Ứng dụng kế toán quản trị chi phí tại các doanh nghiệp xây lắp tại Việt Nam – Trường Đại học Trưng Vương

1. Tóm tắt: Trong thời gian qua, Việt Nam đã và đang tiến hành một cách nhanh chóng việc cải tạo nâng cấp, mở rộng, xây dựng mới cơ sở hạ tầng làm thay đổi bộ mặt đất nước từng ngày và góp phần quan trọng thực hiện các mục tiêu kinh tế, chính trị, xã hội mà Đảng và Nhà nước đã đề ra. Để từng bước thực hiện thành công tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước tạo nền tảng để đến năm 2030 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại thì việc phát triển hệ thống các công trình xây dựng trong giai đoạn hiện nay ngày càng trở nên cấp thiết. Các doanh nghiệp xây lắp đóng một vai trò hết sức quan trọng trong việc phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng nước nhà. Vấn đề đặt ra hiện nay đối với nước ta là tình trạng hoạt động kém hiệu quả, thua lỗ nhiều năm, thất thoát, lãng phí trong việc triển khai thi công các dự án còn diễn ra phổ biến trong các doanh nghiệp xây lắp. Điều này ảnh hưởng lớn đến chất lượng công trình cũng như tiến độ thực hiện các dự án. Để khắc phục tình trạng nêu trên các doanh nghiệp cần nâng cao hơn nữa hiệu quả quản lý, tiết kiệm chi phí, hạ giá thành sản phẩm. Vì vậy, hạch toán chi phí sản xuất đúng, đủ là một phần hành cơ bản của công tác hạch toán kế toán lại càng có ý nghĩa hơn nữa với các doanh nghiệp xây lắp hiện nay.

2. Thực trạng ứng dụng kế toán quản trị tại các doanh nghiệp xây lắp Việt Nam

Ở Việt Nam, trong bối cảnh môi trường kinh doanh, đầu tư ngày càng phức tạp, vai trò của kế toán nói chung càng được nâng cao. Không chỉ dừng lại ở kế toán tài chính là đơn vị cung cấp thông tin cho các đối tượng bên ngoài, kế toán quản trị với chức năng cung cấp thông tin cho lãnh đạo để tham khảo trước khi đưa ra các quyết định để điều hành, quản lý doanh nghiệp cũng được chú trọng nhiều hơn. Tuy nhiên, việc áp dụng kế toán quản trị trong các doanh nghiệp xây lắp Việt Nam còn nhiều hạn chế:

– Đa số các doanh nghiệp vẫn chưa quan tâm thỏa đáng đến áp dụng kế toán quản trị, chỉ quan tâm đến kế toán tài chính, hạn chế trong việc nắm bắt tầm quan trọng của kế toán quản trị mang lại hiệu quả trong điều hành doanh nghiệp.

– Các doanh nghiệp mới áp dụng sơ khai, đơn giản chỉ là sự kết hợp giữa kế toán tài chính và kế toán quản trị, kế toán quản trị chỉ là chi tiết hóa số liệu của kế toán tài chính. Các doanh nghiệp chưa khai thác triệt để công cụ kế toán quản trị vào doanh nghiệp. Bên cạnh đó, các nhà quản trị doanh nghiệp còn lúng túng khi nghiên cứu nội dung kế toán quản trị để áp dụng thực tế vào doanh nghiệp. Điều đó đòi hỏi các nhà quản trị doanh nghiệp phải có đủ chuyên môn và kinh nghiệm chuyên tư vấn xây dựng hệ thống kế toán quản trị.

Để đáp ứng được yêu cầu trên, bắt buộc các nhà quản trị doanh nghiệp phải bỏ ra khoản chi phí để đào tạo nhân viên kế toán quản trị và các chi phí khác phục vụ cho việc áp dụng kế toán quản trị vào doanh nghiệp. Tuy nhiên, các nhà quản trị doanh nghiệp luôn cân nhắc giữa chi phí đầu tư và hiệu quả mang lại của công tác kế toán quản trị. Đó chính là một trong những trở ngại lớn mà hầu hết các doanh nghiệp Việt Nam chưa muốn áp dụng kế toán quản trị vào doanh nghiệp.

– Về mô hình tổ chức bộ máy kế toán. Hiện nay các doanh nghiệp chỉ tổ chức bộ máy kế toán tài chính, còn bộ máy kế toán quản trị chưa được quan tâm và đầu tư đúng mức. Nhân viên kế toán chủ yếu chỉ có kinh nghiệm về kế toán tài chính, còn kiến thức về kế toán quản trị chưa được đào tạo bài bản nên khó thực hiện các công việc của kế toán quản trị.

– Thực tế cho thấy, hầu hết các doanh nghiệp Việt Nam chỉ mới phân loại chi phí chủ yếu theo nội dung kinh tế hay theo mục đích của chi phí phục vụ cho việc lập báo cáo tài chính, chứ không phân loại chi phí phục vụ cho kế toán quản trị. Từ đó, việc ra quyết định gặp nhiều khó khăn.

– Việc lập báo cáo kế toán quản trị tuy đã được các doanh nghiệp quan tâm nhưng khá sơ sài. Các doanh nghiệp lập báo cáo hầu hết là các báo cáo phục vụ cho kế toán tài chính cung cấp thông tin cho các đối tượng bên ngoài, chưa chú trọng đến việc lập báo cáo kế toán quản trị phục vụ cho nhà quản trị doanh nghiệp. Ngoài ra, phần lớn doanh nghiệp chỉ mới sử dụng các chứng từ mang tính bắt buộc, chưa thiết kế hay xây dựng các biểu mẫu chứng từ, tài khoản theo dõi chi tiết chưa phù hợp với việc phân tích và phục vụ cho việc phân tích chênh lệch chi phí định mức và thực tế.

– Việc phân tích chi phí, khối lượng và lợi nhuận trong doanh nghiệp chủ yếu phục vụ cho quản lý chi phí, lợi nhuận theo cơ chế tài chính chứ không đánh giá mối quan hệ giữa các nhân tố giá bán, khối lượng (mức độ hoạt động), chi phí (biến phí, định phí) và lợi nhuận thông qua các chỉ tiêu như: số dư đảm phí, tỷ lệ số dư đảm phí, tỷ lệ biến phí, đòn bẩy kinh doanh, điểm hòa vốn nhằm phục vụ cho việc đưa ra các quyết định về sản xuất kinh doanh, lựa chọn các phương án kinh doanh tối ưu, định giá bán trong trường hợp đặc biệt, xây dựng định mức chi phí…

– Công tác lập dự toán tại các doanh nghiệp đều do bộ phận kế toán tài chính lập và chỉ lập một số dự toán cơ bản phục vụ cho việc lập dự toán tài chính, còn các dự toán tác nghiệp và dự toán báo cáo tài chính… chưa được đề cập đến. Bên cạnh đó, việc phân loại chi phí theo yếu tố chi phí, theo khoản mục chi phí không phân loại chi phí theo cách ứng xử, dẫn đến việc lập dự toán sản xuất kinh doanh không khả thi…

– Nhân viên kế toán làm việc theo thói quen tự phát, phát sinh đến đâu xử lý đến đó và đôi khi hệ lụy đã xảy ra rồi mà không kịp để trở tay gây thất thoát lớn cho doanh nghiệp. Trách nhiệm nhân viên không rõ ràng dẫn đến các sai sót trong theo dõi và quản lý kế toán gây nhiều thất thoát tiềm ẩn. Không có quy trình chuẩn để theo dõi nên mỗi kế toán theo dõi một kiểu và cần cái gì mới theo dõi, vì vậy có thể hoạt động vài năm nhưng chưa chắc đã có số liệu để phân tích hiệu quả và so sánh tình hình phát triển trong từng năm để có chiến lược lâu dài…

4. Một số ý kiến trao đổi nhằm nâng cao hiệu quả ứng dụng kế toán quản trị chi phí tại các doanh nghiệp xây lắp Việt Nam

Thứ nhất: Về mô hình tổ chức bộ máy kế toán quản trị

Các loại mô hình tổ chức kế toán quản trị cơ bản bao gồm mô hình kế toán kết hợp (Kết hợp giữa kế toán quản trị và kế toán tài chính trong cùng một bộ máy), mô hình tách biệt (Kế toán tài chính và kế toán quản trị tách rời nhau), mô hình kế toán hỗn hợp (tổ chức tách biệt kế toán quản trị chi phí sản xuất còn các nội dung khác thì thực hiện kết hợp). Việc vận dụng mô hình nào là tuỳ thuộc vào đặc điểm tổ chức sản xuất kinh doanh, điều kiện thực tiễn của từng doanh nghiệp cụ thể. Theo quan điểm của chúng tôi, mô hình kết hợp giữa kế toán tài chính và kế toán quản trị chi phí sản xuất trong cùng một bộ máy kế toán là mô hình phù hợp với các doanh nghiệp xây dựng trong điều kiện hiện nay vì một số lý do sau:

– Tiềm lực kinh tế của các doanh nghiệp xây lắp Việt Nam chưa cao, đặc biệt một số doanh nghiệp còn rất khó khăn về tài chính khi thực hiện thi công các dự án đầu tư xây dựng. Do vậy, việc áp dụng mô hình kết hợp này sẽ giúp các doanh nghiệp xây dựng không bị gia tăng về chi phí nhiều cho bộ phận kế toán.

– Hệ thống kế toán doanh nghiệp xây lắp Việt Nam hiện hành là hệ thống kế toán kết hợp giữa kế toán tài chính và kế toán quản trị, do đó áp dụng mô hình kế toán kết hợp đảm bảo yêu cầu kế thừa không gây xáo trộn, tiết kiệm chi phí.

– Phù hợp với trình độ của đội ngũ kế toán hiện nay.

Với mô hình kết hợp, kế toán tài chính và kế toán quản trị được tổ chức thành một hệ thống thống nhất trong cùng một bộ máy kế toán. Kế toán tài chính thực hiện chức năng thu thập thông tin phục vụ cho việc lập báo cáo tài chính, cung cấp thông tin phục vụ chủ yếu cho các đối tượng bên ngoài doanh nghiệp. Kế toán quản trị thực hiện chức năng thu thập thông tin, xử lý thông tin phục vụ lập các báo cáo kế toán quản trị cung cấp thông tin cho nhà quản trị các cấp trong nội bộ doanh nghiệp.

Cụ thể, bộ phận kế toán chi phí của kế toán tài chính căn cứ vào chứng từ để hạch toán chi phí sản xuất phát sinh của doanh nghiệp theo từng yếu tố chi phí, cung cấp số liệu phục vụ lập báo cáo kết quả kinh doanh và bản thuyết minh báo cáo tài chính. Còn kế toán quản trị thì hạch toán chi tiết theo từng bộ phận, công trình, hạng mục công trình… để xác định kết quả theo từng bộ phận, từng công trình, hạng mục công trình, đồng thời phân loại theo dõi riêng chi phí cố định và chi phí biến đổi để giúp cung cấp thông tin cho nhà quản lý khi ra quyết định. Bên cạnh đó, phối hợp với các bộ phận khác lập dự toán chi phí, xây dựng các định mức chi phí cho từng CT, HMCT tiến hành phân tích chi phí. Qua nghiên cứu các mô hình kế toán quản trị và tình hình thực tế công tác kế toán tại các doanh nghiệp xây lắp Việt Nam, chúng tôi nhận thấy các doanh nghiệp nên áp dụng mô hình tổ chức bộ máy kế toán kết hợp, theo mô hình này phòng kế toán của các doanh nghiệp bao gồm các bộ phận kế toán đảm nhiệm các phần hành kế toán tài chính, kế toán quản trị cụ thể như:

+ Bộ phận kế toán tài sản cố định và vật tư;

+ Bộ phận kế toán tiền và thanh toán;

+ Bộ phận kế toán chi phí và giá thành;

+ Bộ phận kế toán nguồn vốn, quỹ;

+ Bộ phận kế toán thuế và tiền lương;

+ Bộ phận kế toán tổng hợp,

Theo mô hình này các bộ phận kế toán có mối quan hệ chặt chẽ với nhau trong việc cung cấp thông tin, xử lý số liệu phục vụ cho kế toán tài chính và kế toán quản trị cũng như yêu cầu của các nhà quản trị doanh nghiệp, chẳng hạn: Bộ phận kế toán tiền và thanh toán, cung cấp thông tin về các loại tiền hiện có và tình hình thanh toán công nợ, trên cơ sở đó nhà quản trị nắm chắc tình hình tài chính của doanh nghiệp mình, các thông tin này được dùng để ra các quyết định mua tài sản cố định và vật tư, đồng thời xem xét tình hình chi phí bởi số liệu được cung cấp từ bộ phận kế toán chi phí và giá thành sản phẩm.

Thứ hai, Ở cấp quản lý vĩ mô, đòi hỏi phải có sự can thiệp vĩ mô của Nhà nước và các cơ quan quản lý tào tạo chuyên ngành, nhằm quy định và hướng dẫn mô hình vận dụng kế toán quản trị, để doanh nghiệp thấy được tầm quan trọng và hiệu quả mang lại khi vận dụng kế toán quản trị.

Đối với các doanh nghiệp, các nhà quản lý, cần phải nhận thức về tầm quan trọng của việc sử dụng các thông tin của kế toán, xây dựng được hế thống thông tin thông suốt trong nội bộ doanh nghiệp. Đồng thời, tuân thủ và đảm bảo chế độ kế toán rõ ràng, tuân thủ các tiêu chuẩn quốc tế; lưu giữ tất cả các số liệu, sổ kế toán, chứng từ cần thiết nhằm tránh rủi ro có thể xảy ra; tăng cường học tập kinh nghiệm áp dụng kế toán quản trị của những tập đoàn kinh tế trên thế giới về mô hình báo cáo, hệ thống chỉ tiêu, từ đó áp dụng phù hợp với thực tiễn của Việt Nam.

Doanh nghiệp phải xây dựng một hệ thống chỉ tiêu kế toán quản trị cụ thể theo mục tiêu quản trị đặt ra. Các chỉ tiêu này phải đảm bảo so sánh được giữa các thời kỳ để đưa ra được các đánh giá chính xác về thực tế tình hình hoạt động của doanh nghiệp.

Cùng với đó, doanh nghiệp cần xây lắp quy trình sản xuất thống nhất, thiết lập hệ thống quản lý chất lượng sản phẩm, dịch vụ. Điều này không những giúp doanh nghiệp chuẩn hoá hoạt động mà còn là cơ sở để cung cấp nguồn số liệu chính xác cho kế toán quản trị trong quá trình lập báo cáo. Chính sự thống nhất về bản chất số liệu sẽ giúp việc so sánh các chỉ tiêu hiệu quả hơn.

Thứ ba, Xây dựng báo cáo để thực hiện kế toán quản trị chi phí sản xuất sản phẩm xây lắp

Báo cáo kế toán quản trị chi phí khi lập phải đảm bảo được các yêu cầu sau:

– Các chỉ tiêu trong báo cáo phải có quan hệ chặt chẽ và logic với nhau

– Cung cấp được thông tin theo địa điểm, bộ phận phát sinh chi phí

– Thông tin phải chính xác và có tiêu chí đánh giá để đáp ứng thông tin cho việc ra quyết định quản lý

– Phản ánh được tình hình định mức, dự toán chi phí, giải trình được các nguyên nhân chênh lệch giữa số liệu thực tế với dự toán và định mức để giúp nhà quản trị sử dụng thông tin thực hiện chức năng kiểm soát hoạt động.

Tóm lại, Các doanh nghiệp xây lắp Việt Nam cần phải tăng cường tính cạnh tranh của mình bằng cách sử dụng đồng bộ các giải pháp nhằm tiết kiệm chi phí nhưng phải ngày càng nâng cao chất lượng công trình xây dựng. Sử dụng kế toán là công cụ quản lý là một trong những giải pháp hữu hiệu nhất trong việc quản lý kinh tế của các doanh nghiệp, bởi nó là nhân tố góp phần vào sự tồn tại và phát triển của các doanh nghiệp xây lắp phục vụ quản trị doanh nghiệp xây lắp của Việt Nam.

Tài liệu tham khảo:

– Luật Kế toán số 88/2015/QH 13; Nghị định 174/2016/NĐ-CP

– Thông tư 200/2014, thông tư 133/2016

– Nguyễn Đăng Huy (2018), Giáo trình Kế toán Quản trị, – NXB Kinh tế Quốc dân

– Phạm Văn Dược (2009), Mô hình và cơ chế vận hành kế toán quản trị, NXB Tài chính

– Drury (2016), Management Accouting for Business Decisions, Thomson Learning, United Kingdom

TS Nguyễn Thu Hương – Trường Đại học Trưng Vương