Từ trường và ứng dụng trong chữa bệnh – KhoaHoc.tv
Sinh vật sinh ra, tồn tại và phát triển nhờ vào sự chuyển hóa các chất hay còn gọi là sinh hóa học. Nhưng sự sống của sinh vật liệu có đúng chỉ phụ thuộc vào quá trình sinh hóa học không? Những kinh nghiệm dân gian, những suy nghĩ của các nhà y học tiên phong đã hé mở bức màn bí mật khác.
Điều bí ẩn
Tại sao loài chim di trú có thể bay một quãng đường xa lắc, từ cực Bắc đến cực Nam địa cầu mà không bị lạc trong mênh mông biển trời? Tại sao từ rất xa xưa, các cụ bà chỉ đặt một thanh nam châm dưới chiếu mà có thể làm cho cháu khỏi giật mình khi ngủ? Câu trả lời được tìm ra là: chim không bị lạc nhờ chúng đánh dấu đường bay bằng cảm nhận từ trường trái đất, trẻ yên giấc có thể nhờ tác dụng của từ trường lên não bộ.
Các nhà khoa học đã tìm thấy trong mô não, mô của một số tổ chức khác có các chất từ tính. Từ tính ấy trong cơ thể có thể làm ảnh hưởng đến các đám sắt từ ở gần và ngược lại. Ví dụ: đeo trước trán một chất từ tính thì từ tính này sẽ ảnh hưởng đến từ tính của vùng gần tuyến tùng, một tuyến tiết ra các hormon cần thiết cho cơ thể, trong đó có chất melatonin gây trạng thái an thần.
Tác động của từ trường ảnh hưởng tới sự tăng trưởng tế bào thần kinh.
Không phải bây giờ mới có?
Từ cổ đại, người Do Thái, Ả rập, Trung Hoa, Ai Cập, Hy Lạp… đã từng dùng nam châm chữa bệnh. Cách chữa bệnh này, lúc đó vẫn còn thô sơ và khó hiểu. Đến thế kỷ XV, Paracelus – một người khá am hiểu về các dòng năng lượng trong cơ thể trong đó có năng lượng từ trường đã chỉ ra rằng: “Từ trường có thể tiếp thêm nguồn sinh lực cho người bệnh, thúc đẩy việc lành bệnh”. Chịu ảnh hưởng các công trình nghiên cứu của Paracelus, đến thế kỷ XVIII, Franz Anton Mesmer đã dùng các thỏi nam châm kết hợp với thôi miên chữa khỏi một số bệnh. Tuy nhiên, khi đó những cách chữa bệnh bằng thuốc còn chiếm vị trí độc tôn, cách chữa của Franz Anton Mesmer bị rơi vào quên lãng.
Đến thế kỷ XX (nhất là cuối thế kỷ XX đầu thế kỷ XXI) đã có những thí nghiệm ghi nhận về từ trường của con người, mối quan hệ của từ trường bên ngoài, từ trường bên trong cơ thể và bệnh tật. Không những thế, người ta còn đo được cường độ của các từ trường dù có lúc cường độ đó là cực nhỏ.
Sự tác động của từ trường bên ngoài lên từ trường bên trong cơ thể có thể tạo ra các tác dụng không ngờ: Tăng cường lưu lượng dòng máu, mang thêm chất dinh dưỡng và ôxy đến nuôi dưỡng các tổ chức và mang ra khỏi tổ chức các chất cặn bã. Điều chỉnh dòng calci, từ đó làm ảnh hưởng đến nhiều quá trình sinh lý khác (như quá trình tạo xương, sự tăng giảm huyếp áp). Làm thay đổi tính chất acid hay kiềm của cơ thể và lập lại cân bằng vốn bị rối loạn khi suy yếu. Trực tiếp hay gián tiếp ảnh hưởng đến việc điều tiết các chất hướng sinh học như hormon và qua đó sẽ ảnh hưởng tới các quá trình do các hormon điều chỉnh. Làm thay đổi hoạt tính các enzym và qua đó ảnh hưởng tới các quá trình chuyển hóa do các enzym này xúc tác. Kích thích dòng năng lượng điện từ thông qua các đường kinh, huyệt châm cứu. Những tác động này sẽ giúp chữa hoặc hỗ trợ chữa bệnh.
Cho đến bây giờ việc chữa bệnh bằng từ trường cũng chưa phổ biến bằng thuốc, song nguyên lý khoa học của liệu pháp đã dần dần được xác định, tạo nên niềm tin và sự hấp dẫn. Chỉ tính riêng các nam châm từ chữa bệnh, doanh số bán hàng năm tại Mỹ cũng đã lên tới 2 tỷ USD. Nhưng điều quan trọng hơn doanh số là chính các nhà bảo hiểm đã chấp nhận thanh toán, đồng nghĩa với việc công nhận chúng như các liệu pháp truyền thống khác.
Từ trường có thể chữa được bệnh gì?
Một thống kê ở Mỹ cho biết có 80% dân số bị đau lưng, hơn 40 triệu người đau khớp và hơn 40 triệu người bị đau đầu. Chi phí cho thuốc trị liệu đau mạn tính hàng năm lên tới 100 tỷ USD. Khoản tiền khổng lồ này giải thoát người bệnh khỏi những dày vò, nâng cao chất lượng cuộc sống, nhưng bên cạnh đó cũng mang lại nhiều tác dụng không mong muốn. Thay vì dùng thuốc, ngày nay có thể giảm đau bằng từ trường cũng cho kết quả tương đương và ít tai biến hơn.
Ở những người bị di chứng bại liệt, chức năng tủy sống bị mất, thường có hội chứng đau. Đặt vào các điểm đau các viên nam châm nhỏ có cường độ thấp sẽ giảm được đau. Từ trường sẽ điều chỉnh dòng calci, theo đó, dòng calci sẽ chảy vào màng tế bào thần kinh, ảnh hưởng đến chức năng tế bào. Mặt khác, từ trường cũng tác động đến các hormon, các enzym, qua đó ảnh hưởng tới các yếu tố tái tạo, tăng trưởng tế bào thần kinh. Ứng dụng hiệu năng quý giá này, người ta dùng từ trường tái tạo, phát triển các tế bào thần kinh, hồi phục lại chức năng tủy sống.
Trên động vật, các thử nghiệm từ trường đem lại kết quả không ngờ: kích thích tái tạo lại cả tủy sống, thần kinh ngoại biên và phục hồi chức năng của chúng. Vài nơi trên thế giới đã ứng dụng điều này vào việc phục hồi chức năng cho người bị tổn thương tủy sống và ghi nhận được những cải thiện đáng kể.
Chụp hình ảnh bằng cộng hưởng từ hạt nhân (MRI) là một trong những phương pháp hiện đại giúp ta nhìn thấy rõ hơn các tổn thương não bộ và tủy sống. Dựa vào việc phân tích hình ảnh này, có thể dùng một liệu pháp gọi là ” kích thích từ trường chức năng” giúp làm tăng khả năng tiểu tiện, đại tiện, phòng tránh hiện tượng tắc mạch sâu, tăng cường hô hấp của người bệnh. Điều này góp phần hồi phục cho những người bị tai biến về não bộ, tủy sống.
Cũng như các liệu pháp truyền thống, liệu pháp từ trường cũng có những hạn chế, không phải là liệu pháp toàn năng, chữa được mọi bệnh. Nếu dùng đúng sẽ có lợi, nếu dùng sai (không thích hợp) có thể gây ra các bất thường, thậm chí bệnh tật.
Từ cổ đại, người Do Thái, Ả rập, Trung Hoa, Ai Cập, Hy Lạp… đã từng dùng nam châm chữa bệnh. Cách chữa bệnh này, lúc đó vẫn còn thô sơ và khó hiểu. Đến thế kỷ XV, Paracelus – một người khá am hiểu về các dòng năng lượng trong cơ thể trong đó có năng lượng từ trường đã chỉ ra rằng: “Từ trường có thể tiếp thêm nguồn sinh lực cho người bệnh, thúc đẩy việc lành bệnh”. Chịu ảnh hưởng các công trình nghiên cứu của Paracelus, đến thế kỷ XVIII, Franz Anton Mesmer đã dùng các thỏi nam châm kết hợp với thôi miên chữa khỏi một số bệnh. Tuy nhiên, khi đó những cách chữa bệnh bằng thuốc còn chiếm vị trí độc tôn, cách chữa của Franz Anton Mesmer bị rơi vào quên lãng.Đến thế kỷ XX (nhất là cuối thế kỷ XX đầu thế kỷ XXI) đã có những thí nghiệm ghi nhận về từ trường của con người, mối quan hệ của từ trường bên ngoài, từ trường bên trong cơ thể và bệnh tật. Không những thế, người ta còn đo được cường độ của các từ trường dù có lúc cường độ đó là cực nhỏ.Sự tác động của từ trường bên ngoài lên từ trường bên trong cơ thể có thể tạo ra các tác dụng không ngờ: Tăng cường lưu lượng dòng máu, mang thêm chất dinh dưỡng và ôxy đến nuôi dưỡng các tổ chức và mang ra khỏi tổ chức các chất cặn bã. Điều chỉnh dòng calci, từ đó làm ảnh hưởng đến nhiều quá trình sinh lý khác (như quá trình tạo xương, sự tăng giảm huyếp áp). Làm thay đổi tính chất acid hay kiềm của cơ thể và lập lại cân bằng vốn bị rối loạn khi suy yếu. Trực tiếp hay gián tiếp ảnh hưởng đến việc điều tiết các chất hướng sinh học như hormon và qua đó sẽ ảnh hưởng tới các quá trình do các hormon điều chỉnh. Làm thay đổi hoạt tính các enzym và qua đó ảnh hưởng tới các quá trình chuyển hóa do các enzym này xúc tác. Kích thích dòng năng lượng điện từ thông qua các đường kinh, huyệt châm cứu. Những tác động này sẽ giúp chữa hoặc hỗ trợ chữa bệnh.Cho đến bây giờ việc chữa bệnh bằng từ trường cũng chưa phổ biến bằng thuốc, song nguyên lý khoa học của liệu pháp đã dần dần được xác định, tạo nên niềm tin và sự hấp dẫn. Chỉ tính riêng các nam châm từ chữa bệnh, doanh số bán hàng năm tại Mỹ cũng đã lên tới 2 tỷ USD. Nhưng điều quan trọng hơn doanh số là chính các nhà bảo hiểm đã chấp nhận thanh toán, đồng nghĩa với việc công nhận chúng như các liệu pháp truyền thống khác.Một thống kê ở Mỹ cho biết có 80% dân số bị đau lưng, hơn 40 triệu người đau khớp và hơn 40 triệu người bị đau đầu. Chi phí cho thuốc trị liệu đau mạn tính hàng năm lên tới 100 tỷ USD. Khoản tiền khổng lồ này giải thoát người bệnh khỏi những dày vò, nâng cao chất lượng cuộc sống, nhưng bên cạnh đó cũng mang lại nhiều tác dụng không mong muốn. Thay vì dùng thuốc, ngày nay có thể giảm đau bằng từ trường cũng cho kết quả tương đương và ít tai biến hơn.Ở những người bị di chứng bại liệt, chức năng tủy sống bị mất, thường có hội chứng đau. Đặt vào các điểm đau các viên nam châm nhỏ có cường độ thấp sẽ giảm được đau. Từ trường sẽ điều chỉnh dòng calci, theo đó, dòng calci sẽ chảy vào màng tế bào thần kinh, ảnh hưởng đến chức năng tế bào. Mặt khác, từ trường cũng tác động đến các hormon, các enzym, qua đó ảnh hưởng tới các yếu tố tái tạo, tăng trưởng tế bào thần kinh. Ứng dụng hiệu năng quý giá này, người ta dùng từ trường tái tạo, phát triển các tế bào thần kinh, hồi phục lại chức năng tủy sống.Trên động vật, các thử nghiệm từ trường đem lại kết quả không ngờ: kích thích tái tạo lại cả tủy sống, thần kinh ngoại biên và phục hồi chức năng của chúng. Vài nơi trên thế giới đã ứng dụng điều này vào việc phục hồi chức năng cho người bị tổn thương tủy sống và ghi nhận được những cải thiện đáng kể.Chụp hình ảnh bằng cộng hưởng từ hạt nhân (MRI) là một trong những phương pháp hiện đại giúp ta nhìn thấy rõ hơn các tổn thương não bộ và tủy sống. Dựa vào việc phân tích hình ảnh này, có thể dùng một liệu pháp gọi là ” kích thích từ trường chức năng” giúp làm tăng khả năng tiểu tiện, đại tiện, phòng tránh hiện tượng tắc mạch sâu, tăng cường hô hấp của người bệnh. Điều này góp phần hồi phục cho những người bị tai biến về não bộ, tủy sống.Cũng như các liệu pháp truyền thống, liệu pháp từ trường cũng có những hạn chế, không phải là liệu pháp toàn năng, chữa được mọi bệnh. Nếu dùng đúng sẽ có lợi, nếu dùng sai (không thích hợp) có thể gây ra các bất thường, thậm chí bệnh tật.