Viết đoạn văn thuyết minh về bánh chưng ngày Tết ngắn gọn

Bài thuyết minh về bánh chưng ngắn gon nhất? Bài thuyết minh bánh chưng độc đáo nhất? Bài thuyết minh bánh chưng ấn tượng nhất?

Bánh chưng là tượng trưng cho ngày tết, là nét đẹp của nền văn hóa của cả dân tộc Việt Nam. Bài viết sau đây sẽ gửi đến bạn đọc những bài thuyết mình về bánh chưng hay nhất, ngắn gọn nhất.

1. Bài thuyết minh về bánh chưng ngày Tết ngắn gọn:

1.1. Mẫu 1 – Bài thuyết minh về bánh chưng ngày Tết ngắn gọn:

Bánh chưng là biểu tượng không thể thiếu trong ngày Tết cổ truyền. Từ xa xưa, cứ mỗi dịp Tết đến xuân về, người người nhà nhà lại chuẩn bị những nồi bánh chưng rất lớn để đón Tết. Bởi trong suy nghĩ của mỗi người, bánh chưng là món ăn mang ý nghĩa sum họp, sum họp giản dị mà đầm ấm.

Người xưa vẫn cho rằng, bánh chưng ngày Tết có từ rất lâu đời. Người ta vẫn tin rằng bánh chưng, bánh giầy có từ thời Hùng Vương thứ 6 và cho đến ngày nay nó đã trở thành biểu tượng của Tết cổ truyền Việt Nam. Người ta luôn quan niệm rằng, bánh chưng chứng tỏ sự đủ đầy của đất trời và sự sum họp của gia đình sau một năm làm việc tất bật, vội vã. Dù ở miền Bắc, miền Trung hay miền Nam, bánh chưng là món ăn không thể thiếu trong ngày Tết. Có thể nói đây là món ăn được chờ đợi nhất, bởi Tết là ngày được thưởng thức những chiếc bánh chưng thơm ngon và ấm áp nhất.

Về nguyên liệu, bánh chưng được làm từ những thứ rất đơn giản và dễ chuẩn bị; kết hợp với bàn tay khéo léo của người gói bánh. Nguyên liệu chính là gạo nếp, lá dong, thịt và đậu xanh giã nhỏ. Mỗi nguyên liệu đều được lựa chọn cẩn thận để có thể tạo ra món ăn thơm ngon nhất. Còn gạo nếp, người ta chọn những hạt tròn mẩy, không mốc để khi nấu dậy mùi thơm dẻo của gạo nếp. Đậu xanh chọn loại đậu có màu vàng đẹp mắt, đồ chín mềm rồi giã nhỏ làm nhân bánh. Người ta sẽ chọn thịt ba chỉ hoặc thịt nạc dăm, trộn với tiêu xay, hành tím băm nhuyễn. Một nguyên liệu không kém phần quan trọng khác là lá dong để gói bánh. Ở một số vùng khác, người ta dùng lá chuối để gói bánh nhưng phổ biến nhất vẫn là lá dong.

Lá phải có màu xanh đậm, gân khỏe, không bị héo, rách. Hoặc nếu lá bị rách có thể lót mặt trong của lá lành để gói. Việc rửa lá dong và cắt bỏ cuống cũng rất quan trọng vì lá dong sạch vừa đảm bảo vệ sinh, vừa tạo mùi thơm sau khi nấu bánh.

Sau khi chuẩn bị đầy đủ các nguyên liệu là đến công đoạn gói bánh. Gói bánh chưng cần sự cần mẫn, tỉ mỉ và khéo léo để tạo nên chiếc bánh vuông vắn dâng cúng ông bà tổ tiên. Nhiều người cần khuôn vuông để gói nhưng cũng nhiều người không, chỉ cần gập bốn góc của lá dong là có thể gói được. Bao quanh nhân đậu và thịt là một lớp xôi dày. Chuẩn bị dây để bọc, giữ cho ruột bánh săn chắc, không bị nhão trong quá trình nấu.

Nướng bánh được coi là một công đoạn quan trọng. Thông thường người ta nấu bánh bằng củi khô, nấu trong nồi to, đổ ngập nước và nấu trong khoảng 8-12 tiếng. Thời gian nấu lâu như vậy để đảm bảo bánh chín đều và mềm. Khi nước bánh sôi, mùi bánh chưng bốc lên nghi ngút. Khi đó, mọi người bắt đầu cảm nhận được không khí Tết bao trùm khắp nhà.

Bánh chưng sau khi chín được mang ra và lăn qua lăn lại để tạo độ chắc cho bánh khi cắt ra đĩa và để được lâu hơn.

Mâm cơm ngày Tết không thể thiếu đĩa bánh chưng. Cũng giống như trên bàn thờ ngày Tết, đôi bánh chưng để dâng lên ông bà tổ tiên là phong tục được lưu truyền từ bao đời nay. Bánh chưng tượng trưng cho sự hoàn hảo của đất trời, cho những gì nhân hậu nhất, ấm áp nhất của lòng người.

Ngày Tết, nhiều người hay tặng bánh chưng làm quà, đây là món quà ý nghĩa tượng trưng cho sự chân thành, gửi gắm lời chúc trọn vẹn nhất.

Mỗi dịp Tết đến xuân về, bánh chưng bánh chưng là biểu hiện cho sự ấm áp của gia đình. Bánh chưng là biểu tượng của ngày Tết mà không một loại bánh nào khác có thể thay thế được. Vì đây là truyền thống, là nét đẹp của người Việt Nam, cần được giữ gìn và trân trọng từ xưa, hôm nay và cả mai sau.

1.2. Mẫu 2 – Bài thuyết minh về bánh chưng ngày Tết ngắn gọn:

Từ xa xưa, nhiều người đã lý giải về bánh chưng với những nét văn hóa đậm đà bản sắc dân tộc. Trải qua hàng ngàn năm, bánh chưng vẫn không thay đổi. Nguyên liệu để làm bánh chưng phải là gạo tẻ, một loại gạo dẻo thơm được chắt lọc từ những tinh hoa của đất trời. Bánh chưng còn tượng trưng cho một nền văn hóa lúa nước, một đất nước có truyền thống làm nông lâu đời. Nhân bánh bao gồm: thịt lợn nhưng phải có đủ da, mỡ và nạc; Đậu xanh phải được vo thật sạch, đồ chín rồi giã thành nắm tay cho dễ gói. Lá dùng để gói bánh chưng phải là lá dong, một loại lá có mùi thơm rất tự nhiên. Lát dùng để buộc tre chẻ có độ dẻo tốt.

Độc đáo hơn nữa, khi bánh phải được “chín” (nay gọi là luộc) trong một thời gian khá dài khoảng 12 tiếng và chỉ để lửa liu riu để bánh được thơm ngon. Khi bánh đã được luộc chín, hỗn hợp gạo, thịt, đậu và cả lá bánh tạo nên một hương vị rất thanh và thơm, đó là hương vị của lòng hiếu thảo…

Trong những ngày Tết cổ truyền, không gia đình Việt Nam nào là không có những chiếc bánh chưng xanh trên bàn thờ, trên mâm cỗ cúng ông bà, tổ tiên. Ngày nay, cuộc sống ngày càng bận rộn, vì vậy bất kỳ nhà nào cũng có thể tự làm hoặc mua. Nhưng dù mua về hay tự làm thì bánh chưng vẫn là nét đẹp không thể thay thế trong văn hóa tinh thần của người Việt. Trong lòng người Việt xa quê, bánh chưng vẫn giữ nguyên ý nghĩa và sức sống của nó. Ngay cả bang California của Mỹ cũng là nơi sinh sống của nhiều người Việt. Đầu năm ngoái, kiều bào ở đây rất vui mừng khi Sở Y tế California cho biết: “Bánh chưng là một loại hình văn hóa ẩm thực lâu đời của người Việt”, nên Ban này đã thông qua dự luật AB-2214 về việc được phép bán bánh chưng.

Hay ở Đức, nếu ai từng gặp những bà mẹ Việt Nam hiện đang sinh sống tại đây, đều có chung một nỗi nhớ nhung nhớ quê hương mỗi độ xuân về. Do Tết Việt thường rơi vào những ngày con cháu bận rộn công việc không thể về đoàn tụ nên mỗi khi có sự sum họp của gia đình như Lễ tạ ơn, Giáng sinh…, Giao thừa. Vào những dịp như vậy, các chị em phụ nữ lại làm bánh tét, bánh chưng để tưởng nhớ quê cha, đất tổ.

Có nhiều cách giải thích về bánh chưng nhưng không ai có thể phủ nhận bánh chưng là món ăn độc đáo, đặc sắc của dân tộc. Bánh chưng là một trong những minh chứng cụ thể cho thấy văn hóa ẩm thực Việt Nam có rất nhiều tiềm năng để đưa nước ta trở thành một cường quốc về văn hóa ẩm thực.

2. Bài thuyết minh về bánh chưng độc đáo nhất: 

Bánh chưng là món ăn dân tộc mà ngày Tết nhà nào cũng có để cúng ông bà tổ tiên và ăn trong ngày Tết. Với nhiều người, bánh chưng là biểu tượng của sự đoàn viên, đủ đầy trong năm mới. Đây cũng là món ăn có lịch sử lâu đời trong nền ẩm thực nước nhà.

Theo sử sách ghi lại, bánh chưng ra đời từ thời Hùng Vương thứ 6. Sau khi đánh thắng giặc ngoại xâm, nhà vua yêu cầu các hoàng tử và quan lại dâng lên nhà vua thứ quý giá nhất để thờ trên bàn thờ tổ tiên. Lang Liêu loay hoay tìm vật gì quý giá dâng vua thì trong giấc mơ thấy thần hiện đến chỉ cho cách làm một loại bánh từ gạo và những nguyên liệu sẵn có, gần gũi với người nông dân. Điều đó làm nhà vua rất hài lòng. Bánh chưng, bánh dày ra đời từ đó và được lưu truyền cho đến ngày nay.

Dù cách nhau nhiều thế hệ nhưng cách làm bánh chưng truyền thống không có nhiều thay đổi. Nguyên liệu chính là gạo nếp, lá dong, thịt và đậu xanh giã nhỏ. Gạo nếp khi mua phải chọn những hạt tròn đều, khi nấu không bị mốc. Đậu xanh phải là đậu vàng, đậu xanh dùng làm nhân bánh. Thịt cũng là nhân bánh nên bạn cần chọn kỹ, thông thường bạn sẽ mua thịt ba chỉ hoặc thịt nạc băm, trộn với tiêu xay, hành tím băm nhuyễn. Phần cuối cùng là mua lá dong gói bên ngoài để tạo độ thẩm mỹ cho chiếc bánh chưng. Lá phải tươi, có gân và màu xanh đậm. Lá dong khi mua về phải rửa sạch với nước và cắt bỏ phần cuống.

Khi đã mua xong những nguyên liệu cần thiết, bạn bắt đầu gói bánh chưng. Công đoạn này đòi hỏi người làm phải khéo léo, cẩn thận để tạo nên chiếc bánh chưng đẹp mắt. Thông thường, gập 4 góc lá dong lại là có thể gói được. Bao quanh nhân đậu và thịt là một lớp xôi dày. Người làm phải chuẩn bị dây để quấn, cố định phần nhân bên trong cho chắc chắn thì việc nấu bánh mới thuận lợi.

Sau công đoạn gói bánh, người thực hiện chuyển sang nấu bánh, nấu bánh chưng bằng lửa củi khô, xếp bánh vào nồi lớn, đổ ngập nước và nấu liên tục trong 8-12 tiếng. Khi nấu đủ thời gian bánh sẽ dẻo và ngon hơn.
Bánh chưng không chỉ là món ăn dân tộc mà còn là biểu tượng của sự may mắn, đoàn tụ trong năm mới. Trong dịp Tết, chưng bánh chưng trên bàn thờ tổ tiên là cách thể hiện lòng thành kính, biết ơn đối với thế hệ đi trước. Bánh chưng còn được dùng làm quà biếu người thân, bạn bè.

3. Bài thuyết minh bánh chưng ấn tượng nhất: 

Tết Nguyên đán ở Việt Nam là Tết cổ truyền có từ xa xưa với: Thịt mỡ, dưa hành, câu đối đỏ. Cây nêu, tràng pháo, bánh chưng xanh. Trên bàn thờ ngày Tết của mỗi nhà nhất định phải có bánh chưng. Tương truyền, hoàng tử Lang Liêu, con trai vua Hùng, được thần linh mách bảo đã dùng lá dong, gạo nếp, đậu xanh, thịt lợn… để làm món bánh này để cúng Trời Đất, Tiên Vương. Nhờ đó, ông được vua cha truyền ngôi. Kể từ đó, bánh Chưng được dùng để cúng vào dịp Tết. Phong tục tốt đẹp đó vẫn tồn tại cho đến ngày nay.

Nhìn chiếc bánh chưng chúng ta thấy nó rất mộc mạc, giản dị nhưng để làm ra nó phải mất rất nhiều công sức. Năm nào mồng bảy, hai mươi tám Tết, chị em lại phải lo đi chợ mua lá dong, bó lá giang. Lá phải to và khỏe. Tốt nhất là lá dong, không già, không non thì bánh mới đẹp. Hạt nếp đã được tách đôi, mỏng và mềm, có màu vàng ngà rất hợp với lá dong xanh. Gạo nếp cái hoa vàng vừa dẻo vừa thơm được ngâm từ đêm hôm trước, vo sạch rồi đồ chín. Đậu xanh bóc vỏ. Thịt heo cắt miếng cỡ nửa đốt ngón tay, ướp chút muối, tiêu, hành. Lá Dong đã được cắt cuống, rửa sạch, phơi khô… Tất cả đã sẵn sàng để gói, chờ người gói.

Cách gói bánh chưng ngày Tết thật vui và ấm áp! Cả gia đình quây quần bên bà. Bà trải lá dong lên mâm, đong một bát gạo đổ vào, dàn đều rồi đổ nửa bát đậu, xếp hai miếng thịt, nửa bát đậu và một bát cơm nữa. Bàn tay bà khéo léo vo gạo với đậu và thịt, rồi nhẹ nhàng bẻ bốn góc lá cho vuông vắn rồi cắt từng khoanh. Chẳng mấy chốc, bánh chưng đã được gói xong. Suốt một buổi sáng vất vả, bận bịu, bà gói thúng gạo. Bà tôi buộc đôi bánh lại cho vào một cái nồi to dùng để luộc bánh.

Ở góc sân, ngọn lửa cháy đều. Năm nào ông nội và bố tôi cũng nhóm lửa và chan nước dùng cho nồi bánh chưng. Những khúc tre, củi khô cất trong năm tiếng đồng hồ được đem đun sôi. Những ngọn lửa nhảy nhót xèo xèo, những đốm than hồng li ti bắn tung tóe xung quanh những chấm đỏ tươi trông rất vui mắt. Ông tôi dặn phải nướng lửa thật đều để bánh dẻo và không bị cháy. Anh em tôi xúm xít bên anh, vừa nắm tay cho khỏi tê cóng, vừa nghe anh kể chuyện ngày xưa. Đến đoạn thú vị, ông cười rung cả chòm râu bạc.

Khoảng tám giờ tối, ba tôi dỡ bánh bao lên chiếc chõng tre trước nhà. Hơi nóng từ chiếc bánh bốc lên tỏa mùi thơm béo ngậy, nồng nàn. Ba tôi chuẩn bị hai tấm ván gỗ và một chiếc cối đá để nén bánh.

Khó có thể diễn tả hết niềm hân hoan, hân hoan của lũ trẻ chúng tôi khi được nếm những chiếc bánh chưng nóng hổi, đẹp mắt. Xôi nếp, giá đỗ, thịt mỡ… ngon quá, ngon quá! Dường như không có món bánh nào ngon hơn thế!
Chiều ba mươi Tết, trên bàn thờ, nến, hương, mâm cốm được bày biện trang trọng bên cạnh mâm ngũ quả, hộp chè, hộp mứt, chai rượu… bàn cúng tất niên. Cảm xúc trào dâng trong lòng mỗi người. Không khí thiêng liêng của Tết đã thực sự bắt đầu.