Vị thế mới của ngành công nghiệp điện tử Việt Nam

(PLVN) – Ngành công nghiệp điện tử Việt Nam đã có một vị thế khá lớn khi lọt vào Top 15 quốc gia xuất khẩu điện tử lớn nhất thế giới và liên tục dẫn đầu giá trị trong tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam. Hiện “con đường gia công” của ngành điện tử còn khá nhiều chông gai nhưng đã có những tín hiệu cho thấy giá trị nội địa đang gia tăng…

“Chiếc gậy” để cân bằng cán cân thương mại

Công nghiệp điện tử là ngành sản xuất, có vị trí then chốt trong nền kinh tế và tác động lan tỏa mạnh mẽ đến các ngành công nghiệp khác. Theo số liệu thống kê gần đây, Việt Nam nằm trong số các quốc gia xuất khẩu (XK) điện tử lớn thứ 12 thế giới và thứ 3 trong khối ASEAN. “Sức sống của doanh nghiệp (DN), của ngành điện tử của Việt Nam cũng rất lớn. Trải qua 3 năm ảnh hưởng bởi dịch bệnh mà ngành điện tử vẫn giữ vững được tốc độ tăng trưởng cũng như là kim ngạch xuất nhập khẩu là nỗ lực cực kỳ lớn của các DN trong việc duy trì sản xuất, duy trì công ăn việc làm và giữ vững thị trường” – bà Đỗ Thị Thúy Hương, Phó Chủ tịch Hiệp hội Công nghiệp hỗ trợ Việt Nam (VASI) kiêm Ủy viên Ban Chấp hành Hiệp hội DN điện tử Việt Nam (VEIA) đánh giá.

Thống kê cho thấy, điện tử liên tục là một ngành dẫn đầu trong kim ngạch XK của cả nước về ngành công nghiệp chế biến – chế tạo. Giá trị XK của ngành công nghiệp điện tử năm 2021 trên 108 tỷ USD, dẫn đầu trong tất cả kim ngạch XK ngành chế biến – chế tạo, chiếm khoảng trên 30% tổng kim ngạch XK của cả nước. Trong năm 2021, ngành điện tử xuất siêu 11,5 tỷ USD trong bối cảnh cả nước chỉ xuất siêu 4 tỷ USD. Trong 9 tháng của năm 2022, ngành điện tử tiếp tục là ngành dẫn đầu trong các ngành công nghiệp chế biến – chế tạo với giá trị XK xấp xỉ 87 tỷ USD, xuất siêu 12,5 tỷ USD, trong bối cảnh cả nước xuất siêu 6,5 tỷ USD.

“Điều này chứng tỏ đóng góp của ngành điện tử vào giá trị XK cũng như cân đối cán cân thương mại cho cả nước là tương đối quan trọng. Nó cũng cho thấy tỷ trọng xuất siêu của điện tử tăng dần so với các năm trước đó. Giá trị gia tăng cộng thêm cho sản xuất trong nước càng ngày càng gia tăng thêm. Có được kết quả này là do chính sách đúng đắn của Chính phủ và Bộ trong việc thu hút đầu tư nước ngoài (FDI) một cách phù hợp và chọn lọc” – bà Hương nhìn nhận.

Ngoài việc được tạo thuận lợi trong hỗ trợ chính sách, theo bà Thúy Hương, việc duy trì điểm sáng kinh tế hàng năm của công nghiệp điện tử còn đến từ việc hỗ trợ phát triển ngành công nghiệp chế biến chế tạo, đặc biệt là ngành công nghiệp hỗ trợ của ngành công nghiệp điện tử có đà và khởi sắc hơn trong những năm gần đây. Cùng với đó là tác động và ảnh hưởng của các hiệp định thương mại tự do mới đem lại sức sống và nhiều cơ hội mới cho DN. Đơn cử như ngành điện tử xuất siêu sang các thị trường mục tiêu của CPTPP (Hiệp định Đối tác toàn diện xuyên Thái Bình Dương). Tỷ trọng XK lớn nhất nằm ở thị trường Mỹ, thứ nhì là Trung Quốc, Hàn Quốc và sau đó là các quốc gia khác, trong đó có các quốc gia thuộc CPTPP như Canada, Chile, Peru.

Gia công – không phải là vấn đề đáng ngại

Điểm yếu nhiều năm được tất cả các chuyên gia nhìn nhận, là việc giá trị XK của ngành công nghiệp điện tử không thuộc về các DN trong nước mà chủ yếu xuất thông qua chuỗi cung ứng của ngành điện tử (tức là nằm trong chuỗi sản xuất của các thương hiệu lớn quốc tế).

Bà Hương thừa nhận, ngành điện tử của Việt Nam hiện nay hầu hết là gia công và OEM (sản xuất thiết bị cho hãng) và không có thương hiệu nào mang danh nghĩa là thương hiệu Việt XK. “Tuy nhiên, giá trị XK vẫn khởi sắc và việc cung ứng trong chuỗi sản xuất không có gì đáng xấu hổ” – bà Hương khẳng định. Thực tế, trên thế giới có nhiều tập đoàn lớn, nổi tiếng cũng chỉ thực hiện duy nhất hoạt động OEM cho thương hiệu, nhãn hiệu lớn khác. Foxconn là một ví dụ. Hiện Foxconn chính là công ty OEM cho Apple, có trụ sở ở nhiều nơi như Đài Loan, Trung Quốc, Ấn Độ, Việt Nam…

Ngoài ra, ngành điện tử Việt Nam cũng phát triển từ con số 0, trong khi các ngành điện tử của các nước khác trên thế giới đã đi những bước rất dài trước khi Việt Nam hội nhập. Vì thế, khi bắt đầu, DN Việt Nam phải đi từng bước, phải tham gia dưới góc độ OEM để dần dần có thể điều chỉnh năng lực sản xuất, năng lực quản trị và đầu tư thiết bị, đi cùng theo chuỗi và hưởng lợi từ quy trình công nghệ, kỹ năng quản trị, tiếp cận thị trường một cách bài bản và chuyên nghiệp theo chuỗi cung ứng điện tử toàn cầu.

Không thể phủ nhận tỷ trọng XK của ngành điện tử rơi vào FDI là chính, tuy nhiên, theo bà Hương, cũng phải thừa nhận con số gia tăng trong XK điện tử (tức là con số gia tăng nội địa) ngày càng lớn hơn và có đóng góp rất lớn của các DN nội địa trong nước. Đáng chú ý, ngày càng nhiều DN nội địa tham gia vào chuỗi cung ứng. Ví dụ như khi Samsung mới vào Việt Nam, chỉ có 1-2 nhà cung ứng trong nước nhưng trong vòng 5 năm trở lại đây, đã có trên 200 nhà cung ứng là DN cung ứng nội địa Việt Nam, trong đó có 51 DN cung ứng cấp 1, trực tiếp với Samsung.

VEIA cũng đã tiếp nhận nhiều yêu cầu kết nối với các đối tác Bắc Mỹ, đặc biệt ở Canada. Thông qua Đại sứ quán và Thương vụ đã hỗ trợ kết nối khá thành công với các đối tác Canada trong việc thiết lập một chuỗi cung ứng tại Việt Nam. Hầu hết các đối tác không chỉ tìm kiếm DN đơn lẻ mà tìm theo chuỗi cung ứng hoàn chỉnh từ kho hàng, logistic, bao bì, đóng gói, linh kiện điện tử. Gần đây, hãng Boeing cũng đã tổ chức hội nghị hàng không lớn tại Việt Nam với mong muốn thiết lập một chuỗi cung ứng, một hệ sinh thái sản xuất của Boieng Việt Nam.

“Điều này cho thấy năng lực cung ứng của DN nội địa đã ngày càng tăng lên và nhận được sự tin tưởng của nhiều tập đoàn tên tuổi của thế giới. Tuy nhiên, hiện nay, chúng ta mới chỉ có thống kê con số XK thông qua DN cuối cùng ở khâu khai báo qua hải quan mà chưa có một số liệu thống kê đầy đủ về giá trị gia tăng của các DN nội địa khi cung cấp vào chuỗi cung ứng. Đây là điểm thiếu sót mà các bộ, ngành cần hoàn thiện để thông qua đó chúng ta có thể định hướng được những đường đi tiếp theo” – bà Hương gợi ý.

Tận dụng mọi cơ hội thị trường

Thực tế hiện nay, ngành công nghiệp hỗ trợ nói chung, công nghiệp điện tử nói riêng đang được quan tâm rất nhiều. Chính phủ đã có riêng một nghị quyết về phát triển công nghiệp hỗ trợ. Các bộ, ngành đưa ra những chính sách tạo đà tham gia và phát triển cho các DN. Các hiệp hội đồng hành mọi lúc, mọi nơi, mọi thị trường với DN. “Chúng tôi luôn tận dụng mọi cơ hội để mở rộng thị trường. DN trong ngành nắm bắt tất cả những cơ hội khi có thể. Vì vậy, các cơ hội mà cơ quan đại diện thương vụ của Việt Nam tại các thị trường như là Canada hay Thụy Điển mang đến thì chúng tôi đều nắm bắt và triển khai ngay đến các DN thành viên” – bà Hương thông tin.

Thậm chí, trong thời gian dịch bệnh, các đối tác quốc tế không thể gặp trực tiếp DN thì Hiệp hội thường xuyên hỗ trợ và chuẩn bị cho những cuộc gặp trực tuyến.

Đáng chú ý, theo bà Hương, các DN tham gia vào lĩnh vực công nghiệp điện tử khá gắn bó với nhau, đặc biệt là DN vừa và nhỏ. Hầu hết DN đều sẵn sàng chia sẻ với nhau, kể cả những kinh nghiệm sản xuất. “Thậm chí chúng tôi chia sẻ cả khách hàng khi có những đơn hàng lớn để nhiều DN cùng tham gia. Chúng tôi còn tiến hành một công việc nữa là không chỉ là bán chung mà còn mua chung. Ví dụ có những đơn hàng mua nguyên vật liệu, nếu mua lẻ thì giá khá cao, do đó chúng tôi triển khai công tác mua chung. Tức là các DN sẽ “show” đơn hàng công khai với các DN trong Hiệp hội để DN nào có nhu cầu sẽ cùng tham gia vào đăng ký mua chung, khi đó đơn giá sẽ giảm xuống vì chúng ta mua hàng số lượng lớn” – bà Hương chia sẻ.

Đây cũng chính là một cách để tận dụng thị trường. Bởi tận dụng thị trường không phải chỉ là tận dụng để tìm kiếm đơn hàng mà còn tận dụng để tìm kiếm được những nhà cung cấp nguyên vật liệu giá rẻ, qua đó giảm giá thành sản xuất, tăng lợi nhuận, tăng tính cạnh tranh sản phẩm và kéo theo đó là mở thêm được các thị trường. Bà Hương khẳng định, DN điện tử nói chung cũng như là DN ngành công nghiệp hỗ trợ nói riêng rất nỗ lực trong việc kết nối với đối tác trong việc tự nâng cao năng lực bản thân cũng như trong việc chia sẻ các cơ hội với nhau. Và đây chính là tiền đề để DN Việt có thể nâng cao giá trị nội địa trong chuỗi sản xuất toàn cầu.