Người phát minh ra lịch

Thứ Ba 07/10/2008, 07 : 45 ( GMT + 7 )* Xin cho biết ai nghĩ ra lịch và lịch đã biến hóa như thế nào từ trước đến nay ?

Hình ảnh một tờ lịch

Bạn đang đọc: Người phát minh ra lịch

* Xin cho biết ai nghĩ ra lịch và lịch đã thay đổi như thế nào từ trước đến nay?

Đặng Hùng Thanh, Quốc Oai, TP.HN Theo chị Võ Thị Diệu Hằng ( Paris ) thì lịch được lập ra năm 753 trước công nguyên, từ chu kỳ luân hồi mặt trăng, nên có nhiều rơi lệch so với chu kỳ luân hồi mặt trời, phải trải qua nhiều sửa đổi mới có được quyển lịch đúng chuẩn như ngày này. Năm 532, cha đạo Denys le Petit, hiệu chỉnh bản tính ngày lễ Phục Sinh kể từ khi Thiên Chúa sinh ra, mà ông định ngày 25/12 năm 753 La Mã. Năm La Mã thứ 754 trở thành năm 1 ( không có năm 0 ). Kiểu đo lường và thống kê này được nước Pháp dùng kể từ thế kỷ thứ 8. Sau đó người ta nhận thấy rằng Denys đã tính lầm tối thiểu 4 năm. Năm 2000 đáng lý ra phải là năm 2005.

Năm 1515 Copernic tham dự cuộc sửa đổi lịch. Năm1582 Gregory III mời các nhà thiên văn Lilio, Clavius và Chacon thành lập một cuốn lịch mới và nhận thấy rằng theo mặt trời thì César tính trễ mất 10 ngày nên giáo hoàng cho nhảy lên 10 ngày cho La Mã và các nước Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha: sau ngày 4/10/1582 là ngày 15/10/1582. 

Nước Pháp theo trễ hơn, tới 9/12/1582 mới đổi, còn Anh quốc thì đợi đến 2/8 năm 1752 mới thêm 11 ngày ( sau ngày 2/9 là 14/9/1752 ). Chỉ 26 năm sau ngày cải cách lịch của giáo hoàng Gregory XII, Québec đã vận dụng ( năm 1608 ), Nhật : 1873, Trung quốc 1912, Hy Lạp, Rumani : 1820 … Thế kỷ thứ 14, ngày tháng được học ở trường. Cuối thế kỷ thứ 16 những người có học biết họ hiện đang ở ngày, tháng, năm nào nhờ quyển lịch và từ đó họ hoàn toàn có thể ghi lại những biến cố xảy ra .
Không có lịch, sẽ không có lịch sử dân tộc. Từ thế kỷ thứ 16 đến thế kỷ 19, Âu châu bành trướng, làm cả quốc tế biết tới lịch Grégorien : những dân tộc bản địa thuộc địa Mỹ châu, Á châu và Phi châu phải dùng lịch của chính quốc và sau khi được độc lập, họ vẫn liên tục dùng lịch này. Khoảng 1550 những quyển lịch ghi lịch sử vẻ vang Open ở Đức : Thế kỷ thứ 17, lịch được dùng để tổ chức triển khai tương lai. Từ năm 1679, Hàn lâm viện khoa học mỗi năm in môt quyển lịch chính thức và từ đó sẽ in lại trong hầu hết những sách lịch ( almanach ).

Thế kỷ 19 sổ nhật ký (agenda) và lịch được phổ biến từ từ. Hình thức quyển lịch giống như lịch hiện nay chúng ta dùng: những ngày trong tuần và số ngày trong tháng. Năm 1834, cha đạo Marc Mastrofini đề nghị ngày cuối năm đó sẽ là “ngày trắng” tức là không tính, để cho mọi ngày khác gom lại đúng 52 tuần lễ (52×7=364 ngày).

1849, Auguste Compte làm lịch gồm 13 tháng đồng đều, tiếp theo 1 ” ngày trắng “. Camille Flammarion, sau khi lôi kéo chống lại lịch Gregorien, ông làm một quyển lịch muôn đời gồm 12 tháng có những tam cá nguyệt như nhau. Năm 1884 người ta chia ra những múi giờ : toàn cầu được chia thành 24 múi xẻ dọc từ Bắc xuống Nam với kinh tuyến Greenwich làm chuẩn. Từ năm 1922, Hội những vương quốc xây dựng một ủy ban nghiên cứu và điều tra về sự sửa đổi lịch và Kết luận là không biến hóa lịch nữa nhưng phải có một ngày không thay đổi cho ngày lễ Phục sinh. Liên Hiệp Quốc thấy rằng lịch Gregorien không thích hợp với hoạt động và sinh hoạt kinh tế tài chính hiện tại nên có dự tính sửa lịch cho thế kỷ 21 ( đã rao một kỳ thi tuyển quốc tế ). Ngày nay lịch Grégorien được vận dụng cho hầu hết những nước trên quốc tế.