Bác sĩ 18 năm đi tìm lời giải cho “án tử” ung thư
Trong căn phòng làm việc giản dị của Phó Giám đốc Trung tâm Ung bướu, Bệnh viện Chợ Rẫy, TS-BS Lê Tuấn Anh vẫn dành một góc trang trọng để trưng bày những món quà mà bệnh nhân ung thư gửi tặng mình. Đó là một bức tranh, bức thư pháp, bức thư cảm ơn hay một món đồ lưu niệm bệnh nhân tự tay làm. Nói về những món quà đó, BS Tuấn Anh khiêm tốn: “Cảm thấy có động lực hơn trong công việc và thấy mình… có ích”.
Vào năm 1999, khi anh vừa nhận tấm bằng tốt nghiệp y khoa loại giỏi cũng là lúc Bệnh viện Chợ Rẫy tuyển một số bác sĩ đi học chuyên ngành ung thư để phát triển chuyên ngành này ở bệnh viện. BS Tuấn Anh là một trong số những bác sĩ trẻ nhất được chọn. Nhóm bác sĩ trẻ được định hướng học chuyên về xạ trị máy gia tốc – một kỹ thuật hiện đại nhất trong chữa ung thư khi ấy. Họ được cử đi học ở Bệnh viện K Hà Nội – nơi trang bị máy gia tốc đầu tiên ở Việt Nam rồi sang Bệnh viện Đại học Quốc gia Singapore, Bệnh viện Melbourne (Australia).
Lúc anh trở về nước, Khoa Ung bướu, Bệnh viện Chợ Rẫy ra đời. BS Lê Tuấn Anh được bổ nhiệm phó khoa ở tuổi 27. Năm 2002, anh cùng 3 bác sĩ khác trở thành “cánh chim đầu đàn” trong điều trị ung thư bằng máy gia tốc đầu tiên ở miền Nam. Sau đó 1 năm, năm 2003, một bệnh nhân bị u não đầu tiên được điều trị bằng phương pháp xạ phẫu nhằm làm tiêu biến khối u tại Bệnh viện Chợ Rẫy. Mặc dù có các chuyên gia người Đức làm cùng nhưng BS Tuấn Anh là người tính toán liều để bắn tia và chịu trách nhiệm đảm bảo an toàn cho bệnh nhân. “Sau khi được điều trị bắn tia khoảng 30 phút, bệnh nhân ngồi dậy cười. Cảm giác như nghẹn lại, mình làm được cái gì đó đột phá…”. BS Tuấn Anh chia sẻ.
Với anh, những bệnh nhân đầu tiên luôn để lại những ký ức khó quên. Đó là một y sĩ ở Cần Giuộc, Long An đến bệnh viện khi phát hiện ung thư vòm họng giai đoạn 3 – một loại ung thư khó điều trị vào thời điểm đó. Bệnh nhân vô cùng suy sụp và luôn cho rằng có “án tử treo lơ lửng” trước mặt. Các bác sĩ cùng hội chẩn và thuyết phục bệnh nhân điều trị theo phác đồ mới, phối hợp đồng thời giữa hóa trị và xạ trị. Phương pháp này được Singapore nghiên cứu và áp dụng chưa lâu. “Đây là một trong những ca đầu tiên chúng tôi áp dụng phương pháp này nên cũng hồi hộp, lo lắng. Nhưng rồi, thấy khối u ngày một nhỏ lại và biến mất, bệnh nhân khỏe mạnh, anh em xúc động và hạnh phúc lắm”. Đến bây giờ, bệnh nhân vẫn thỉnh thoảng ghé thăm bác sĩ.
Vào năm 2004, khi bệnh ung thư thanh quản gần như phải điều trị bằng cách cắt bỏ thanh quản thì BS Tuấn Anh đã quyết định điều trị bảo tồn thanh quản cho một bệnh nhân làm công tác dân vận. Với bệnh nhân này, cắt bỏ thanh quản đồng nghĩa với việc ông không thể tiếp tục công việc mà mình tâm huyết. Phác đồ do các bác sĩ đưa ra đã đem lại kết quả ngoạn mục, bệnh nhân khỏi bệnh, giữ được giọng nói và đến giờ vẫn khỏe mạnh. Sau bệnh nhân này, rất nhiều người bị ung thư thanh quản, bàng quang, vú… được điều trị bảo tồn thành công và có được chất lượng sống tốt.
“Những ca bệnh này gieo vào trong đầu một bác sĩ trẻ rằng ung thư sẽ không là án tử nếu như bác sĩ không ngừng học hỏi, cập nhật kiến thức kỹ thuật mới. Bác sĩ không chỉ học cho chính mình, giúp mình trưởng thành trong nghề mà còn học cho bệnh nhân. Bệnh nhân phải được hưởng lợi từ những điều mình học được” – BS Tuấn Anh bộc bạch.
“Chia sẻ sự xấu hổ”
Không như bác sĩ sản, ngoại, tim mạch…, bác sĩ ung thư không có được niềm vui nhìn thấy ngay thành quả của mình. Bác sĩ đưa ra phương án, phác đồ điều trị cho một bệnh nhân thì phải 6 tháng sau mới thấy được tính kết quả. Ngày xưa, anh từng không có ý định chọn chuyên ngành ung thư để theo đuổi cũng vì lý do đó. Thế nhưng, khi thành duyên nợ, BS Tuấn Anh đã tìm ra lý do khiến anh quyết tâm cùng bệnh nhân đi tìm “tia sáng cuối đường hầm”. “Một bệnh nhân ung thư mất nhiều cái lắm, mất sức khỏe, tiền bạc, đôi khi mất bạn bè người thân, mất tự tin bản thân, niềm tin tôn giáo…Họ nhạy cảm và dễ tổn thương. Nghĩ vậy nên tôi tự nhủ, chính bác sĩ phải là người mạnh mẽ, có niềm tin vào công việc, trở thành điểm tựa cho họ và người thân trong suốt một hành trình dài chống lại ung thư”.
Trước đây, ung thư gần như được điều trị theo hướng tuần tự là bệnh nhân đến gặp từng bác sĩ một. Đầu tiên, bệnh nhân đến gặp bác sĩ ngoại khoa để xem có thể cắt bỏ khối u hay không. Sau đó họ mới đến gặp bác sĩ hóa trị hoặc xạ trị. Tuy nhiên, BS Tuấn Anh phản đối cách điều trị này, thay vào đó, với những gì học được từ nước ngoài, anh cho rằng ung thư phải được điều trị phối hợp đa mô thức. Bệnh nhân phải được hội chẩn của nhiều bác sĩ ngay từ đầu và đưa ra kế hoạch điều trị: “Điều này không chỉ giúp kiểm soát khối u tốt hơn mà còn giúp rất nhiều cho tâm lý bệnh nhân. Bệnh nhân ung thư thường cảm thấy cô đơn, khi họ được sự quan tâm của một tập thể bác sĩ ngay từ đầu sẽ thấy được an ủi và tin tưởng rất nhiều. Ở góc độ bác sĩ thì việc không điều trị một mình là…chia sẻ sự xấu hổ. Với những ca khó thì khó khăn, thách thức cũng được chia sẻ cho nhau” – BS Tuấn Anh giải thích.
18 năm trong ngành ung thư, BS Tuấn Anh cùng đồng nghiệp đã cùng nhau chia sẻ những khó khăn và cả hạnh phúc. Cách đây 10 năm, một bệnh nhân 57 tuổi nhập viện với chẩn đoán ung thư phổi giai đoạn 3. Bệnh nhân tuyệt vọng vì ai mắc ung thư phổi gần như nắm chắc cái chết. Các bác sĩ đã bàn luận với nhau rất nhiều và điều chỉnh phác đồ hóa xạ phù hợp cho bệnh nhân. Bệnh ung thư được kiểm soát tốt và bệnh nhân sống đến bây giờ. Ông vẫn thường xuyên đến thăm những bác sĩ điều trị cho mình: “Hồi đó, bác sĩ còn trẻ măng à”. Ông nhắc lại kỷ niệm với bác sĩ và nhớ đặc điểm vóc dáng từng người.
“Tiếng lành đồn xa”, sau những thành công đầu tiên, bệnh nhân tìm đến Bệnh viện Chợ Rẫy để điều trị ngày một đông. Hiện, mỗi năm, bệnh viện khám và điều trị cho khoảng hơn 45.000 bệnh nhân. Khoa Ung bướu từ 4 bác sĩ ngày một lớn mạnh và cũng phát triển thành Trung tâm Ung bướu với hơn 70 bác sĩ, nhân viên y tế. Tuy vậy, bước vào tuổi 42 và cũng là bậc đàn anh, BS Tuấn Anh vẫn luôn trăn trở vì ung thư là một trong 2 căn bệnh (ung thư và tim mạch) mà người Việt Nam phải bỏ tiền đi ra nước ngoài điều trị nhiều nhất. Anh hy vọng thế hệ bác sĩ trẻ sẽ quyết tâm phát triển các kỹ thuật hiện đại và phác đồ tốt cho bệnh nhân ung thư, kéo gần khoảng cách với các nước có nền y học phát triển.