Vien Sot ret Ky Sinh Trung – Con trung Quy Nhon
Làm thế nào để phòng bệnh sán lá gan lớn ở người và trâu bò có hiệu quả
Fasciola gigantica hiện đang là vấn đề y tế công cộng quan trọng và tạo gánh nặng không những liên quan đến bệnh tật cho con người và gia súc mà còn ảnh hưởng không nhỏ đến sản lượng thịt và sữa của các vật chủ là động vật.
Hiện nay, bệnh có mặt và có thể lưu hành ở nhiều quốc gia khắp 5 châu lục, trong đó khu vực Nam Mỹ và Đông Nam Á có số ca nhiễm cao nhất và được coi là một trong những căn bệnh ký sinh trùng được ưu tiên đầu tư nghiên cứu, can thiệp, phòng chống và giảm tác hại cũng như thiết lập các yếu tố bền vững đối với căn bệnh này. Một trong những vấn đề ưu tiên đó chính là khâu phòng chống như một khía cạnh khong thể nào thiếu.
Nguyên tắc chung
Nguyên tắc chung để phòng chống bệnh sán lá truyền qua thức ăn nói chung và bệnh SLGL nói riêng đều phải tuân theo là ngăn chặn các nguồn bệnh lây nhiễm từ động vật và thực vật. Tương tự các bệnh sán giun khác trong vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới, việc phòng chống giun sán là cắt đứt một trong các khâu ở mắc xích chu kỳ phát triển. Song, việc này không hề đơn giản mà vấn đề làm sao để chọn được mắc xích ngăn chặn đúng, nhanh, hiệu quả kinh tế cao. Can thiệp vào mắc xích có các khâu sau: chống phát tán trứng ra môi trường xung quanh bằng quản lý phân (i), chống vector truyền bệnh giun sán thông qua việc diệt vật chủ trung gian ốc, phá bỏ ổ ốc cư trú (ii) nhưng biện pháp này không thực tế và cuối cùng là chống nhiễm bệnh bằng cách không ăn cây thủy sinh chưa nấu chín, làm sạch (iii). Như vậy, giải quyết mầm bệnh bằng điều trị thuốc đặc hiệu cho bệnh nhân là cần thiết và cùng với bộ phận thú y điều trị cho súc vật mang mầm bệnh.
Hình 1
Các biện pháp phòng chống
Nhiễm sán lá gan lớn Fasciola spp. ở người luôn liên quan với tình hình dịch tễ bệnh sán lá gan lớn ở động vật, do đó các biện pháp phòng chống bệnh sán lá gan lớn cho người cần có sự phối hợp chặt chẽ với chuyên ngành y tế – thú y hay nói đúng hơn là sức khỏe con người và sức khỏe động vật.
–Quản lý ca bệnh
+Phát hiện sớm, chủ động và tích cực, điều trị kịp thời ca bệnh cũng như điều trị tiệt căn cho bệnh nhân mắc sán lá gan lớn;
+Tất cả ca bệnh nên được điều trị tại cơ sở y tế để theo dõi diễn tiến cũng như phát hiện các tác dụng ngoại ý của thuốc (nếu có) xảy ra.
Hình 2. Phòng bệnh thông qua cắt đứt một trong các khâu trên
Diệt các vật chủ trung gian (sinh học và hóa học)
+Diệt vật chủ trung gian như ốc bằng hóa chất diệt nhuyễn thể;
+Nhiều nghiên cứu thử nghiệm diệt nhuyễn thể trong môi trường song đến nay vẫn chưa áp dụng rộng rãi bởi chưa dánh giá hết các nguy cơ ô nhiễm môi sinh;
+Tránh tiếp xúc với nước có ốc nhiễm bệnh sinh sống: Điều quan trọng là cung cấp đủ nguồn nước sạch để uống, tắm và giặt quần áo. Các hệ thống cung cấp nước sạch được trang bị hệ thống ống dẫn và máy bơm hoặc các giếng đào sẽ làm cho cộng đồng tránh tiếp xúc với các nguồn nước từ suối và ao hồ nhiễm bệnh;
+Cán bộ y tế cần cung cấp thông tin về sự an toàn của các nguồn nước, cộng đồng dân cần tránh bơi lội, giặt hoặc tắm trong nước nghi ngờ có ô nhiễm. Tuy nhiên, các thông tin chi tiết thường không có sẵn, nên một cách an toàn hơn là xem tất cả các thuỷ vực trong vùng bệnh lưu hành là những nơi có tiềm năng lan truyền bệnh.
+Đối với những người sản xuất nông nghiệp thường xuyên có nguy cơ nhiễm bệnh, thì việc xét nghiệm và điều trị định kỳ có thể là biện pháp có khả thi nhất để phòng chống bệnh;
+Nói chung, phòng chống ốc trung gian truyền bệnh tập trung vào các khâu:
Hình 3
(i)Quản lý môi trường và giảm nơi cư trú của ốc:
Ốc cần thực vật để làm thức ăn, để bám và làm giá thể cho trứng của chúng. Vớt thực vật trong các kênh mương thuỷ lợi làm giảm số lượng ốc, nhưng để vớt bỏ thực vật bằng tay thường người ta phải lội xuống nước là rất nguy hiểm, trong khi đó sử dụng biện pháp cơ học để vớt bỏ thực vật thì tốn kém. Dọn sạch các kênh mương cũng có thể giúp cho công tác phòng chống một số bệnh khác và có thể làm tăng việc sử dụng hiệu quả các nguồn nước thuỷ lợi.
Một nhược điểm của phương pháp này là cần phải được tiến hành lặp đi lặp lại thường xuyên. Nơi điều kiện cho phép, có thể láng các con kênh mương bằng xi măng để ngăn ngừa và hạn chế sự phát triển của thực vật. Nhân dân cũng có thể dọn vớt thực vật ở các thuỷ vực nơi thường bơi lội hoặc nơi giặt giũ quần áo và rửa chén bát đĩa;
(ii)Thay đổi mực nước và tốc độ dòng chảy:
Những nơi lượng nước không bị giới hạn, các công việc làm cho nước dâng cao hoặc làm cho mực nước thấp xuống cũng như tăng tốc độ dòng chảy có thể gây ra xáo trộn nơi ở của ốc và nguồn thức ăn của chúng. Tháo kiệt nước một cách nhanh chóng làm giảm lượng thực vật trong thuỷ vực và diệt ốc do thuỷ vực bị khô. Phương pháp này cần được chú ý đến ở những nơi chủ động được tưới tiêu nước;
(iii)Loại bỏ các ổ đẻ và diệt ốc:
Các hầm, hố, vũng và ao nước nhỏ không có mục đích sử dụng đặc biệt có thể được tháo cạn hoặc làm cho đầy nước nếu phát hiện thấy chúng là những nơi lan truyền bệnh, không những thế chúng còn là ổ luân chuyển mầm bệnh khác.
Có thể sử dụng gàu nạo vét để vớt ốc ra khỏi các kênh mương và các ổ nước, có thể đập bẹp để giết chúng hoặc để khô kiệt nước cho chúng chết. Hiện tượng này đã xảy ra ở Ai Cập và Sudan như là hiệu quả phụ của việc làm tăng tốc dòng chảy bằng cách vớt bùn ra khỏi các dòng kênh;
(iv) Phòng chống bằng biện pháp sinh học:
Khả năng phòng chống ốc bằng biện pháp sinh học đã thu hút sự quan tâm một số người, nhưng hiện tại không thể khuyến cáo áp dụng. Trong một nghiên cứu kéo dài ở Indonesia trên các loài gặm nhấm so sánh giữa các quốc gia phát triển và các quốc gia đang phát triển trên các vùng dịch tễ đặc biệt khác nhau cùng với các tập quán canh tác đặc thù.
Tất cả vấn đề môi trường được xác định và điều tra, đếm trứng trong phân và nghiên cứu khảo sát các loài ốc nhiễm. Tại các quốc gia phát triển, một chủ trang trại có chăn thả một lượng lớn gia súc, kiểm tra các nguồn nước và điều tra về các sản phẩm có khả năng nhiễm được bán ra thị trường.
Các chiến lược và thái độ thực hành phòng chống cho những tình huống này được vạch ra và sẽ tiếp tục làm song song với các công việc dùng thuốc tẩy sán duy trì hiệu quả;
Hình 4
(v)Phòng chống bằng hóa chất:
Trong quá khứ, hóa chất diệt nhuyễn thể (ốc) thường được áp dụng trên diện rộng, rất tốn kém và thường gây hại với môi trường, do đó được thay thế bằng cách sử dụng trong phạm vi khu trú.
Các nghiên cứu đầu tiên được tiến hành để xác định các thủy vực và mùa truyền bệnh, hóa chất được sử dụng theo định kỳ chỉ ở các nơiđược xác định. áp dụng biện pháp hóa học chỉ hạn chế ở những nơi mà cư dân địa phương thường xuyên sử dụng để giặt giũ, tắm rửa, bơi lội.
–Cải thiện môi sinh
Đưa ra lời khuyến cáo cả con người và gia súc tránh đại tiện vào nguồn nước hoặc gần nguồn nước để làm giảm cơ hội nhiễm bệnh ở ốc. Cần phải xây dựng hố xí hoặc nhà vệ sinh, giáo dục khuyên răn trẻ em sử dụng chúng trong sinh hoạt hàng ngày một cách hợp lý.
–Truyền thông giáo dục sức khỏe và truyền thông nguy cơ
+Giáo dục sức khỏe làm thay đổi hành vi và đặc biệt cung cấp các thông tin hữu ích và dễ hiểu cho người dân và cộng đồng biết về bệnh sán lá gan lớn cũng như tác hại gây ra từ chúng;
+Không ăn thịt, gan, lòng của các gia súc bị bệnh nói trên khi chưa được xử lý kỹ;
+Nâng cao nhận thức về bệnh cho cán bộ y tế ở mức độ phổ biến của bệnh, dịch tễ học, chẩn đoán, điều trị và phòng chống bệnh sán lá gan lớn tại cộng đồng, nhất là các cán bộ y tế đang công tác tại tuyến huyện và xã – nơi đang thiếu những phương tiện chẩn đoán phù hợp.
–Quản lý gia súc nhiễm bệnh và nguồn rau an toàn
Phòng chống bệnh sán lá gan lớn được thiết kế nhằm loại bỏ hoặc giảm tỷ lệ mắc bệnh và gián tiếp nâng cao khả năng sinh sản của gia súc (trong kinh tế nông nghiệp). Loại trừ bệnh sán lá gan lớn cho gia súc cũng là gián tiếp giảm bệnh trên cộng đồng người. Hạn chế nhiễm bệnh sán lá gan lớn bằng cách hạn chế tối đa thiệt hại kinh tế, sử dụng các biện pháp phòng chống hiệu quả và quản lý tốt ca bệnh.
+Đảm bảo an toàn vệ sinh đối với các chất thải của con người và động vật;
+Điều trị cho gia súc có nhiễm sán Fasciola spp. bằng thuốc đặc hiệu;
+Truyền thông giáo dục sức khỏe phòng chống bệnh sán lá gan lớn, đặc biệt là truyền thông thay đổi hành vi nguy cơ trong thực hành ăn uống, sinh hoạt;
+Phòng chống bệnh sán lá gan lớn ở gia súc, nhất là nơi chăn thả và nông trang gia đình, cần lưu ý các nguồn bò nhập ngoại từ các quốc gia có bệnh lưu hành về các quốc gia hay vùng chưa có bệnh;
+Điều trị cho gia súc bị bệnh sán lá gan lớn bằng các thuốc chống sán lá gan lớn đặc hiệu, ít độc, thời gian tồn lưu trong thịt ngắn. Việc phòng bệnh sán lá gan lớn trên động vật tại các vùng bệnh lưu hành là làm thế nào để cắt đứt các khâu trong chu kỳ khép kín;
+Ngăn ngừa phơi nhiễm giữa gia súc với các khu vực trồng rau xanh;
+Kiểm soát nguồn nước tưới rau, không ăn rau sống ô nhiễm;
+Thực hành vệ sinh tốt trong quá trình sản xuất, trồng trọt và chế biến rau, sử dụng nguồn nước sạch;
Qua một vài nghiên cứu cho thấy nang trùng dính rất chặc ở cải xoong (mọc ở suối và ao, hồ) và nguồn nhiễm khác như các loài cây có nhiều lớp, có lớp mucoprotein và mucopolysacharide trung tính và acide bảo vệ à Nên muốn diệt được nang trùng thì người ta thường dùng dung dịch hypochloride để diệt.
Hiệu quả nhất là nấu chín các loại rau trước khi ăn. Vì thực vật thuỷ sinh trong các thuỷ vực (rau ngổ, củ ấu, mùi tây, rau diếp cá, rau húng), để phòng bệnh thì nên vớt thực vật thuỷ sinh, làm mất nơi trú ẩn của ấu trùng, nên chúng dễ bị sinh vật khác tấn công và tiêu diệt. Đồng thời, vớt thực vật thuỷ sinh làm cho mặt nước không được che phủ, do đó nhiệt độ mặt nước tăng lên do bị ánh nắng mặt trời chiếu trực tiếp và ấu trùng của sán không có thể phát triển, hoàn thành chu kỳ được hoặc ít nhất không phát triển thành nang trùng của sán. Trong các đồng ruộng trồng rau nên diệt các loài ốc, không sử dụng phân tươi của người và gia súc để bón.
Trong vùng lưu hành bệnh sán lá gan lớn, nếu muốn dùng các loại rau này, không nên ăn sống, nếu rửa bằng nước máy hoặc nước giếng không giết được nang trùng, nước uống phải đun sôi ít nhất 1 phút hoặc uống nước tinh khiết đã qua xử lý bằng tia cực tím.
–Triển vọng phát triển vaccin
Vaccin phòng bệnh hiện nay đang được nghiên cứu phát triển bởi các nhà khoa học tại Đại học Queensland, Úc, trước hết đi sâu vào nghiên cứu đáp ứng miễn dịch với các loài sán F. hepatica và F. gigantica trong các vật chủ, đặc biệt trên mô hình thực nghiệm giảm lượng sán lá gan lớn ở chuột, dê và cừu, rồi từ đó cần thiết phát triển vaccine chống lại sán ở người trong tương lai, các kết quả sơ bộ ban đầu cho thấy ở hai nhóm được dùng vaccine và không dùng vaccine có sự khác biệt về giảm mật độ ký sinh trùng trong cơ thể.
Nói tóm lại, chiến lược phòng chống bệnh hiệu quả là cải thiện môi trường, thay đổi hoạt động nông nghiệp, tưới tiêu sao cho hợp vệ sinh. Vì sự nhiễm trùng ở vật nuôi phụ thuộc vào hai yếu tố, đó là lượng mưa và nhiệt độ. Với mỗi vùng riêng biệt có số liệu thời tiết có thể giúp điều trị bệnh sán một cách hiệu quả theo thời gian.
Song ở vùng Đông Nam Á, vì điều kiện thời tiết có lượng mưa và nhiệt độ tương đối cao, điều này đã làm giảm hiệu quả phòng chống bệnh. Tuy nhiên, nếu sau mỗi mùa vụ thu hoạch xong, cho gia súc ăn lúa gạo sót lại thì giảm tỷ lệ bệnh cũng đáng kể, đồng thời làm giảm loài ốc trung gian truyền bệnh – vấn đề này được thực hành ở Indonesia, nhất là vùng Java, nhưng đến nay hiệu quả vẫn chưa được công bố.
Con người có thể ngăn ngừa nhiễm bệnh bằng cách không uống nước chưa được đun sôi hoặc nước không được lọc, không ăn gan sống và các loại rau không được rửa sạch hoặc không được nấu chín. Các biện pháp phòng chống ốc trung gian truyền bệnh không có hiệu quả kinh tế và cân nhắc tác động đến môi trường sau can thiệp. Ngăn ngừa và phòng chống bệnh sán truyền qua thức ăn là có thể thực hiện được thông qua các biện pháp an toàn thực phẩm, tránh làm nhiễm bẩn môi trường với chất thải. Chẳng hạn, việc thả phân chưa xử lý xuống ao ở Trung Quốc là một nguyên nhân chủ yếu gây nhiễm các loài sán lá, nên cần xử lý trước phân trong thùng để diệt trứng và các tác nhân gây bệnh khác làm giảm tỷ lệ mắc mới đáng kể.
Đáp ứng của Tổ chức Y tế thế giới trong phòng chống bệnh SLGL
Tổ chức Y tế thế giới (TCYTTG) đưa ra hoạt động phòng chống bệnh sán lá truyền qua thức ăn và xem đây là một tiếp cận lồng ghép phòng chống các căn bệnh nhiệt đới bị lãng quên, bao gồm:
-Phát triển các định hướng chiến lược và đưa ra khuyến cáo phù hợp;
-Hỗ trợ xây dựng bản đồ tại các quốc gia có bệnh lưu hành, hỗ trợ thí điểm can thiệp và phòng chống ở các quốc gia có lưu hành bệnh;
-Hỗ trợ giám sát và đánh giá các hoạt động triển khai, nhằm đưa ra gánh nặng bệnh tật bệnh sán lá truyền qua thức ăn và tác động của các biện pháp can thiệp.
Một số rào cản trong phối hợp y tế – thú y phòng chống SLGL
Việc phối hợp giữa y tế với thú y gồm khâu quản lý phân trâu bò và các gia súc khác nhau, điều trị, đồng thời với quản lý súc vật bị bệnh sán lá gan lớn, quản lý khu vực chuồng trại và nguồn chất thải từ lò mổ không tuân thủ quy trình hợp vệ sinh, dù các hoạt động này có thể không ổn định (xã, huyện) hay ổn định (tỉnh và thành phố lớn).
Hình 5
Tuy nhiên, qua thực tế tại nhiều quốc gia đã cho thấy một số rào cản và thách thức trong phối hợp đa ngành hướng đến Một sức khỏe (“One Health”) cần phải chia sẻ và kết nối trong kiểm soát bệnh này giữa các bên:
Bảng 1. Một số rào cản và thách thức trong phòng chống bệnh SLGL
Rào cản và thách thức
(Barriers & Challenges)
Chia sẻ và kết nối
(Sharing & Connecting)
– Tách biệt giữa các viện chuyên ngành
– Liên kết “yếu”giữa cơ quan y tế con người và cơ quan y tế động vật (thú y)
Sự phối hợp, lồng ghép và đối tác trong các hoat động phòng chống và kiểm soát.
– Sự khác biệt trong nhấn mạnh:
+ Y tế: sức khỏe con người
+ Thú Y: sản lượng gia súc
Lợi điểm kép: sức khỏe cho con người và động vật
– Sự khác biệt trong chuyên khoa;
– Sự cạnh tranh (không biết số liệu)
– Chia sẻ thông tin qua giao ban và hội đồng y tế thú y
Đào tạo: Thiếu nhấn mạnh về bệnh lý truyền từ động vật sang người và ngược lại
Xây dựng năng lực thông qua đào tạo thường quy về bệnh lây truyền từ động vật sang người cho lĩnh vực thú y-y tế.
Cơ sở hạ tầng về y tế công cộng của thú y còn chưa đồng bộ và yếu
Đã đến lúc cần đầu tư và nâng cấp các lĩnh vực thú y.
Các phòng chống mang tính cấp thời và chưa có lộ trình dự phòng đầy đủ
– Xây dựng nhóm hành động y tế-thú y;
– Cơ quan chức năng làm đầu mối
Phòng chống bệnh sán lá gan lớn được thiết kế nhằm loại bỏ hoặc giảm tỷ lệ mắc bệnh và gián tiếp nâng cao khả năng sinh sản của gia súc (trong kinh tế nông nghiệp). Loại trừ bệnh sán lá gan lớn cho gia súc cũng là gián tiếp giảm bệnh trên cộng đồng người. Hạn chế nhiễm bệnh sán lá gan lớn bằng cách hạn chế tối đa thiệt hại kinh tế, sử dụng các biện pháp phòng chống hiệu quả và quản lý tốt ca bệnh.
Chiến lược phòng chống bệnh hiệu quả là cải thiện môi trường, thay đổi hoạt động nông nghiệp, tưới tiêu sao cho hợp vệ sinh. Vì sự nhiễm trùng ở vật nuôi phụ thuộc vào hai yếu tố, đó là lượng mưa và nhiệt độ. Với mỗi vùng riêng biệt có số liệu thời tiết có thể giúp điều trị bệnh sán một cách hiệu quả theo thời gian, nhưng ở vùng Đông Nam Á, vì điều kiện thời tiết có lượng mưa và nhiệt độ tương đối cao, điều này đã làm giảm hiệu quả phòng chống bệnh.
Tuy nhiên, nếu sau mỗi mùa vụ thu hoạch xong, cho gia súc ăn lúa sót lại thì giảm tỷ lệ bệnh cũng đáng kể, đồng thời làm giảm loài ốc trung gian truyền bệnh – vấn đề này được thực hiện ở Indonesia, nhất là vùng Java, nhưng đến nay hiệu quả vẫn chưa được công bố.
Nói một cách sơ lược nhưng hội đủ ý nghĩa rằng con người có thể ngăn ngừa nhiễm bệnh bằng cách không uống nước chưa được đun sôi hoặc nước không được lọc, không ăn gan sống và các loại rau không được rửa sạch hoặc không được nấu chín. Các biện pháp phòng chống ốc không có hiệu quả kinh tế và cân nhắc tác động đến môi trường.
Ngăn ngừa và phòng chống bệnh sán truyền qua thức ăn là có thể thực hiện được thông qua các biện pháp an toàn thực phẩm (nấu và rửa đúng cách ca, thịt và rau), tránh làm nhiễm bẩn môi trường với chất thải.
Chẳng hạn, việc thả phân chưa xử lý xuống ao ở Trung Quốc là một nguyên nhân chủ yếu gây nhiễm các loài sán lá, nên cần xử lý trước phân trong thùng để diệt trứng và các tác nhân gây bệnh khác làm giảm tỷ lệ mắc mới đáng kể.
Hình 6
Qua một vài nghiên cứu cho thấy nang trùng dính rất chặc ở cải xoong (mọc ở suối và ao, hồ) và nguồn nhiễm khác như các loài cây có nhiều lớp, có lớp mucoprotein và mucopolysacharide trung tính và acide bảo vệ. Nên muốn diệt được nang trùng thì thường dùng dung dịch hypochlorid. Hiệu quả nhất là nấu chín các loại rau trước khi ăn. Vì thực vật thuỷ sinh trong các thuỷ vực (rau ngổ, củ ấu, mùi tây, rau diếp cá, rau húng), để phòng bệnh thì nên vớt thực vật thuỷ sinh, làm mất nơi trú ẩn của ấu trùng, nên chúng dễ bị sinh vật khác tấn công và tiêu diệt.
Đồng thời, vớt thực vật thuỷ sinh làm cho mặt nước không được che phủ, do đó nhiệt độ mặt nước tăng lên do bị ánh nắng mặt trời chiếu trực tiếp và ấu trùng của sán không có thể phát triển, hoàn thành chu kỳ được hoặc ít nhất không phát triển thành nang trùng của sán. Trong các ruộng trồng rau nên diệt các loài ốc, không sử dụng phân tươi của người và gia súc để bón.
Hình 7
Trong vùng lưu hành bệnh SLGL, nếu muốn dùng các loại rau này, chúng ta không nên ăn sống và nhớ rằng nếu rửa bằng nước máy hoặc nước giếng không giết được nang trùng, nước uống phải đun sôi ít nhất 1 phút hoặc uống nước tinh khiết đã qua xử lý bằng tia cực tím. Nói chung, giáo dục sức khoẻ toàn dân hành động ngay thiết lập thói quen ăn chín, uống đun sôi để nguội là phương pháp hiệu quả phòng ngừa bệnh sán lá gan lớn.
Ngoài việc phát hiện ca bệnh và điều trị, quản lý tại cơ sở y tế, cần phải thực hiện các biện pháp để giảm hoặc ngăn ngừa sự lan truyền bệnh. Xây dựng các hệ thống cung cấp nước sạch là biện pháp phòng chống có hiệu quả kinh tế nhất ở hầu hết các khu vực. Giáo dục sức khoẻ là cần thiết để đảm bảo sự tham gia của cộng đồng vào việc xây dựng và sử dụng các phương tiện cung cấp nước không ô nhiễm.
Sự nhiễm bệnh sán lá gan lớn trong một quần thể phụ thuộc và đòi hỏi chính xác 4 yếu tố:
1.Sự hiện diện của các ổ chứa bệnh quan trọng;
2.Sự có mặt của vật chủ trung gian, nhất là ốc họ Lymnae spp.;
3.Các cơ hội cho nguồn nước ô nhiễm do con người và động vật khác;
4.Hành vi ăn uống, bao gồm các loại rau thủy sinh sống, chưa được xử lý.
Do đó, các biện pháp quan trọng và hữu hiệu nhất cho y tế cộng đồng đòi hỏi phải đúng mục đích, không nhất thiết phải là tất cả, nhưng tối thiểu chú trọng đến các khâu này.
B. PHÒNG BỆNH SÁN LÁ GAN LỚN TRÊN TRÂU BÒ – VẬT CHỦ
Các biện pháp phòng trị bệnh sán lá gan cho trâu, bò Bệnh sán lá gan là một bệnh rất phổ biến ở trâu, bò, gây nhiều tác hại đến sức khoẻ cho bò như gây xơ gan, viêm túi mật-đừơng mật, giảm năng suất thịt và sữa, mất dần khả năng cày kéo và sức bừa à Gây thiệt hại kinh tế cho người chăn nuôi và còn là trung gian truyền bệnh sán lá gan cho con người.
Hình 8
Nguyên nhân của bệnh sán lá gan cho trâu, bò là do sán lá ký sinh trong ống dẫn mật của gan và túi mật. Sán trưởng thành có màu hồng, dài khoảng 3-7cm có thể có từ vài chục đến vài trăm sán lá ký sinh trong gan, mật của một con trâu, bò và đẻ trứng. Trứng theo nước mật xuống ruột, rồi theo phân ra ngoài, gặp điều kiện thuận lợi (nhiệt độ 15-300C, có nước) nở thành mao ấu trùng. Mao ấu chui vào ốc – ký chủ trung gian phát triển thành vĩ ấu. Vĩ ấu ra khỏi ốc, rụng đuôi thành kén. Giai đoạn này kéo dài khoảng 90-102 ngày ở ngoài tự nhiên.
Kén trôi nổi trong nước, bám vào cây cỏ thuỷ sinh. Tiếp đó, các loài trâu, bò ăn cỏ thuỷ sinh hoặc uống nước có kén, kén vào cơ thể phát triển thành ấu trùng ở ruột, rồi theo ống dẫn mật về gan và phát triển thành sán trưởng thành với thời gian kéo dài khoảng 90-115 ngày.
Triệu chứng của bệnh sán lá gan cho trâu, bò gồm 3 tác hại:
-Di chuyển trong ống mật và gan, gây viêm xơ tổ chức đường mật, túi mật. Nếu ở bệnh tích khi mổ trâu, bò bị bệnh, chúng ta thấy gan-ống dẫn mật và túi mật bị xơ hoá và có sán lá gan lớn trong ống dẫn mật và nhu mô gan;
-Sán ăn hồng cầu vật chủ và lấy chất dinh dưỡng từ nhu mô gan, mật làm trâu, bò gầy yếu, thiếu máu, giảm sức cày kéo;
-Sán tiết độc tố gây viêm ruột kéo dài, dẫn đến trâu, bò biểu hiện ỉa chảy dai dẳng hay từng đợt dẫn đến gầy yếu, giảm tăng trọng và mất dần khả năng cày kéo. Nếu ỉa chảy nặng, trâu, bò có thể chết do kiệt sức.
Do các tác hại về mặt sức khỏe động vật và con người ở trên, nên việc kiểm tra xét nghiệm phân dưới kính hiển vi để tìm trứng sán, điều trị tiệt căn là cần thiết. Điều trị bệnh sán lá gan lớn cho trâu, bò bằng 1 trong 2 hoá dược:
+ Handertil B (Fasinex) thành phần chính cũng là triclabendazole, dùng liều 10 mg/kg thể trọng. Cho uống trực tiếp hoặc trộn với thức ăn.
+ Tolzan F (Oxyclozanide) dùng liều 10mg/kg thể trọng. Cho uống trực tiếp hoặc trộn với thức ăn.
Hình 9
Ngoài ra, các chủ nuôi hoặc cơ quan chức năng liên quan định kỳ lấy mẫu phân đưa đến trạm thú y hoặc chi cục thú y để kiểm tra phát hiện trâu, bò nhiễm sán để tẩy trừ. Ủ phân diệt trứng sán, nuôi vịt, thả cá để diệt ốc ký chủ trung gian truyền bệnh.