vực
cần nghiên cứu mới, nghiên cứu mở rộng, bổ sung hay khẳng định/phản bác. Vì vậy, nó cung
cấp các ý tưởng hay về một chủ đề có tính mới. Việc đọc và đánh giá tài liệu nên được thực
hiện trong giai đoạn hình thành ý tưởng, để xác định xem một lĩnh vực cụ thể có đáng để tiến
hành nghiên cứu hay không.
Nhà nghiên cứu cần phải xem xét tài liệu kỹ lưỡng để tạo ra một ý tưởng tốt cho cơng
trình nghiên cứu của mình. Đọc nhiều tài liệu nghiên cứu, sách, tạp chí và các tài liệu khác có
liên quan. Và hãy tự hỏi đâu là chủ đề tốt nhất có thể giúp nhà nghiên cứu tiến hành một
nghiên cứu có giá trị.
Nói chung, q trình tìm kiếm tính mới khi đánh giá các nghiên cứu đã cơng bố bao gồm
ba bước chính: tiền xử lý, phân loại và khai thác tính mới (Zhang và Tsai 2009a). Giai đoạn
tiền xử lý các tài liệu là công việc tìm kiếm các tài liệu có liên quan trong lĩnh vực nghiên cứu,
sau đó tiến hành giai đoạn phân loại đưa các tài liệu vào các thư mục chủ đề, và sắp xếp các tài
liệu trong chủ đề theo trình tự thời gian để đánh giá khai thác tính mới. Khai thác tính mới
95

được thực hiện ở ba cấp độ khác nhau: cấp độ sự kiện, câu và tài liệu (Li và Croft 2005).
2.2. Đánh giá ý nghĩa của cơng trình nghiên cứu
Đánh giá ý nghĩa của cơng trình nghiên cứu đối với cộng đồng hoặc khu vực. Khơng có
lý do gì để thực hiện một nghiên cứu khơng có ý nghĩa. Tính có ý nghĩa của cơng trình nghiên
cứu làm cho nó trở nên mới lạ và độc đáo. Đôi khi, nhà nghiên cứu viết một cơng bố cơng trình
nghiên cứu khơng hoàn toàn độc đáo nhưng cách tiếp cận để tiến hành nghiên cứu là độc đáo.
Rất ít nghiên cứu hồn tồn mới lạ, hầu hết đều có một số tính mới và điều đó có thể chấp nhận
được.
Điều này cũng làm nổi bật một điểm quan trọng khác là nếu nhà nghiên cứu khơng tìm
thấy tính mới mẻ, độc đáo và có ý nghĩa trong nghiên cứu của mình thì nên thay đổi chủ đề
nghiên cứu, hoặc có thể nghĩ về một cách thức khác để tiến hành nghiên cứu.

Có rất nhiều nghiên cứu đang diễn ra và được công bố, nhà nghiên cứu có thể kiểm tra
các cơ sở dữ liệu khác nhau để đảm bảo rằng chủ đề và cách tiếp cận thực hiện nghiên cứu là
có tính mới.
2.3. Tìm ra tính mới của nghiên cứu
Tính mới của nghiên cứu đề cập đến một hoặc các yếu tố mới trong nghiên cứu, bao gồm
phương pháp luận mới hoặc quan sát mới dẫn đến khám phá kiến thức mới. Một điều mới lạ có
thể góp phần vào tiến bộ khoa học. Tính mới của nghiên cứu và tác động của nghiên cứu có thể
là một cách chiến lược để thu hút sự chú ý của độc giả vào một bài báo nghiên cứu. Bản chất
tính mới trong các kết quả thu được của cơng trình nghiên cứu cần được kết nối với ý nghĩa
của chúng đối với khoa học cũng như ý nghĩa về mặt thực tiễn. Để tìm ra tính mới trong lĩnh
vực nghiên cứu, các nhà nghiên cứu cần phải tiến hành tổng quan tài liệu kỹ lưỡng để tìm ra
những gì được nghiên cứu và đâu là những khoảng trống cần được làm rõ. Bài đánh giá tài liệu
này phụ thuộc vào kiến thức chuyên sâu về lĩnh vực nghiên cứu. Các nhà nghiên cứu nên so
sánh và liên kết công việc của họ với các nghiên cứu khác trước đó. Nhiều tạp chí có chỉ số tác
động lớn sẽ có xu hướng ưu tiên chọn đăng các bài báo cơng bố có tính mới lạ. Với một số
lượng lớn các nghiên cứu và sự phát triển khoa học nhanh chóng, tính mới trở thành một thách
thức và áp lực đối với một số nhà nghiên cứu để đưa ra các nghiên cứu sáng tạo và phù hợp.
3. Cách thức trình bày tính mới trong cơng trình nghiên cứu khoa học
Nhà nghiên cứu có trách nhiệm nêu bật tính mới trong cơng trình nghiên cứu của mình.
Nhà nghiên cứu cần viết ra sự khác biệt trong cơng trình nghiên cứu của mình so với các
nghiên cứu trước đây như thế nào và nó thể hiện nội dung mới lạ nào. Nhà nghiên cứu đã đạt
được gì trong quá trình tiến hành thực hiện nghiên cứu? Điều này cũng sẽ giúp làm nổi bật tính
độc đáo, hợp lý và sáng tạo trong cơng trình nghiên cứu đối với độc giả.
96

Có nhiều cách nhà nghiên cứu có thể làm nổi bật tính mới của mình trong nghiên cứu.
Tính mới phải được đề cập một cách chiến lược, trong phần tóm tắt, phần mở đầu và phần kết
luận, cũng như trong phần nội dung chính của cơng trình nghiên cứu nếu thích hợp. Tất nhiên,
quan trọng nhất là vấn đề mà nhà nghiên cứu giải quyết thơng qua cơng trình nghiên cứu này.

Đôi khi, nhà nghiên cứu sử dụng một phương pháp luận mới để giải quyết một vấn đề, vì vậy,
hãy đề cập đến nó trong phần phương pháp nghiên cứu và dữ liệu, tuy nhiên, nhà nghiên cứu
cần tránh tập trung phần lớn công sức vào việc mô tả phương pháp và diễn giải kết quả thực
nghiệm, trong khi lại ít chú trọng vào việc viết phần mở đầu phù hợp. Quy tắc chung thường sử
dụng trong việc làm nổi bật tính mới của cơng trình nghiên cứu, đó là phần mở đầu phải (a) mô
tả bối cảnh tổng thể và sự cần thiết thực hiện nghiên cứu; (b) đánh giá ngắn gọn nhưng toàn
diện về các nghiên cứu trước đó có liên quan, nhằm mục đích (c) có thể chỉ rõ các đóng góp
của nghiên cứu phù hợp với bức tranh tổng thể của vấn đề nghiên cứu. Phần kết luận trong
cơng trình nghiên cứu, nhà nghiên cứu cần cho người đọc biết nghiên cứu này giải quyết vấn
đề như thế nào. Và, nó đã bổ sung gì vào khoảng trống kiến thức hiện tại. Thêm một số điểm
trong phần thảo luận về những phát hiện mới của cơng trình nghiên cứu và những phát hiện đó
có thể giúp ích như thế nào cho các nghiên cứu tiếp theo.
Nói tóm lại, một cơng trình nghiên cứu phải thể hiện một đóng góp mới cho chuyên
ngành, hay sáng tạo ra tri thức mới cho khoa học. Nhưng tính mới ở đây cần phải được hiểu
trong khuôn khổ của một mô thức khoa học và được cộng đồng khoa học cơng nhận. Nội dung
một cơng trình nghiên cứu khơng nhất thiết phải có tính mới hồn tồn từ ý tưởng, phương
pháp, dữ liệu, kết quả đến diễn giải, hay là những khám phá mang tính cách mạng trong một
lĩnh vực, nhưng phải thể hiện một sự đóng góp có ý nghĩa vào tri thức của chuyên ngành và bổ
sung vào khoảng trống tri thức khoa học hiện tại.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Cohen, Barak A. (2017). How should novelty be valued in science?. eLife, 6, e28699. doi:
10.7554/eLife.28699.
Li, X. and Croft, W.B. (2005). Novelty detection based on sentence level patterns. in Herzog,
O., Schek, H.-J., Fuhr, N., Chowdhury, A. and Teiken, W. (Eds), Proceedings of the 14th
ACM International Conference on Information and Knowledge Management in Bremen,
Germany, ACM, New York, NY. pp. 744-751.
Kuhn, TS. (2012). The structure of scientific revolutions: 50th anniversary edition. University
of Chicago Press.
Mishra S, and Torvik VI. (2016). Quantifying conceptual novelty in the biomedical literature.
Dlib Mag 22:9–10. doi: 10.1045/september2016-mishra.

Morgan PP. (1985). Originality, novelty and priority: Three words to reckon with in scientific
97

publishing. Canadian Medical Association Journal 132(1):8–9.
Zhang, Y., and Tsai, F.S. (2009a). Chinese novelty mining. in Koehn, P. and Mihalcea, R.
(Eds), Proceedings of the 2009 Conference on Empirical Methods in Natural Language
Processing in Suntec, Singapore, Association for Computational Linguistics, Stroudsburg,
PA. pp. 1561-1570.
/> /> />
98

Tính mới là giá trị chính của hầu hết các nghiên cứu khoa học. Một nghiên cứu khơng cótính mới thì gần như khơng có giá trị để thực hiện. Với những tiến bộ công nghệ trong mọi lĩnhvực nghiên cứu khác nhau, việc tìm kiếm một chủ đề có tính mới thường là một thách thức.Tuy nhiên, cũng không nhất thiết mọi nghiên cứu khoa học đều phải hoàn toàn mới nguyên93bản, thông thường các nghiên cứu khoa học sẽ luôn có một số trùng lặp nhất định với cácnghiên cứu đã thực hiện trước đó. Ví dụ, một phương pháp mới có thể được sử dụng để tạo rakết quả cho một vấn đề cần nghiên cứu mà đã có sẵn một phương pháp luận được cơng bốtrước đó, ở đây, tính mới nằm ở phương pháp luận, là hệ thống cơ sở lý luận cho phương phápnghiên cứu mới được sử dụng. Đơi khi, tính mới cũng có thể là kết quả nghiên cứu trái ngượcvới kết quả đã được cơng bố trước đó. Những thay đổi trong các phương pháp luận được côngbố trước đây dẫn đến một kết quả khác nhau cũng có thể được coi là mới lạ.Cơng trình nghiên cứu khoa học bắt đầu từ việc (i) phát sinh ý tưởng (ideas), (ii) đưa ragiả thuyết (hypothesis), (iii) tìm phương pháp (methods), (iv) đưa ra kết quả nghiên cứu(results), và (v) diễn giải kết quả nghiên cứu (interpretation), vậy nên khi đề cập đến tính mớitrong nghiên cứu cũng có thể đề cập đến những yếu tố mới có liên quan đến ít nhất một trong 5nội dung trên, tuy nhiên, vì kết quả nghiên cứu và diễn giải kết quả phụ thuộc vào dữ liệu thuthập được và phương pháp phân tích. Do đó, có thể xem tính mới trong nghiên cứu khoa học làmột sự liên kết giữa ý tưởng, phương pháp và dữ liệu nghiên cứu. Sau khi kết hợp các yếu tốchính, nhà nghiên cứu có 8 trường hợp về tính mới trong nghiên cứu khoa học, bao gồm:1) Ý tưởng mới + Dữ liệu mới + Phương pháp mới2) Ý tưởng mới + Dữ liệu mới + Phương pháp cũ3) Ý tưởng mới + Dữ liệu cũ + Phương pháp mới4) Ý tưởng mới + Dữ liệu cũ + Phương pháp cũ5) Ý tưởng cũ + Dữ liệu mới + Phương pháp mới6) Ý tưởng cũ + Dữ liệu mới + Phương pháp cũ7) Ý tưởng cũ + Dữ liệu cũ + Phương pháp mới8) Ý tưởng cũ + Dữ liệu cũ + Phương pháp cũTrong 8 trường hợp trên, chỉ có trường hợp cuối cùng là khơng mới; 7 trường hợp cịn lạiđều có thể xem là có đóng góp mới cho khoa học. Do đó, khi nói đến tính mới trong nghiêncứu khoa học, có thể xem rằng ý tưởng hay vấn đề có thể cũ, nhưng nếu các nhà nghiên cứu cómột cách tiếp cận bằng một phương pháp mới hay dữ liệu mới thì vẫn được xem là đóng gópnội dung có tính mới vào tri thức khoa học. Thậm chí, có khi ý tưởng và phương pháp khôngmới, nhưng được thực hiện trên một cơ sở dữ liệu mới để có được kết quả và cách diễn giảimới thì vẫn được xem là một đóng góp mới vào tri thức khoa học.Từ cách tiếp cận trên, để nghiên cứu có tính mới có thể xem xét thực hiện các nội dungliên quan đến:1) Phát triển một lí thuyết mới, mơ hình mới.942) Thực hiện những giả thuyết mới về một vấn đề mà chưa công bố trước đây.3) Phát triển một công cụ nghiên cứu mới hay một kĩ thuật phân tích mới.4) Thực hiện nghiên cứu về một vấn đề mới trong bối cảnh hiện tại.5) Phát triển một mô hình mới để tiếp cận và giải quyết một vấn đề đã công bố.6) Cung cấp dữ liệu mới hay kết luận mới cho vấn đề đã công bố trước đây.7) Đánh giá lại tác động của một lí thuyết hoặc mơ hình trong bối cảnh mới.2. Cách thức tìm tính mới trong nghiên cứu khoa họcĐể thực hiện tìm kiếm tính mới cho cơng trình nghiên cứu, nhà nghiên cứu sẽ cần tìmkiếm nhiều bài báo, cơng trình nghiên cứu đã được cơng bố, tài liệu, tạp chí, sách để xemnhững gì đã được viết liên quan đến ý tưởng chủ đề mà nhà nghiên cứu dự kiến tiến hành thựchiện nghiên cứu.Bằng cách thực hiện tìm kiếm tính mới, nhà nghiên cứu sẽ hoàn thành một phần quantrọng trong nghiên cứu của mình. Đánh giá tổng quan vấn đề nghiên cứu là một bước cần thiếttrong quá trình viết và khi thực hiện tìm kiếm tính mới, về cơ bản, nhà nghiên cứu sẽ hoànthành đánh giá tổng quan về chủ đề nghiên cứu của mình.2.1. Đọc và đánh giá nhiều cơng trình nghiên cứu đã được cơng bốKhi thực hiện cơng trình nghiên cứu, nhà nghiên cứu phải chấp nhận rằng cần đọc vàđánh giá rất nhiều nghiên cứu đã được công bố trước khi thực sự tiến hành dự án nghiên cứucủa riêng mình. Điều này giúp nhà nghiên cứu hiểu công việc đã được thực hiện và cơng bốbởi các nhà nghiên cứu khác. Ngồi ra, nó cịn cho nhà nghiên cứu biết đâu là những lĩnh vựccần nghiên cứu mới, nghiên cứu mở rộng, bổ sung hay khẳng định/phản bác. Vì vậy, nó cungcấp các ý tưởng hay về một chủ đề có tính mới. Việc đọc và đánh giá tài liệu nên được thựchiện trong giai đoạn hình thành ý tưởng, để xác định xem một lĩnh vực cụ thể có đáng để tiếnhành nghiên cứu hay không.Nhà nghiên cứu cần phải xem xét tài liệu kỹ lưỡng để tạo ra một ý tưởng tốt cho cơngtrình nghiên cứu của mình. Đọc nhiều tài liệu nghiên cứu, sách, tạp chí và các tài liệu khác cóliên quan. Và hãy tự hỏi đâu là chủ đề tốt nhất có thể giúp nhà nghiên cứu tiến hành mộtnghiên cứu có giá trị.Nói chung, q trình tìm kiếm tính mới khi đánh giá các nghiên cứu đã cơng bố bao gồmba bước chính: tiền xử lý, phân loại và khai thác tính mới (Zhang và Tsai 2009a). Giai đoạntiền xử lý các tài liệu là công việc tìm kiếm các tài liệu có liên quan trong lĩnh vực nghiên cứu,sau đó tiến hành giai đoạn phân loại đưa các tài liệu vào các thư mục chủ đề, và sắp xếp các tàiliệu trong chủ đề theo trình tự thời gian để đánh giá khai thác tính mới. Khai thác tính mới95được thực hiện ở ba cấp độ khác nhau: cấp độ sự kiện, câu và tài liệu (Li và Croft 2005).2.2. Đánh giá ý nghĩa của cơng trình nghiên cứuĐánh giá ý nghĩa của cơng trình nghiên cứu đối với cộng đồng hoặc khu vực. Khơng cólý do gì để thực hiện một nghiên cứu khơng có ý nghĩa. Tính có ý nghĩa của cơng trình nghiêncứu làm cho nó trở nên mới lạ và độc đáo. Đôi khi, nhà nghiên cứu viết một cơng bố cơng trìnhnghiên cứu khơng hoàn toàn độc đáo nhưng cách tiếp cận để tiến hành nghiên cứu là độc đáo.Rất ít nghiên cứu hồn tồn mới lạ, hầu hết đều có một số tính mới và điều đó có thể chấp nhậnđược.Điều này cũng làm nổi bật một điểm quan trọng khác là nếu nhà nghiên cứu khơng tìmthấy tính mới mẻ, độc đáo và có ý nghĩa trong nghiên cứu của mình thì nên thay đổi chủ đềnghiên cứu, hoặc có thể nghĩ về một cách thức khác để tiến hành nghiên cứu.Có rất nhiều nghiên cứu đang diễn ra và được công bố, nhà nghiên cứu có thể kiểm tracác cơ sở dữ liệu khác nhau để đảm bảo rằng chủ đề và cách tiếp cận thực hiện nghiên cứu làcó tính mới.2.3. Tìm ra tính mới của nghiên cứuTính mới của nghiên cứu đề cập đến một hoặc các yếu tố mới trong nghiên cứu, bao gồmphương pháp luận mới hoặc quan sát mới dẫn đến khám phá kiến thức mới. Một điều mới lạ cóthể góp phần vào tiến bộ khoa học. Tính mới của nghiên cứu và tác động của nghiên cứu có thểlà một cách chiến lược để thu hút sự chú ý của độc giả vào một bài báo nghiên cứu. Bản chấttính mới trong các kết quả thu được của cơng trình nghiên cứu cần được kết nối với ý nghĩacủa chúng đối với khoa học cũng như ý nghĩa về mặt thực tiễn. Để tìm ra tính mới trong lĩnhvực nghiên cứu, các nhà nghiên cứu cần phải tiến hành tổng quan tài liệu kỹ lưỡng để tìm ranhững gì được nghiên cứu và đâu là những khoảng trống cần được làm rõ. Bài đánh giá tài liệunày phụ thuộc vào kiến thức chuyên sâu về lĩnh vực nghiên cứu. Các nhà nghiên cứu nên sosánh và liên kết công việc của họ với các nghiên cứu khác trước đó. Nhiều tạp chí có chỉ số tácđộng lớn sẽ có xu hướng ưu tiên chọn đăng các bài báo cơng bố có tính mới lạ. Với một sốlượng lớn các nghiên cứu và sự phát triển khoa học nhanh chóng, tính mới trở thành một tháchthức và áp lực đối với một số nhà nghiên cứu để đưa ra các nghiên cứu sáng tạo và phù hợp.3. Cách thức trình bày tính mới trong cơng trình nghiên cứu khoa họcNhà nghiên cứu có trách nhiệm nêu bật tính mới trong cơng trình nghiên cứu của mình.Nhà nghiên cứu cần viết ra sự khác biệt trong cơng trình nghiên cứu của mình so với cácnghiên cứu trước đây như thế nào và nó thể hiện nội dung mới lạ nào. Nhà nghiên cứu đã đạtđược gì trong quá trình tiến hành thực hiện nghiên cứu? Điều này cũng sẽ giúp làm nổi bật tínhđộc đáo, hợp lý và sáng tạo trong cơng trình nghiên cứu đối với độc giả.96Có nhiều cách nhà nghiên cứu có thể làm nổi bật tính mới của mình trong nghiên cứu.Tính mới phải được đề cập một cách chiến lược, trong phần tóm tắt, phần mở đầu và phần kếtluận, cũng như trong phần nội dung chính của cơng trình nghiên cứu nếu thích hợp. Tất nhiên,quan trọng nhất là vấn đề mà nhà nghiên cứu giải quyết thơng qua cơng trình nghiên cứu này.Đôi khi, nhà nghiên cứu sử dụng một phương pháp luận mới để giải quyết một vấn đề, vì vậy,hãy đề cập đến nó trong phần phương pháp nghiên cứu và dữ liệu, tuy nhiên, nhà nghiên cứucần tránh tập trung phần lớn công sức vào việc mô tả phương pháp và diễn giải kết quả thựcnghiệm, trong khi lại ít chú trọng vào việc viết phần mở đầu phù hợp. Quy tắc chung thường sửdụng trong việc làm nổi bật tính mới của cơng trình nghiên cứu, đó là phần mở đầu phải (a) môtả bối cảnh tổng thể và sự cần thiết thực hiện nghiên cứu; (b) đánh giá ngắn gọn nhưng toàndiện về các nghiên cứu trước đó có liên quan, nhằm mục đích (c) có thể chỉ rõ các đóng gópcủa nghiên cứu phù hợp với bức tranh tổng thể của vấn đề nghiên cứu. Phần kết luận trongcơng trình nghiên cứu, nhà nghiên cứu cần cho người đọc biết nghiên cứu này giải quyết vấnđề như thế nào. Và, nó đã bổ sung gì vào khoảng trống kiến thức hiện tại. Thêm một số điểmtrong phần thảo luận về những phát hiện mới của cơng trình nghiên cứu và những phát hiện đócó thể giúp ích như thế nào cho các nghiên cứu tiếp theo.Nói tóm lại, một cơng trình nghiên cứu phải thể hiện một đóng góp mới cho chuyênngành, hay sáng tạo ra tri thức mới cho khoa học. Nhưng tính mới ở đây cần phải được hiểutrong khuôn khổ của một mô thức khoa học và được cộng đồng khoa học cơng nhận. Nội dungmột cơng trình nghiên cứu khơng nhất thiết phải có tính mới hồn tồn từ ý tưởng, phươngpháp, dữ liệu, kết quả đến diễn giải, hay là những khám phá mang tính cách mạng trong mộtlĩnh vực, nhưng phải thể hiện một sự đóng góp có ý nghĩa vào tri thức của chuyên ngành và bổsung vào khoảng trống tri thức khoa học hiện tại.TÀI LIỆU THAM KHẢOCohen, Barak A. (2017). How should novelty be valued in science?. eLife, 6, e28699. doi:10.7554/eLife.28699.Li, X. and Croft, W.B. (2005). Novelty detection based on sentence level patterns. in Herzog,O., Schek, H.-J., Fuhr, N., Chowdhury, A. and Teiken, W. (Eds), Proceedings of the 14thACM International Conference on Information and Knowledge Management in Bremen,Germany, ACM, New York, NY. pp. 744-751.Kuhn, TS. (2012). The structure of scientific revolutions: 50th anniversary edition. Universityof Chicago Press.Mishra S, and Torvik VI. (2016). Quantifying conceptual novelty in the biomedical literature.Dlib Mag 22:9–10. doi: 10.1045/september2016-mishra.Morgan PP. (1985). Originality, novelty and priority: Three words to reckon with in scientific97publishing. Canadian Medical Association Journal 132(1):8–9.Zhang, Y., and Tsai, F.S. (2009a). Chinese novelty mining. in Koehn, P. and Mihalcea, R.(Eds), Proceedings of the 2009 Conference on Empirical Methods in Natural LanguageProcessing in Suntec, Singapore, Association for Computational Linguistics, Stroudsburg,PA. pp. 1561-1570./> /> />98