Xem chi tiết

Nghị quyết số 12-NQ/TW, Hội nghị Trung ương 5, Ban chấp hành Trung ương khóa XII về tiếp tục cơ cấu lại, đổi mới và nâng cao hiệu quả DNNN đã khẳng định: “DNNN là một lực lượng vật chất quan trọng của kinh tế nhà nước, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế và thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội”. DNNN hiện đang nắm giữ nguồn lực lớn về vốn, tài sản, công nghệ, nhân lực chất lượng cao và tạo nguồn doanh thu và thu ngân sách đáng kể.

Chỉ riêng các doanh nghiệp 100% vốn Nhà nước đang nắm giữ, dù chỉ chiếm một tỉ lệ nhỏ (0,08%) trong nền kinh tế nhưng lại nắm giữ nguồn lực lớn, khoảng 7% tổng tài sản và 10% vốn chủ sở hữu của toàn bộ doanh nghiệp trên thị trường, chiếm khoảng 25,78% tổng vốn sản xuất, kinh doanh và 23,4% giá trị tài sản cố định và đầu tư tài chính dài hạn của các doanh nghiệp đang hoạt động có kết quả sản xuất, kinh doanh.

Các công ty cổ phần có vốn góp của Nhà nước là các doanh nghiệp hoạt động hiệu quả nhất so với các doanh nghiệp khác, tỉ suất lợi nhuận trên vốn và trên tổng tài sản cao nhất so với các khu vực khác. Tỉ suất lợi nhuận trước thuế trên vốn chủ sở hữu bình quân cả giai đoạn 2016-2020 là 13%; tỉ suất lợi nhuận trước thuế trên tổng tài sản bình quân cả giai đoạn 2016-2020 là 5%.

Xét về hiệu quả sử dụng lao động, các DNNN thu hút khoảng 0,7 triệu lao động, chiếm khoảng 7,3% lao động của toàn bộ khu vực doanh nghiệp. Theo Sách trắng Doanh nghiệp năm 2021, khu vực DNNN có hiệu suất sử dụng lao động cao hơn khu vực doanh nghiệp FDI, trong đó hiệu suất sử dụng lao động của DNNN đạt 18,9 lần; tiếp đến là khu vực doanh nghiệp ngoài nhà nước 17,0 lần và thấp nhất là khu vực FDI với 13,0 lần. Các DNNN của Việt Nam đang chiếm thị phần rất lớn trong một số lĩnh vực như năng lượng, viễn thông, ngân hàng… đóng góp hơn 29% GDP của đất nước.

Ông Dương Quang Thành – Chủ tịch HĐTV Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN). Ảnh: Đoàn 

DNNN chỉ có thể phát triển và thể hiện được vai trò, vị trí của mình khi được giao những nhiệm vụ lớn, quan trọng, tiên phong mở đường. Ông Dương Quang Thành, Chủ tịch HĐTV Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) khẳng định, DNNN đang thực sự đóng vai trò chi phối trong một số ngành, lĩnh vực quan trọng, thiết yếu của nền kinh tế, đơn cử như bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia. Các nhà máy điện thuộc Tập đoàn Điện lực Việt Nam, Tập đoàn Dầu khí Việt Nam, Tập đoàn công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam chiếm khoảng 87% tổng sản lượng điện năng cung cấp cho xã hội, cơ bản đáp ứng đủ yêu cầu phát triển kinh tế-xã hội, góp phần bảo đảm an ninh năng lượng.

“Cần đa dạng hoá hình thức đầu tư và khuyến khích các thành phần kinh tế tư nhân tham gia đầu tư các dự án điện phù hợp định hướng Nghị quyết 55 của Bộ Chính trị. Tuy nhiên, cũng cần tiếp tục xác định vai trò nòng cốt, dẫn dắt của DNNN trong triển khai thực hiện Quy hoạch điện, đầu tư các dự án lớn, quan trọng và nên có cơ chế giao các DNNN làm chủ đầu tư các dự án”, ông Thành đề xuất.

Ông

Hoàng Quốc Vượng – 

Chủ tịch HĐTV Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (Petrovietnam) 

Ông Hoàng Quốc Vượng – Chủ tịch HĐTV Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (Petrovietnam) cho biết, quá trình hoạt động đầu tư của Petrovietnam giai đoạn 2016-2020 gặp khá nhiều khó khăn bởi nhiều yếu tố. Ngoài các khó khăn khách quan như giá dầu xuống thấp, địa bàn hoạt động trên Biển Đông phức tạp, những khó khăn chủ quan liên quan tới các vấn đề pháp lý đã ảnh hưởng sâu sắc tới hoạt động của Tập đoàn, đặc biệt trong công tác đầu tư phát triển.

Bên cạnh đó, Luật Dầu khí, Luật Quản lý vốn nhà nước và các điều kiện hiện hành đã bộc lộ nhiều hạn chế, nhiều vấn đề đặc thù của hoạt động dầu khí chưa được điều chỉnh theo kịp với xu hướng thay đổi của hệ thống pháp luật. Cụ thể, các điều khoản hợp đồng dầu khí hiện nay được đánh giá là kém hấp dẫn so với các nước khu vực, không phù hợp với tiềm năng trữ lượng dầu khí hiện tại, không thu hút được nhà đầu tư nước ngoài. 

Ngoài ra, Luật Quản lý sử dụng vốn của nhà nước vào doanh nghiệp (Luật số 69/2014/QH13 ngày 1/7/2015) còn nhiều điểm chưa phù hợp với các đặc thù hoạt động tìm kiếm thăm dò, gây khó khăn cho giải ngân các dự án tìm kiếm thăm dò của Petrovietnam. Quy định trình tự, thủ tục phê duyệt dự án đầu tư còn phức tạp, chồng chéo, khó thực hiện dẫn đến các dự án đầu tư bị kéo dài, chậm tiến độ.

Ông Hoàng Quốc Vượng đề xuất một số giải pháp nhằm tạo điều kiện để DNNN nói chung và Petrovietnam nói riêng phát huy tối đa vai trò, nâng cao hiệu quả trong hoạt động sản xuất kinh doanh, đầu tư. Trong đó đặc biệt kiến nghị Chính phủ hoàn thiện cơ chế chính sách theo hướng tạo thuận lợi để phát triển gia tăng vốn nhà nước, để DNNN được chủ động, linh hoạt theo cơ chế thị trường; tăng cường phân cấp, ủy quyền cho HĐTV của các DNNN.

Lãnh đạo Tập đoàn Petrovietnam cũng nhấn mạnh kiến nghị về việc hoàn thiện các hệ thống luật pháp liên quan đến hoạt động ngành Dầu khí; xem xét ban hành cơ chế cho hoạt động thăm dò dầu khí, cơ chế tận khai thác và cơ chế chính sách liên quan đến tiêu thụ khí, đảm bảo đem lại nguồn thu tối đa cho Nhà nước và khuyến khích đầu tư trong lĩnh vực thăm dò khai thác dầu khí trong giai đoạn tới.

Ông Nguyễn Chí Thành – Chủ tịch Hội đồng Thành viên Tổng công ty Đầu tư và kinh doanh vốn nhà nước (SCIC)

Để nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của DNNN; khơi thông và huy động nguồn lực đầu tư của các tập đoàn, tổng công ty nhà nước trong phát triển kinh tế – xã hội, ông Nguyễn Chí Thành, Chủ tịch Hội đồng Thành viên SCIC đã đưa ra 4 kiến nghị, đề xuất nhằm tháo gỡ khó khăn vướng mắc. 

Thứ nhất, SCIC đề nghị được phối hợp cùng 19 tập đoàn, tổng công ty thuộc Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp, các ngân hàng thương mại nhà nước và một số tổng công ty nhà nước khác để huy động vốn và thực hiện đầu tư vào các ngành, lĩnh vực và dự án trọng điểm mà nhà nước đầu tư và nắm giữ chi phối.

Thứ hai, SCIC kiến nghị cần có một hệ thống cơ chế chính sách đặc thù mang tính đột phá và đầu tư bổ sung cho một số tập đoàn, tổng công ty nhà nước quy mô lớn, tập trung vào các “sếu đầu đàn” của nền kinh tế.

Hiện nay, các doanh nghiệp nhà nước quy mô lớn bao gồm 19 tập đoàn, tổng công ty thuộc Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp, Viettel, 4 ngân hàng thương mại nhà nước và một số tổng công ty nhà nước khác nắm giữ khoảng 90% tổng tài sản, 88% tổng doanh thu và 86% lợi nhuận trước thuế của toàn bộ doanh nghiệp nhà nước trên phạm vi toàn quốc.

“Với thực tế đó, Chính phủ cần ban hành một Nghị quyết riêng hoặc báo cáo Quốc hội có luật riêng về cơ chế chính sách đặc thù để tháo gỡ khó khăn vướng mắc, tăng quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong hoạt động sản xuất kinh doanh, bổ sung nguồn lực để củng cố, phát triển cho các tập đoàn, tổng công ty quy mô lớn có vai trò dẫn dắt”, ông Thành đề xuất.

Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XIII và Chiến lược Phát triển kinh tế xã hội 2021-2030 khẳng định: “Củng cố, phát triển một số tập đoàn kinh tế nhà nước có quy mô lớn, hoạt động hiệu quả, có khả năng cạnh tranh khu vực và quốc tế trong một số ngành, lĩnh vực then chốt của nền kinh tế”.

Triển khai chủ trương của Đảng, Chính phủ đã giao Bộ Kế hoạch và Đầu tư xây dựng Đề án: “Phát triển doanh nghiệp nhà nước quy mô lớn, đặc biệt là tập đoàn kinh tế nhà nước đa sở hữu nhằm phát huy vai trò mở đường, dẫn dắt cho doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác”. Trong dự thảo Đề án này, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã lựa chọn SCIC với định hướng chuyển đổi hoạt động theo mô hình Quỹ Đầu tư Chính phủ là 1 trong 8 tập đoàn kinh tế, tổng công ty quy mô lớn có vai trò dẫn dắt.

Thứ ba, SCIC cũng kiến nghị mọi khoản đầu tư của nhà nước cho doanh nghiệp nhà nước nên được thực hiện thông qua SCIC; giao SCIC làm đầu mối để huy động và đầu tư bổ sung nguồn lực tài chính nhằm củng cố, phát triển doanh nghiệp nhà nước quy mô lớn và tham gia đầu tư các dự án quy mô lớn.

Bởi qua nghiên cứu kinh nghiệm thế giới (đặc biệt là ở các nước ASEAN như Singapore, Malaysia), SCIC nhận thấy các tổ chức tài chính của nhà nước là đầu mối quan trọng để nhà nước thực hiện đầu tư vào các ngành, lĩnh vực dẫn dắt nền kinh tế, theo mục tiêu của Chính phủ

“Với nguồn lực và kinh nghiệm đã tích lũy sau 15 năm hoạt động, việc SCIC thực hiện tốt vai trò nhà đầu tư của Chính phủ đầu tư vào các ngành, lĩnh vực then chốt để tạo động lực, nhân tố mới, lan tỏa cho tăng trưởng của nền kinh tế là hoàn toàn phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của SCIC và được thể hiện xuyên suốt từ khi thành lập đến nay”, ông Thành cho biết.

Tính đến nay, SCIC đã giải ngân đầu tư với tổng số tiền 36.841 tỷ đồng. Năng lực đầu tư của SCIC đã từng bước được tích lũy, tăng cường. Vốn chủ sở hữu đạt gần 60.500 tỷ đồng; Tổng tài sản đạt trên 64.400 tỷ đồng (theo giá trị sổ sách); Vốn hóa thị trường đạt của danh mục trên 200.000 tỷ đồng (khoảng trên 8,6 tỷ USD).

SCIC cũng đề xuất Chính phủ điều chỉnh quy định về việc sử dụng Quỹ phát triển khoa học công nghệ của doanh nghiệp theo hướng tăng tính chủ động cho doanh nghiệp nhà nước, để doanh nghiệp dễ dàng tiếp cận đầu tư cho khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo, góp phần chuyển đổi mô hình tăng trưởng của nền kinh tế dựa trên khoa học và công nghệ.

Khi các nút thắt về cơ chế được tháo gỡ và nguồn đầu tư cho khoa học công nghệ được khơi thông, nguồn lực đã được tích lũy trong nhiều năm tại các DNNN cho phát triển khoa học công nghệ sẽ giúp thúc đẩy hoạt động đổi mới sáng tạo, nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp, góp phần phát triển kinh tế nhanh và bền vững.

Ông

Đào Nam Hải – 

Phó Tổng giám đốc Tập đoàn Xăng dầu Việt Nam (Petrolimex) 

Cũng tại Hội nghị, các DNNN cho rằng, xây dựng chính sách hỗ trợ, khuyến khích và công cụ quản lý riêng đối với DNNN quy mô lớn có vai trò quan trọng trong các ngành, lĩnh vực trụ cột của nền kinh tế. Đối với khối DN này, cần xây dựng và xác định rõ định hướng, giao cho họ các sứ mệnh, nhiệm vụ và mục tiêu cụ thể tương xứng với nguồn lực, vị trí và vai trò trong phát triển các ngành, lĩnh vực có liên quan của nền kinh tế. 

Cụ thể, Phó Tổng giám đốc Tập đoàn Xăng dầu Việt Nam (Petrolimex) Đào Nam Hải kiến nghị Thủ tướng Chính phủ giao Bộ Công Thương bổ sung điều kiện kinh doanh xăng dầu, Bộ Tài chính chỉ đạo Tổng cục Thuế yêu cầu bắt buộc tất cả các doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu phải áp dụng đồng bộ hoá đơn điện tử có kết nối trực tuyến với cột bơm xăng dầu tới trung tâm dữ liệu quốc gia của cơ quan thuế để đảm bảo nguyên tắc công bằng trong kinh doanh.

“Petrolimex đã tiên phong, nghiêm túc áp dụng hoá đơn điện tử trên toàn hệ thống từ 2018 tới nay, trong khi một số doanh nghiệp kinh doanh xăng dầu khác chưa triển khai áp dụng. Giải pháp này cũng góp phần phòng chống buôn lậu, gian lận thương mại, chống thất thu thuế trong thị trường xăng dầu, qua đó tạo môi trường kinh doanh xăng dầu minh bạch, bình đẳng, tuân thủ quy định pháp luật”, ông Hải cho biết.

Ông Lê Minh Chuẩn – Chủ tịch

HĐTV 

Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam (TKV

Liên quan đến hoàn thiện cơ chế, ông Lê Minh Chuẩn, Chủ tịch HĐTV Tập đoàn Công nghiệp Than – Khoáng sản Việt Nam (TKV) đề nghị các bộ, ngành xem xét, hoàn thiện thể chế, chính sách theo hướng đẩy mạnh phân cấp, phân quyền, trao quyền chủ động hơn cho DN, gắn với tiếp tục đổi mới phương thức kiểm tra, giám sát, bảo đảm công khai, minh bạch trong cơ cấu tại DNNN.

Theo ông Chuẩn, cần tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách về thoái vốn, cổ phần hoá, nhất là khâu định giá, lựa chọn nhà đầu tư chiến lược, hợp nhất, sáp nhập, giải thể DN để tạo sự đồng bộ của Luật Doanh nghiệp và Luật Quản lý, sử dụng vốn Nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh tại DN.

“Đặc biệt, cần có cơ chế để tăng cường sự phối hợp có hiệu quả giữa cơ quan đại diện chủ sở hữu với các bộ, ngành, địa phương trong giải quyết các đề xuất của DNNN trong quá trình tái cơ cấu DNNN”, lãnh đạo TKV nhấn mạnh.

Hiện nay, nếu không tính các doanh nghiệp quốc phòng, an ninh và nông lâm nghiệp, 94 DNNN quy mô lớn tuy chỉ chiếm hơn 10% về số lượng DNNN nhưng lại nắm giữ khoảng 90% tổng tài sản, 88% tổng doanh thu và 86% lợi nhuận trước thuế của toàn bộ DNNN trên phạm vi toàn quốc.

Có thể thấy, việc giải quyết những “nút thắt” về thể chế, khơi thông nguồn lực sẵn có và khẳng định vai trò dẫn dắt nền kinh tế sẽ thúc đẩy hoạt động của các DNNN. Hoạt động đầu tư của DNNN trong các ngành, lĩnh vực, địa bàn then chốt cũng giúp giảm bớt gánh nặng từ ngân sách Nhà nước trong thực hiện các dự án kết cấu hạ tầng quan trọng, góp phần thực hiện tiến trình cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng.