Truyện Kiều Qua Cái Nhìn Phật Học – Luận Văn Tốt Nghiệp
TRUYỆN KIỀU QUA CÁI NHÌN
PHẬT HỌC
Luận văn tốt nghiệp
Thích Đồng Trực
A.
DẪN NHẬP
.
“Đoạn
trường tân thanh” hay chúng ta quen gọi là truyện Kiều,
là tác phẩm đã đưa tên tuổi Nguyễn Du lên hàng đại văn
hào thế giới. Giá trị về tư tưởng, nghệ thuật của “Đoạn
trường tân thanh” là điều khơng cĩ gì phải bàn cãi. Bao
nhiêu những khảo luận, phê bình, nghiên cứu của rất nhiều
học giả uyên bác, thuộc hàng đại thụ trong nền văn học
nghệ thuật Việt Nam suốt gần hai thế kỷ qua đã phần nào
chứng minh điều đĩ.
Từ
một câu chuyện cĩ xuất xứ ở Trung Quốc, nội dung cốt
truyện cũng rất bình thường. Vậy mà qua tâm hồn mẫn cảm
dào dạt yêu thương, cảm thơng và đồng điệu; dưới ngịi
bút tài hoa của nhà thơ núi Hồng Lĩnh; “Đoạn trường tân
thanh” trở nên một áng văn chương tuyệt tác lung linh; một
hạt ngọc quý đã được trau chuốt dũa mài trong kho tàng
văn học cổ điển của dân tộc.
Cĩ
thể mạnh dạn khẳng định rằng: chưa cĩ một tác phẩm văn học nào xưa nay lại được giới nghiên cứu văn học quan tâm biên khảo, bình luận nhiều như truyện Kiều của
Nguyễn tiên sinh. Điều đĩ nĩi lên vị trí đặc biệt của
tác phẩm này trong kho tàng văn học cổ điển Việt Nam. Qua
nhiều chặng đường lịch sử với nhiều hệ tư tưởng khác
nhau nên sự nhìn nhận, tiếp cận cĩ khác nhau, nhưng ý thức
về di sản Nguyễn Du mà đặc biệt là truyện Kiều luơn phát
triển cùng với tư tưởng xã hội và tư tưởng văn học
của dân tộc.
Kim
Vân Kiều truyện cĩ nguồn gốc từ Trung Quốc; Nguyễn Du là
một nhà Nho. Thế nên chẳng cĩ gì lạ khi tư tưởng của
truyện Kiều đặt nền tảng trên hệ tư tưởng Khổng giáo,
mà cụ thể là thuyết “mệnh Trời”, là “hồng nhan bạc
phận”, là “tài mệnh tương đố”v.v… Thế nhưng, trên
cái nền tảng chung đĩ, nội dung truyện Kiều cịn thể hiện
rõ nét tư tưởng Tam giáo đồng nguyên: Nho, Phật, Lão; một
chủ trương rất sáng suốt và hịa bình của cha ơng ta trong
quá trình tiếp thu, chắc lọc tinh hoa văn hĩa của phương
Bắc.
Nguyễn
Du khơng chỉ là một nhà Nho uyên thâm mà cịn là người am
hiểu Phật học một cách sâu sắc. Chúng ta biết điều này
thể hiện qua một số bài thơ chữ Hán của ơng, tiêu biểu
như các bài: “Lương Chiêu Minh Thái tử phân Kinh thạch đài”
(Bắc hành tạp lục), “Đề Nhị Thanh động” (Thanh Hiên
thi tập)… thế nên chúng ta rất dễ nhận thấy tư tưởng đạo Phật bàng bạc suốt nội dung truyện Kiều dưới ngòi
bút tài tình của Tố Như tử. Tất nhiên, tư tưởng Phật
học trong truyện Kiều không hẳn là tư tưởng chủ đạo.
Nói khác hơn, chúng ta không thể đối chiếu một vài đoạn,
vài câu thơ trong truyện Kiều với vài nguyên lý trong kinh
Phật rồi vội vã kết luận truyện Kiều mang tư tưởng Phật
học. Nhà nghiên cứu Cao Huy Đỉnh có nhận xét về triết
lý đạo Phật trong truyện Kiều như sau: “…Triết lý Phật
giáo không còn giữ nguyên hình thức thuần ý niệm nữa. Nó
không phải chỉ ẩn dưới những câu thơ thuyết lý. Nó thấm
đẫm vào hình tượng nhân vật, bố cục và biện pháp nghệ
thuật.” [3, 551] và theo thiển ý người viết, đó là một
nhận xét xác đáng.
Có
lẽ vì thế mà xưa nay, rất nhiều học giả, nhà nghiên cứu
đã khảo cứu, phê bình, giảng giải truyện Kiều trên nhiều
phương diện: nội dung, tư tưởng, nghệ thuật… nhưng tìm
hiểu để có một cái nhìn thật thấu đáo về triết lý
Phật giáo trong truyện Kiều thì rất hiếm, có chăng cũng
còn rất sơ sài. Mặc dù ẩn dưới những câu thơ tuyệt tác
văn phong của Tiên Điền tiên sinh là những triết lý mang
tư tưởng Phật giáo sâu sắc và thấm đẫm tính nhân văn.
Đó là một chữ Hiếu bao trùm đạo làm con; là giáo lý nhân
quả, nghiệp báo chi phối cuộc đời mỗi một con người;
là một chữ Tâm chủ thể cho mọi hành động… Chưa hết,
ý nghĩa hai chữ Vô thường hiện ra rất rõ ràng xuyên suốt
nội dung truyện Kiều: cuộc đời chợt rủi, chợt may; sự
đoàn tụ và chia ly liên tục ngoài ý muốn; hạnh phúc ngắn
ngủi và khổ đau bất ngờ của nàng Kiều chỉ trong một
quãng đời ngắn ngủi mười lăm năm lưu lạc há chẳng phải
là bài học Vô thường, tang thương biến đổi đầy cảnh
tỉnh đó sao? Đâu cứ phải “y kinh giải nghĩa” mới là
Phật học! Tiên Điền tiên sinh đã thâm hiểu và cảm nhận
đạo Phật trầm diệu và uyên bác để triết lý đạo Phật
dưới ngòi bút tài hoa sáng tạo của ông trở nên dòng tư
tưởng Việt Nam tuôn chảy và sống động mãi đến hôm nay.
Với
suy nghĩ ấy, người viết chọn Đề tài: “TRUYỆN KIỀU QUA
CÁI NHÌN PHẬT HỌC” để làm Luận văn Tốt nghiệp Học
Viện Phật Giáo Việt Nam tại Thành phố Hồ Chí Minh, khóa
V. Trong suy nghĩ của người viết, đề tài này cần thiết
và rất có ý nghĩa. Bởi lẽ, lịch sử sang trang, những giá
trị luân lý, những chủ thuyết của Nho gia, Lão gia đã thoái
trào không còn phù hợp với thời đại, trong khi đó những
tư tưởng, triết lý của Phật giáo vẫn đứng vững và tỏ
ra cần thiết hơn bao giờ hết cho con người, cho xã hội.
Phật giáo chưa bao giờ áp đặt tư tưởng mình vào xã hội
nhưng những giá trị của đạo Phật luôn hữu dụng cho đời
sống tâm linh con người và đạo đức làm người trong bất
cứ thời đại nào. Như thế, mục đích khiêm tốn của người
viết qua luận văn này là hy vọng làm sáng tỏ thêm phần
nào một giá trị tư tưởng trong tác phẩm văn học đặc
sắc này của Nguyễn tiên sinh, một giá trị vốn còn rất
mai một dưới mắt các nhà “Kiều học” xưa nay.
Cho
đến nay, vấn đề văn bản học của truyện Kiều vẫn còn
nhiều điều chưa thống nhất của các nhà nghiên cứu văn
bản học, đơn giản vì bản gốc “Đoạn trường tân thanh”
của Nguyễn tiên sinh viết ra không còn nữa. Riêng về chữ
quốc ngữ, hiện đã có không dưới mười bản truyện Kiều
với nhiều tên gọi khác nhau và nhiều dị biệt đang lưu
hành. Tất nhiên điều đó không phải là vấn đề trong phạm
vi luận văn đề cập. Thực hiện đề tài này, người viết
chọn bản “Truyện Kiều” do nhà nghiên cứu Nguyễn Quảng
Tuân hiệu đính và chú giải, Nhà xuất bản Văn học và Trung
tâm Nghiên cứu Quốc học xuất bản năm 1996 làm cơ sở y
cứ để khảo sát.
Qua
luận văn này, người viết tập trung tìm hiểu một số vấn
đề liên quan đến tư tưởng Phật học bao gồm:
– Phân
tích chữ Hiếu trong truyện Kiều dưới cái nhìn Phật học.
–
Tìm hiểu về thuyết Nhân quả, Nghiệp báo của đạo Phật thể hiện trong truyện Kiều.
–
Một số tư tưởng Phật học khác trong truyện Kiều:
+
Thuyết Vô thường trong truyện Kiều.
+
Khái niệm “Khổ Đế” của Giáo lý “Tứ Đế” biểu
hiện trong truyện Kiều.
+
Chữ TÂM trong truyện Kiều.
Về
phương pháp nghiên cứu, người viết căn cứ vào bản văn
truyện Kiều, tìm hiểu, phân tích và chứng minh các vấn đề
nêu trên. Đây là cách làm không mới và người viết cũng
chỉ dừng lại ở phạm vi tổng quát nhất của vấn đề,
bởi trước hết là phạm vi giới hạn nhất định của một
Luận văn tốt nghiệp và điều quan trọng hơn là khả năng
của người viết còn rất nhiều hạn chế ở nhiều mặt;
trong khi đề tài lại cần phải có một tư duy bao quát và
nhạy bén cùng khả năng cảm thụ văn học sâu sắc.
Tập
Luận văn này ra đời đánh dấu một sự trưởng thành của
người viết sau bốn năm học tập dưới mái trường Học
Viện. Tuy còn nhiều thiếu sót nhưng đó là kết quả bước
đầu tập sự nghiên cứu. Hoàn thành Luận văn này, người
viết xin bày tỏ lòng tri ân sâu sắc đến Hội đồng Điều
hành Học Viện, các vị thân Giáo sư đã tận tình giảng
dạy, trao truyền kiến thức để người viết được như
ngày hôm nay. Đặc biệt là Giáo sư hướng dẫn đề tài đã
động viên, khích lệ và tận tâm hướng dẫn người viết
hoàn thành công việc khó khăn này. Sau cùng người viết xin
chân thành cảm ơn tất cả các tác giả của những tài liệu
được người viết tham khảo, trích dẫn để có thể hoàn
thành luận văn này.
B.
NỘI DUNG.
CHƯƠNG
1: VÀI NÉT VỀ TÁC GIẢ, TÁC PHẨM.
1.1-
BỐI CẢNH LỊCH SỬ THỜI ĐẠI NGUYỄN DU.
Nguyễn
Du sinh ra và lớn lên trong một giai đoạn lịch sử vô cùng rối ren và phức tạp. Đất nước chia đôi, các thế lực phong kiến cầm quyền bị phân hóa, không còn đủ sức ổn
định tình hình và lãnh đạo đất nước. Ở Đàng Ngoài,
vua Lê chỉ tại vị một cách bù nhìn, quyền hành tập trung
trong tay chúa Trịnh. Nhưng chúa Trịnh cũng không còn đủ sức kiểm soát, làm chủ tình hình được nữa. Sự tha hóa về
đạo đức, ăn chơi sa đọa của chúa Trịnh đã vắt kiệt
sức dân, dẫn đến các cuộc khởi nghĩa chống đối của
nhân dân nổi lên khắp nơi cùng với các cuộc chiến tranh
liên miên giữa hai nhà chúa đã đưa đất nước vào chỗ
suy sụp về mọi mặt, không thể cứu vãn.
Năm
1782, chúa Trịnh là Trịnh Sâm mất. Sinh thời, Trịnh Sâm sủng
ái thứ phi Đặng Thị Huệ, nên di chúc lại bỏ con trưởng
là Trịnh Khải, lập con thứ Trịnh Cán là con của thứ phi
Đặng Thị Huệ nối ngôi. Trịnh Khải âm mưu giành lại ngôi
Chúa đã dẫn đến nạn kiêu binh làm loạn, làm cho tình hình
Đàng Ngoài càng thêm rối ren.
Ở
Đàng Trong, nội tình chúa Nguyễn cũng không có gì sáng sủa
hơn. Cuộc khởi nghĩa Tây Sơn của ba anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn
Huệ và Nguyễn Lữ nổ ra năm 1771 ở Bình Định liên tiếp
thu được thắng lợi làm cho triều đình chúa Nguyễn càng
thêm suy yếu. Nhân cơ hội chúa Nguyễn và Tây Sơn đánh nhau,
chúa Trịnh xua quân nam tiến, đánh vào mặt bắc của chúa
Nguyễn và nhanh chóng chiếm được Phú Xuân, vượt đèo Hải
Vân. Chúa Nguyễn phải trốn chạy vào Gia Định và sau đó
bị quân Tây Sơn bắt được, tất cả đều bị giết, duy
chỉ có Nguyễn Ánh chạy thoát. Chỉ trong vòng mười tám năm
(1771 – 1789) kể từ ngày khởi binh, đoàn quân Tây Sơn dũng
mãnh do Nguyễn Huệ chỉ huy đã lập được những chiến công
vang dội: phía nam diệt quân Xiêm, phía bắc đánh bại quân
Mãn Thanh, tiêu diệt hai tập đoàn phong kiến Trịnh Nguyễn,
lật đổ vua Lê, lập nên vương triều Tây Sơn, thống nhất
đất nước sau hơn hai trăm năm chia cắt.
Thế
nhưng vương triều Tây Sơn cũng không trụ vững được lâu.
Sau khi vua Quang Trung mất (1792), chế độ Tây Sơn lại dẫm
chân vào lối mòn các triều đại phong kiến trước kia, đó
là tình trạng sống xa hoa, mâu thuẫn về quyền lợi giữa
tập đoàn Tây Sơn phía bắc với Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ
ở phía nam và tình trạng chia bè kéo cánh với nhau ngay trong
nội bộ triều đình do Quang Toản nối ngôi nắm giữ.
Trong
nam, chúa Nguyễn Ánh trở lại Gia Định tập hợp lực lượng
và dựa vào sự giúp đỡ của người Pháp để phản công
lại Tây Sơn. Chúa Nguyễn dùng đất Gia Định làm căn cứ
để từ đó liên tiếp đánh chiếm đất đai nhà Tây Sơn
mà triều đình Nguyễn Nhạc, Nguyễn Lữ đành bất lực. Chúa
Nguyễn lần lượt phản công và đến năm 1802 thì đánh ra
đến Bắc Hà, chấm dứt vương triều Tây Sơn ngắn ngủi
như chính tuổi thọ của vị vua Quang Trung, người anh hùng
đã khai sinh ra nó.
Chưa
bao giờ người dân Việt Nam sống trong một thời đại với
quá nhiều biến cố liên tiếp nhau như thế. Những biến cố
xảy ra quá nhanh và dồn dập như nhận định của Nguyễn
Tài Thư: “…kiêu binh nổi loạn trong phủ chúa Trịnh. Tây
Sơn diệt Nguyễn ở Đàng Trong và Trịnh ở Đàng Ngoài. Quân
Thanh xâm lược. Quân Thanh đại bại. Quang Trung băng hà, Nguyễn
Tây Sơn lung lay. Nguyễn Ánh diệt Tây Sơn… nhũng biến cố
ấy diễn ra nhanh chóng đến mức người đương thời chưa
kịp tìm ra nguyên nhân của cái trước thì cái sau đã diễn
ra…” [11, 355]
Chỉ
trong vòng chưa đầy ba mươi năm mà mấy lần chuyển giao triều
đại, mấy lần thay thời đổi thế. Đời sống và tính mạng con người trở nên mong manh hơn bao giờ hết bởi chiến tranh
loạn lạc liên miên, không ai kịp để định hướng cuộc
đời mình. Nhà thơ núi Hồng Lĩnh sinh ra và trưởng thành
trong một giai đoạn lịch sử thăng trầm như thế.
1.2. THÂN THẾ VÀ SỰ NGHIỆP NGUYỄN DU.
Nguyễn
Du tự là Tố Như, hiệu Thanh Hiên, còn có biệt hiệu là Hồng
Sơn Liệp Hộ. Ông sinh ngày 23 tháng 11 năm Ất dậu (1765),
nhằm niên hiệu Cảnh Hưng đời vua Lê Hiển Tông, tại kinh
thành Thăng Long, trong một gia đình đại quý tộc có thế
lực bậc nhất thời bấy giờ.
Nguyễn
Du vốn quê gốc ở làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh
Hà Tĩnh. Dòng họ Nguyễn của ông là một dòng họ lớn có
rất nhiều người làm quan dưới triều Lê-Trịnh. Thân phụ
ông là Nguyễn Nghiễm, làm quan đến chức Tể tướng đương
triều. Mẹ ông là bà Trần Thị Tấn, vợ thứ ba của Nguyễn
Nghiễm, người xã Hoa Thiều, huyện Đông Ngân xứ Kinh Bắc,
Bắc Ninh.
Dòng
họ Nguyễn của Nguyễn Du không chỉ thành đạt về đường
hoạn lộ mà còn rất có truyền thống về văn học. Cha ông
còn là một sử gia, một nhà thơ. Anh cả Nguyễn Du là Nguyễn
Khản cũng rất giỏi thơ Nôm, từng làm thơ đối đáp với
chúa Trịnh Sâm. Một người anh khác mẹ của Nguyễn Du là
Nguyễn Đề, cháu ông là Nguyễn Thiện, Nguyễn Hành đều
là những nhà thơ, nhà văn nổi tiếng cả. Sống trong một
huyết thống và môi trường như thế nên năng khiếu văn học
của Nguyễn Du có điều kiện nảy nở và phát triển rất
sớm.
Tuổi
thơ của nhà thơ trải qua những tháng ngày êm ấm trong cảnh
vàng son nhung lụa, là cậu ấm của một ông quan lớn đương
triều. Nhưng cuộc sống ấy kéo dài không được bao lâu,
những biến cố dữ dội của thời đại và của gia đình
đã nhanh chóng đẩy nhà thơ ra giữa cuộc đời đầy bão
táp.
Nguyễn
Du lên mười tuổi thì thân phụ là Nguyễn Nghiễm mất. Hai
năm sau ông lại mồ côi mẹ. Bốn anh em cùng mẹ với nhà
thơ chưa ai trưởng thành. Gia đình bên ngoại không phải là
nơi quyền quý giàu sang có thể nương náu được nên mấy
anh em Nguyễn Du phải đến ở với người anh cả cùng cha
khác mẹ là Nguyễn Khản, bấy giờ đang làm Tả thị lang
Bộ Hình kiêm chức Hiệp trấn xứ Sơn Tây. Nhưng chỉ vài
năm sau, địa vị của Nguyễn Khản cũng lao đao, nghiêng ngửa.
Năm 1780, Đặng Thị Huệ, thứ phi của Trịnh Sâm, cùng Hoàng
Đình Bảo lập mưu giành ngôi Thế tử của Trịnh Khải cho
con mình là Trịnh Cán. Nguyễn Khản ủng hộ Trịnh Khải.
Việc bại lộ, Nguyễn Khản bị cách chức và bắt giam. Đến
khi Trịnh Khải lên ngôi chúa, Nguyễn Khản được phục chức
làm Lại bộ Thượng thư rồi thăng Tham Tụng. Đến khi loạn
kiêu binh nổi lên đã kéo đến phá nhà, toan giết chết ông.
Nguyễn Khản phải trốn vào phủ chúa rồi cải trang chạy
lên Sơn Tây sau đó về quê nhà ở Hà Tĩnh. Trong thời gian
đầy biến động này, Nguyễn Du còn ít tuổi vẫn tiếp tục
đi học. Năm 1783, Nguyễn Du 18 tuổi, đi thi Hương ở Sơn Nam
và đậu tam trường. Sau đó, có lẽ do hoàn cảnh gia đình
và biến động xã hội nên ông bỏ luôn không đi thi nữa.
Trước
đó có một người họ Hà, làm quan dưới quyền Nguyễn Nghiễm,
giữ chức Chánh thủ hiệu Hùng hậu quân ở Thái Nguyên, vì
không có con trai nên nhận Nguyễn Du làm con nuôi. Sau khi người
họ Hà mất, ông được kế chân giữ chức ấy. Năm 1789,
vua Quang Trung kéo quân ra Bắc đánh tan hai mươi vạn quân Thanh,
Nguyễn Du và hai người anh em cùng mẹ theo vua Lê Chiêu Thống
chạy sang Tàu nhưng không kịp. Nguyễn Du trở về quê vợ
ở xã Hải An, huyện Quỳnh Côi, tỉnh Sơn Nam (Thái Bình),
sống nhờ nhà người anh vợ là Đoàn Nguyễn Tuấn, bấy giờ
đang làm quan cho nhà Tây Sơn. Nhà thơ sống ở đây được
mấy năm thì về quê nhà ở Hà Tĩnh.
Năm
1796, Nguyễn Du lên đường vào Gia Định theo Nguyễn Ánh, nhưng
chưa đi khỏi địa phận Nghệ An, nhà thơ đã bị viên Trấn
tướng của Tây Sơn là Quận công Nguyễn Thận bắt giữ.
Nguyễn Du bị giam ba tháng. Sau vì Nguyễn Thận là bạn của
Nguyễn Đề, lại mến phục tài năng của nhà thơ nên tha
cho ông. Từ đấy, Nguyễn Du về ở hẳn Tiên Điền suốt
mười năm sau đó.
Mười
năm gió bụi và những năm tháng tại quê nhà dưới chân núi
Hồng Lĩnh là thời gian nhà thơ có dịp gần gũi, hiểu biết,
cảm thông và đồng điệu với đời sống của quần chúng nhân dân lao động; nhà thơ có cơ hội tiếp cận những giá
trị văn học dân gian, nơi khơi nguồn cho những giá trị tinh
thần vô giá của dân tộc. Có thể nói, thiên tài lỗi lạc
Nguyễn Du; những vần thơ lung linh châu ngọc, bất diệt với
thời gian của nhà thơ xứ Tiên Điền đã được ấp ủ,
nảy nở trong những năm tháng buồn vui tâm sự của nhà thơ
tại quê nhà này.
Tháng
8 năm 1802, Nguyễn Du được triều đình vua Gia Long bổ làm
tri huyện Phù Dung (nay là tỉnh Hưng Yên). Vậy là nhà thơ
xứ Tiên Điền chính thức đi vào đường hoạn lộ. Tháng
11 năm ấy, thăng Tri phủ Thường Tín (Hà Tây). Năm sau, ông
được cử lên Nam Quan tiếp sứ thần nhà Thanh. Năm 1805, Nguyễn
Du được thăng Đông các Điện học sĩ, tước Du Đức hầu.
Năm 1807, được cử làm Giám khảo trường thi Hương ở Hải
Dương. Năm 1809, được bổ làm Cai bạ dinh Quảng Bình, đây
là chức vụ nhà thơ giữ lâu nhất trong thời gian làm quan
dưới triều Nguyễn.
Năm
1813, Nguyễn Du thăng Cần chánh Điện học sĩ và được cử
cầm đầu phái bộ đi sứ Trung Quốc. Sau khi về nước, năm
1815 ông được thăng Hữu Tham tri Bộ Lễ. Năm 1820, vua Minh
Mạng lên ngôi, định cử ông làm Chánh Sứ đi Trung Quốc
lần nữa để cầu phong nhưng chưa kịp đi thì ngày 10 tháng
8 năm Canh Thìn, tức ngày 16 tháng 9 năm 1820, Nguyễn Du mất
đột ngột trong một nạn dịch làm chết hàng vạn người
trong năm ấy.
Nguyễn
Du mất ở kinh thành Phú Xuân, an táng tại xã An Ninh, huyện
Quảng Điền, Thừa Thiên, bốn năm sau cải táng về làng Tiên
Điền, quê hương của nhà thơ. Sau khi Nguyễn Du qua đời,
nhiều người thương tiếc, đã phúng điếu ông bằng những
câu đối ca ngợi ông hết lời, trong đó tiêu biểu nhất
phải kể đến câu:
Nhất
đại tài hoa, vi sứ vi khanh sinh bất thiểm
Bách
niên sự nghiệp, tại gia tại quốc tử do vinh.
Tạm
dịch:
Một
kiếp tài hoa, làm sứ làm quan sinh chẳng thẹn
Trăm
năm sự nghiệp, ở nhà ở nước chết còn vinh.
Cuộc
đời làm quan của Nguyễn Du dưới triều Nguyễn không có
trở ngại, biến động gì đáng kể. Trong suốt gần hai mươi
năm ấy, nhà thơ có xin về trí sĩ bốn lần nhưng lần dài
nhất cũng chỉ sáu tháng, sau đó lại ra làm việc lại. Nguyễn
Du được thăng chức rất nhanh, có lúc được giữ những
chức vụ tương đối quan trọng trong triều đình. Thế nhưng,
nhà thơ không lấy đó làm vui mà luôn có những tâm sự u
uẩn. Những tâm sự đó dược Nguyễn Du gửi gắm vào thi
ca, đặc biệt là nhân vật Thúy Kiều trong tác phẩm “Đoạn
trường tân thanh” của ông.
Xuất
thân từ một gia đình danh gia vọng tộc, làm quan với những
chức vụ cao và trọng trách ở triều đình, thế nhưng hậu
thế hoài niệm, ngưỡng vọng về Nguyễn Du không phải ở
những điều ấy. Tất cả đã qua đi, đã trở thành dĩ vãng
trong cuộc biến động trường thiên của lẽ vô thường.
Sự nghiệp lớn nhất, có ý nghĩa nhất nhà thơ núi Hồng
Lĩnh để lại cho đời đó là sự nghiệp văn chương của
ông.
Là
môn sinh từ “cửa Khổng sân Trình” lại sống trong thời
đại Hán học cực thịnh, những sáng tác của Nguyễn Du bằng
chữ Hán là chính và đó cũng là “phát ngôn chính thức”
của nhà thơ, như nhiều nhà nghiên cứu về Nguyễn Du nhận
xét. Cho đến nay, các nhà nghiên cứu đã sưu tập được
(chưa đầy đủ) thì thơ chữ Hán của Nguyễn Du gồm có ba
tập: “Thanh Hiên thi tập” gồm 78 bài, sáng tác trong những
năm từ 1786 đến 1803; “Nam trung tạp ngâm” 40 bài, sáng
tác trong giai đoạn nhà thơ thăng Đông các Điện học sĩ,
làm quan ở kinh đô và tập thứ ba là “Bắc hành tạp lục”
bao gồm 131 bài thơ Nguyễn Du làm trong chuyến đi sứ sang Trung
Quốc (1813 – 1814).
Ngoài
thơ chữ Hán, Nguyễn Du còn có biệt tài về thơ Nôm, mà đỉnh
cao thể hiện biệt tài ấy là tác phẩm “Đoạn trường
tân thanh” hay còn gọi là truyện Kiều. Với truyện Kiều,
ngôn ngữ của dân tộc ta đã được nâng lên một tầm cao
mới với sự súc tích, đẹp đến không ngờ! Truyện Kiều
đi vào lòng nhân dân ta, từ bác học đến bình dân trước
tiên là nhờ ở tài sử dụng, biểu đạt ngôn ngữ ấy của
nhà thơ và trở thành linh hồn văn học Việt Nam. Ngoài áng
văn chương tuyệt tác truyện Kiều, Nguyễn Du còn những sáng
tác chữ bằng chữ Nôm khác cũng rất nổi tiếng như: “Văn
tế thập loại cô hồn”, “Văn tế sống hai cô gái Trường
Lưu”, “Thác lời trai phường nón”…
Về
số lượng, sáng tác của Nguyễn Du chưa hẳn thật đồ sộ
nhưng giá trị những tác phẩm nhà thơ để lại cho đời
thì thật vô giá. Ẩn chứa trong từng câu chữ của thơ ông
là cả một tâm hồn dạt dào mẫn cảm yêu thương, nhân hậu.
Tinh thần nhân bản, thái độ bao dung, cảm thông và đồng
điệu là chìa khóa để thi ca Nguyễn Du đi vào lòng người
và đọng lại với những cảm nhận ở nhiều mức độ khác
nhau vậy.
1.3
– NỘI DUNG TRUYỆN KIỀU.
Truyện
Kiều được Nguyễn Du phóng tác từ tác phẩm “Kim Vân Kiều
truyện” của Thanh Tâm Tài Nhân, một tác giả sống khoảng
cuối đời Minh, đầu đời Thanh – Trung Quốc. Câu chuyện
kể về cuộc đời tài hoa bạc mệnh, truân chuyên lưu lạc
của người con gái họ Vương tên Thúy Kiều.
Gia
đình Vương viên ngoại có ba người con: Thúy Kiều, Thúy Vân,
và con trai út là Vương Quan. Thúy Kiều là một cô gái tài
sắc vẹn toàn. Không chỉ đẹp người, Thúy Kiều còn rất
đa tài: biết làm thơ, đặc biệt là chơi đàn rất hay. Nàng
còn là một cô gái có tâm hồn rất đa cảm và đó là dấu
hiệu cho cuộc đời đoạn trường, truân chuyên của nàng
sau này.
Nhân
tiết Thanh minh, ba chị em cùng mọi người đi trẩy hội. Trên
đường về, họ gặp một ngôi mồ hoang, hương tàn khói lạnh
ngay trong ngày tảo mộ lễ Thanh minh. Vốn đa cảm, trong khi
Thúy Vân và Vương Quan vẫn vô tình, bình thản thì Thúy Kiều
lại quan tâm đến ngôi mộ. Theo Vương Quan dẫn giải thì
đó là ngôi mộ của một cô gái ca nhi tên là Đạm Tiên,
xinh đẹp, tài hoa nhưng yểu mệnh; từng nổi danh nhưng giờ
thì lạnh lẽo mồ hoang như thế! Thúy Kiều nghe xong đầy
lòng trắc ẩn và bổng dưng liên tưởng đến mình. Kiều
đốt hương khấn vái Đạm Tiên, khóc than thương cảm và
đề thơ nơi gốc cây như một người đồng điệu và Đạm
Tiên đã hiển linh ngay tức khắc, một điềm báo trước cho
thân phận của Kiều sau này.
Cũng
trong chuyến đi chơi này, Kiều gặp Kim Trọng. Kim Trọng là
một thư sinh, bạn học với Vương Quan. Sự gặp gỡ tình
cờ này đã bắt đầu cho một mối tình sắt son, vượt ra
ngoài lễ giáo phong kiến đương thời của Kim Trọng, Thúy
Kiều.
Sau
lần hội ngộ “giải cấu tương phùng” ấy, Kim Trọng đã
thầm thương trộm nhớ và tương tư Kiều. Chàng dọn đến
thuê nhà ở gần nhà Vương viên ngoại để mong được gặp
gỡ Thúy Kiều. Nhân dịp cả nhà họ Vương đi dự sinh nhật
bên ngoại, Kiều và Kim Trọng đã gặp nhau, trao nhau kỷ vật
làm tin, cùng nhau thề non hẹn biển. Mối tình Kim Trọng, Thúy
Kiều vừa bắt đầu cũng là lúc Kim Trọng nhận được hung
tin, phải trở về quê nhà ở Liêu Dương để thọ tang chú.
Kim Trọng đâu biết rằng lần hội ngộ đầu tiên cũng là
lần chia xa suốt mười lăm năm lưu lạc của Thúy Kiều.
Tai
họa bất ngờ ập đến gia đình Thúy Kiều khi Kim Trọng vừa
ra đi. Vương viên ngoại và Vương Quan bị bắt vì có người
vu oan về tội giết người. Tai họa bất ngờ quá, chỉ còn
cách phải có thật nhiều tiền lo lót cho bọn quan lại mới
có thể qua khỏi. Trước tình cảnh đó, Thúy Kiều đã quyết
định bán mình để lấy tiền chuộc cha và em.
Mã
Giám Sinh, tay chân của Tú bà ở Lâm Tri hay tin đã đến mua
Kiều về lầu xanh làm gái làng chơi. Với danh nghĩa cưới
Kiều làm vợ lẽ, Mã Giám Sinh đã bỏ ra 400 lượng vàng và
thành thân với Kiều. Kiều được đưa về lầu xanh ở Lâm
Tri để tiếp khách. Khi hay tin Kiều đã thất thân với Mã
Giám Sinh, mụ Tú bà đã nổi cơn lôi đình, hành hung Thúy
Kiều. Do đã dự liệu trước, Kiều rút dao trong người ra
tự vẫn nhưng không chết.
Biết
không thể ép buộc được Kiều, Tú bà một mặt dỗ dành
Kiều, cho nàng ở một mình nơi lầu Ngưng Bích; một mặt
sắp đặt cho Sở Khanh, một tay ăn chơi đểu giả lập mưu
lừa Kiều, dụ nàng trốn đi. Ngây thơ tin người, nàng nghe
lời đường mật, trốn đi theo Sở Khanh và bị Tú bà theo
bắt lại. Thúy Kiều trở thành gái lầu xanh từ đó.
Ở
với Tú bà một thời gian, nàng gặp Thúc Sinh. Thúc Sinh vốn
quê Vô Tích, đã có vợ là Hoạn Thư ở quê nhà nhưng theo
cha lên buôn bán tại Lâm Tri. Nhân Thúc ông về nhà, Thúc Sinh
lân la chơi bời nơi chốn lầu xanh. Gặp Kiều, Thúc Sinh mê
mẫn, đem lòng yêu thương nàng. Thúc Sinh quyết tâm lấy Kiều
làm vợ lẽ nên sắp đặt đưa Kiều trốn đi rồi bắn tin
cho Tú bà để chuộc Kiều. Ở vào thế đã rồi, Tú bà nhận
tiền chuộc của Thúc Sinh cho Kiều được tự do. Vậy là
Kiều trở thành vợ lẽ của Thúc Sinh.
Thúc
ông trở lại Lâm Tri, hay tin Thúc Sinh lấy Kiều từ chốn
lầu xanh đã đùng đùng nổi giận. Không buộc được Thúc
Sinh bỏ Kiều, Thúc ông thưa lên quan và quan nhất quyết bắt
Kiều:
Một
là cứ phép gia hình,
Một
là lại cứ lầu xanh phó về.
[TK
câu 1419-1420]
Thế
nhưng, sau khi đọc bản tường trình của nàng, quan trên cảm
động, khuyên Thúc ông nên vì tình mà chấp nhận cho Thúc
Sinh lấy Kiều. Thúc ông vâng lời và đám cưới được tiến
hành.
Những
tưởng vậy là đời Kiều an ổn. Kiều vốn biết thân phận
mình, khuyên Thúc Sinh nên về nói rõ cho Hoạn Thư biết sự
việc. Thúc sinh nghe lời Kiều, trở lại quê nhà.
Ở
quê nhà, Hoạn Thư đã biết tất cả. Nàng chờ đợi một
sự thú nhận từ Thúc Sinh. Vốn tính nhu nhược, lại không
thấy Hoạn Thư tỏ ra nghi kỵ hỏi han gì, Thúc Sinh đã không
nghe lời Kiều mà giấu biệt sự việc. Hoạn Thư càng tức
tối, về bàn với mẹ, sắp đặt cho bọn gia nô là Ưng, Khuyển
lên Lâm Tri bắt cóc Kiều về hành hạ và bắt làm người
hầu. Bọn Ưng, Khuyển đã đánh tráo một tử thi chết trôi
rồi phóng hỏa đốt nhà để ai cũng tưởng Kiều đã chết
vì hỏa hoạn.
Thúc
Sinh trở lại Lâm Tri, thấy Thúc ông đã lập bàn thờ cúng
tế Kiều, chàng hỡi ơi, tin rằng Kiều đã chết! Buồn quá,
chàng lại trở về nhà. Thúc Sinh có ngờ đâu gặp lại Kiều
trong hoàn cảnh thật éo le: “làm ra con ở, chúa nhà đôi
nơi” [TK câu 1814]. Hoạn Thư đã hành hạ Kiều, bắt Kiều
chuốc rượu, đánh đàn hầu hạ Thúc Sinh. Thúc Sinh phải
làm bộ giả lã vui cười cho Hoạn Thư vừa lòng.
Sau
đó, thể theo nguyện vọng Kiều, Hoạn Thư cho nàng ra Quan
Âm các ở tu hành với pháp danh là Trạc Truyền. Nhân buổi
Hoạn Thư về nhà thăm mẹ, Thúc Sinh lén ra tâm sự với Kiều.
Nào ngờ Hoạn Thư về đứng bên ngoài nghe hết mọi chuyện
nhưng nàng vẫn cười cợt bình thường như không có chuyện
gì xảy ra. Quá sợ một con người như thế, Kiều lấy chuông
vàng khánh bạc ở Quan Âm các làm vật hộ thân rồi trốn
đi.
Từ
nhà Hoạn Thư ra, nàng đến nương nhờ tại “Chiêu Ẩn am”
của sư trưởng Giác Duyên. Nhưng đoạn trường chưa dứt,
nghiệp chướng còn dày, một lần nữa Kiều lại sa vào lầu
xanh của Bạc Bà, Bạc Hạnh ở Châu Thai, vì tung tích nàng
đã bị bại lộ. Tại đây nàng gặp Từ Hải, người anh
hùng cái thế đang dấy binh chống lại triều đình.
Say
mê sắc đẹp, cảm phục tài năng và đồng điệu tâm hồn,
Từ Hải cứu nàng ra khỏi chốn lầu xanh nhà họ Bạc, đưa
nàng về làm vợ. Sau một năm khởi binh, Từ Hải đã trở
thành lãnh chúa một vùng và Kiều đường đường là một
mệnh phụ phu nhân. Ân oán giang hồ từ ngày lưu lạc được
nàng báo đáp phân minh. Những kẻ gây nên đau khổ cho nàng
đều phải đền tội dưới trướng hùm Từ Hải. Đây có
lẽ là quãng đời hạnh phúc nhất của Kiều trên suốt chặng
đường mười lăm năm lưu lạc.
Những
tưởng Kiều hạnh phúc dài lâu cùng Từ Hải, nhưng sổ đoạn
trường nàng đâu đã đoạn tên. Khi Hồ Tôn Hiến kéo binh
mã triều đình ra đánh Từ Hải, biết không thể thắng nên
dùng kế chiêu an. Kiều lại ngây thơ tin lời đường mật
của Hồ Tôn Hiến, phân tích lẽ thiệt hơn và khuyên Từ
Hải đầu hàng.
Nghe
lời Kiều, Từ Hải đầu hàng và mắc kế phục binh của
Hồ Tôn Hiến, chết đứng giữa trận tiền. Vậy là Kiều
thành thân phận “thanh y”, hầu rượu, đánh đàn cho tiệc
mừng công của Hồ Tôn Hiến. Trớ trêu thay cho số phận,
Kiều sau đó bị ép gã cho một Thổ quan. Trên thuyền của
Thổ quan đưa đi, nàng đã trầm mình xuống sông Tiền Đường
tự vẫn.
Sau
khi chia tay Kiều ở “Chiêu Ẩn am”, sư trưởng Giác Duyên
trên đường vân du gặp Đạo cô Tam Hợp. Được Đạo cô
Tam Hợp cho biết hậu vận của Kiều nên đã đến thuê người
chờ sẵn bên sông Tiền Đường. Kiều được sư trưởng
Giác Duyên cứu và đem về nương náu ở am cỏ ven sông. Từ
ngày Kiều rời Bắc Kinh cho đến bấy giờ, chốc đã mười
lăm năm luân lạc.
Ở
quê nhà, Kim Trọng hết tang, trở lại tìm nàng thì người
yêu đã không còn nữa. Chàng theo lời nàng dặn cưới Thúy
Vân, mà mối tình sâu nặng với Kiều cứ canh cánh bên lòng.
Sau Kim Trọng cùng Vương Quan thi đậu, được bổ ra làm quan.
Từ đó Kim Trọng bắt đầu dò la tìm kiếm tông tích Thúy
Kiều. Từ Vô Tích qua Lâm Tri đến Châu Thai rồi cuối cùng
dừng lại bên bờ sông Tiền Đường.
Cả
nhà hội ngộ, mừng mừng tủi tủi. Buổi đoàn viên sao quá
muộn màng. Dù cả nhà đều nài ép và mối tình với Kim Trọng
vẫn nồng ấm như xưa nhưng đã quá đỗi ê chề và nghĩ
mình không xứng đáng, Kiều đã nhất quyết không chắp lại
tình xưa với người yêu cũ. “Đem tình cầm sắc đổi ra
cầm cờ” [TK câu 3110] là sự chọn lựa cuối cùng của nàng
đối với Kim Trọng. Kiều sống nốt những ngày còn lại
trong an lạc niềm vui sau khi đã trải qua một quãng đời sương
gió đoạn trường.
CHƯƠNG
2: ÂM HƯỞNG PHẬT GIÁO QUA TÁC PHẨM TRUYỆN KIỀU
2.1.
CHỮ HIẾU TRONG TRUYỆN KIỀU.
Hiếu
đễ là một tiêu chí hàng đầu trong những tiêu chí đạo
đức của Xã hội phương Đông. Cổ nhân nói: “Nhân sinh
bách hạnh hiếu vi tiên” (Trong nhiều nết tốt của con người
thì hiếu thảo đứng hàng đầu). Hai tôn giáo lớn có tầm
ảnh hưởng quan trọng đối với xã hội phương Đông nói
chung, xã hội Việt Nam nói riêng là Nho giáo và Phật giáo
đều đề cao vai trò chữ Hiếu và xem đó là nền tảng căn
bản của đạo đức làm người. Cuốn sách đầu tiên và
cơ bản của Nho gia dạy về chữ Hiếu là “Hiếu kinh”,
ngay ở phần đầu quyển sách, Khổng Tử viết: “Phù hiếu,
đức chi bổn dã, giáo chi sở do sanh dã” (Hiếu là cái gốc
của Đạo đức, mọi việc giáo dục con người đều phát
sinh từ cái gốc này).
Riêng
với Phật giáo, rất nhiều kinh điển đề cập đến chữ
Hiếu. Công ơn sâu nặng của hai đấng sinh thành được Đức
Phật dạy rất cụ thể và chi tiết: “Này các Tỳ Kheo, sữa
mẹ mà các Thầy đã bú khi lang thang trong ba cõi luân hồi
còn nhiều hơn là nước trong bốn Đại dương” [1, 4]. Hay
như trong kinh “Hiếu Tử”, Phật dạy: “Thân chi sanh tử,
hoài thai thập nguyệt, thân vi trọng bệnh, lâm sanh chi nhật
mẫu nguy, phụ bố kỳ tình nan ngôn” (Cha mẹ sanh con, mười
tháng mang thai như thân mang bệnh nặng, ngày sanh con thì mẹ
nguy hiểm cận kề, cha lo sợ nói sao cho xiết).
Công
ơn cha mẹ lớn lao như thế nên làm con, phận sự báo đền
thâm ân ấy là điều hiển nhiên, là đạo lý căn bản trước
tiên của đạo làm người. Với đạo Phật, hiếu có hai loại:
Hiếu thế gian và Hiếu xuất thế gian. Hiếu thế gian là lo
chuyện phụng dưỡng chăm sóc cho cha mẹ khi sanh tiền miếng
ăn giấc ngủ, làm cho cha mẹ an vui trong đời sống vật chất
và tinh thần. Trong cách báo đáp công ơn cha mẹ cho tròn niềm
hiếu đạo này, Phật dạy: “Này các Thầy Tỳ Kheo, nếu
có kẻ vai trái cõng cha, vai phải cõng mẹ đi xa nghìn dặm,
cung phụng đủ mọi thức ăn, đồ mặc chăn nệm và thuốc
thang, thậm chí cha mẹ có tiểu tiện trên vai mình đi nữa,
cũng chưa trả được ân sâu. Các Thầy phải hiểu rằng ân
mẹ cha nặng lắm, bồng bế nuôi nấng, dưỡng dục đúng
lúc cho ta trưởng thành. Vì thế mà phải biết ân đó rất
khó trả. Này các Tỳ Kheo, có hai việc làm cho phàm phu được
công đức lớn, được quả báo lớn đó là phụng sự cha
và phụng sự mẹ” [1, 4]. Và trong rất nhiều kinh điển khác
của đạo Phật cũng đề cập đến chữ Hiếu trong đạo
làm người như thế.
Nội
dung truyện Kiều là một chuỗi những đau khổ tận cùng Thúy
Kiều gặp phải và chịu đựng suốt mười lăm năm của cuộc
đời mình mà khởi nguyên của quãng đời đoạn trường đau
đớn ấy là từ lòng hiếu thảo của nàng. Kiều là một
người con gái đa tình, đa cảm nhưng không yếu đuối, ít
ra là trong phương diện báo hiếu của nàng. Trước cảnh cha
và em bị bọn quan lại sai nha đánh đập hành hạ bởi “Làm
cho khốc liệt chẳng qua vì tiền” [TK câu 598], trong Kiều
đã nghĩ:
Sao
cho cốt nhục vẹn tuyền,
Trong
khi ngộ biến tòng quyền biết sao.
Duyên
hội ngộ, đức cù lao,
Bên
tình bên hiếu bên nào nặng hơn?
[TK
câu 599 –602]
Mối
tình sâu nặng với Kim Trọng vừa bắt đầu, lòng còn vấn
vương nỗi niềm thương nhớ, nặng lời hẹn biển thề non.
Kiều biết bán mình chuộc cha thì ắt phải lỗi hẹn với
tình yêu, trọn đời phụ tình với Kim Trọng. Trước cảnh hoạn nạn của gia đình, nàng phải đối trước một sự
chọn lựa quá khắc nghiệt giữa chữ Tình và chữ Hiếu để
rồi trong khoảnh khắc phải quyết định:
Để
lời thệ hải minh sơn
Làm
con trước phải đền ơn sinh thành.
Quyết
tình nàng mới hạ tình
Dẽ
cho để thiếp bán mình chuộc cha.
[TK
câu 603 – 606]
Thử
hình dung một người con gái vừa đến tuổi “cập kê”,
đang sống trong cảnh “êm đềm trướng rủ màn che”, lại
vừa ước hẹn một mối tình đầu nồng nàn tươi đẹp trong
niềm tin trao thân gửi phận sau này, bổng dưng phải có một
quyết định táo bạo và đau lòng dường ấy, để thấy lòng
hiếu của Kiều lớn biết dường nào. Khi đã nói đến hai
chữ “bán mình”, hẳn Kiều đã đoán trước được con
đường phía trước của cuộc đời nàng sẽ ra sao! Trong tình
cảnh bi đát của gia đình, Kiều không còn nghĩ đến thân
mình nữa, chỉ mong cứu được cha:
Vẻ
chi một mảnh hồng nhan,
Tóc
tơ chưa chút đền ơn sinh thành.
[TK
câu 669 – 670]
Lòng
hiếu thảo của Kiều qua hành động bán mình cứu cha không
phải là một tình cảm bất chợt, bộc phát trước cảnh
tan cửa nát nhà mà là một tình cảm sâu nặng trong trái tim
đa cảm của nàng. Hơn thế, lý trí Kiều đã ý thức:
Hổ
sinh ra phận má đào,
Công
cha nghĩa mẹ kiếp nào trả xong.
[TK
câu 877- 878]
Thế
nên, sau này trên bước đường lưu lạc, chịu bao nỗi đoạn
trường suốt mười lăm năm của đời mình, trong Kiều luôn
canh cánh nỗi lòng nghĩ về cha mẹ. Khi ở lầu Ngưng Bích
của Tú bà, trong cảnh cô độc đầu tiên nơi đất khách
quê người, nàng nhớ về cha mẹ trong niềm lo lắng:
Xót
người tựa cửa hôm mai,
Quạt
nồng ấp lạnh những ai đó giờ.
Sân
Lai cách mấy nắng mưa,
Có
khi gốc Tử đã vừa người ôm.
[TK
câu 1043 –1046]
rồi
những tháng ngày quằn quại, xót xa ê chề khi phải tiếp
khách trong lầu xanh của Tú Bà, “khi tỉnh rượu, lúc tàn
canh” [TK câu 1233], cha mẹ vẫn là điểm tựa, là nỗi nhớ
thương trong lòng nàng thiếu nữ họ Vương bạc mệnh:
Nhớ
ơn chín chữ cao sâu,
Một
ngày một ngã bóng dâu tà tà.
Dặm
ngàn nước thẳm non xa,
Nghĩ
đâu thân phận con ra thế này!
Sân
hòe đôi chút thơ ngây,
Trân
cam ai kẻ đỡ thay việc mình?
[TK
câu 1253 – 1258]
Khi
trở thành vợ Từ Hải, Từ Hải ra đi theo tiếng gọi “động
lòng bốn phương”; bên song cửa chờ đợi Từ Hải trở
về, nàng càng nghĩ về cha mẹ. Kiều thương cha mẹ giờ đã
già yếu đi nhiều vì từ ngày cách biệt đến giờ đã mười
năm có lẽ:
Xót
thay huyên cỗi thung già,
Tấm
lòng thương nhớ biết là có nguôi.
Chốc
đà mười mấy năm trời,
Còn
ra khi đã da mồi tóc sương.
[TK
câu 2237 – 2240]
Như
vậy, Thúy Kiều xứng đáng là “một người con hiếu thảo đáng kính, đáng mến…” như lời một nhà Nho xưa nhận
xét. Hành động bán mình chuộc cha là điểm đỉnh của lòng
hiếu thảo ấy. Ở đây người viết không quá võ đoán để
kết luận rằng: Nhà thơ núi Hồng Lĩnh thấm nhuần tinh thần
“Hiếu tâm tức Phật tâm” của nhà Phật để xây dựng
chữ Hiếu cho nhân vật Thúy Kiều, nhưng tinh thần chữ Hiếu
trong đạo Phật đã thấm sâu vào tâm hồn dân tộc Việt
Nam, trở thành đạo lý truyền thống cao đẹp trong bản sắc
văn hiến việt Nam. Và đạo lý ấy hiển nhiên có ảnh hưởng,
trong chừng mực nào đó, đến những người “cư Nho, mộ
Thích” như Nguyễn Du. Điều cần nói là chữ Hiếu trong truyện
Kiều, biểu hiện cụ thể ở nàng hiếu nữ họ Vương mang
đậm nét giáo lý nhà Phật ở tinh thần Vô ngã vị tha. Ta
không tìm thấy quan niệm “lập thân hành đạo, dương danh
hậu thế, dĩ hiếu phụ mẫu” của Nho gia mà là sự hy sinh
tất cả, chịu đựng tất cả cho cha mẹ được yên vui, dù
sự hy sinh đó là cái giá quá đắt, phải trả bằng cả cuộc
đời mình. Thế nên, dù ai có khắt khe trong lễ giáo phong
kiến Nho gia, hẳn cũng đồng tình khi Tố Như kết luận:
Như
nàng lấy hiếu làm trinh,
Bụi
nào cho đục được mình ấy vay?
[TK
câu 3119 – 3120]
Thế
nên, có nhà nghiên cứu về truyện Kiều đã viết: “truyện
Kiều là truyện của nàng hiếu nữ họ Vương” [1, 29] có
lẽ thật chính xác và không phải quá lời vậy.
2.2.
THUYẾT NHÂN QUẢ NGHIỆP BÁO CỦA ĐẠO PHẬT TRONG TRUYỆN KIỀU.
Nhân
quả Nghiệp báo vốn là một giáo lý phổ quát căn bản đầu
tiên của đạo Phật. Đạo Phật chủ trương tất cả mọi
hành vi tạo tác của ba nghiệp thân, miệng, ý con người đều
tạo thành những Nghiệp nhân và Nghiệp nhân đó sẽ thành
Nghiệp quả hiện hành báo ứng ở ba thời gian quá khứ, hiện
tại, vị lai. Nói khác hơn, không một sự vật gì ngẫu nhiên
sinh ra, tất cả đều chịu sự tác động hỗ tương của
nhau. Bài kệ nói về nhân quả mà ai học Phật cũng đều
thuộc nằm lòng: Dục tri tiền thế nhân,
Kim
sanh thọ giả thị.
Dục
tri lai thế quả,
Kim
sanh tác giả thị.
(muốn
biết cái nhân đã gây ở đời trước, hãy xem kết quả đang
thọ nhận ở đời này. Muốn biết cái quả trong đời sau,
hãy nhìn hiện tại đã làm gì).
Tất
nhiên, quan hệ Nhân Quả trong đạo Phật không dừng lại ở
mức đơn giản và hạn cuộc ấy, nhưng ở đây chúng ta chưa
cần phải luận nhân quả ở một mức sâu xa hơn.
Từ
“Kim Vân Kiều truyện” của Thanh Tâm Tài Nhân chỉ là một
câu chuyện kể mang tính tự sự không hơn, thì qua “Đoạn
trường tân thanh” của Tố Như tử, tất cả đã được
nâng lên một tầng bậc mới. Một trong những tầng bậc đó
là Nguyễn Du đã cố gắng giải thích mọi biến động của
cuộc đời Thúy Kiều dưới những triết lý tư tưởng mà
ông đã thâm nhập. Là một nhà Nho, bài học “Tạo vật đố
hồng nhan”, “Tài mệnh tương đố” là những câu nằm
lòng từ những ngày còn bập bẹ “Tam Tự Kinh” chữ Hán,
thế nên không lạ gì khi ông viết những câu thơ như:
Lạ
gì bỉ sắc tư phong,
Trời
xanh quen thói má hồng đánh ghen.
[TK
câu 5 – 6]
Nghĩ
đời mà ngán cho đời,
Tài
tình chi lắm cho trời đất ghen.
[TK
câu 2153 – 2154]
Hồng
quân với khách hồng quần,
Đã
xoay đến thế còn vần chưa tha.
[TK
câu 2157 – 2158]
Những
câu thơ “đổ thừa” hết cho trời đất, cho một đấng
tạo hóa, “hóa công” gây nên đau khổ cho nàng Kiều của
Nguyễn Du như thế rất nhiều trong truyện Kiều. Nhưng có
cảm tưởng chính Nguyễn tiên sinh cũng không tin tưởng lắm
khi cả quyết “Trời xanh” kia là “chính danh thủ phạm”
cho cuộc đời oan nghiệt của Thúy Kiều. Chúng ta đọc đoạn
kết của Truyện Kiều sẽ thấy điều đó.
Ngẫm
hay muôn sự tại trời,
Trời
kia đã bắt làm người có thân.
Bắt
phong trần phải phong trần,
Cho
thanh cao mới được phần thanh cao.
[TK
câu 3241-3244].
thì
ngay tiếp đó ông viết:
Đã
mang lấy nghiệp vào thân,
Cũng
đừng trách lẫn trời gần trời xa.
Thiện
căn ở tại lòng ta,
Chữ
tâm kia mới bằng ba chữ tài.
[TK
câu 3249-3252]
Rõ
ràng, Nguyễn tiên sinh vẫn còn có gì đó băn khoăn và không
tin chắc lắm có một “ông trời” bất công quá thế! Ông
đi tìm một sự giải thích khác và chúng ta gặp ở đây thêm
một cách lý giải khác cho số phận cuộc đời nàng Kiều
“thân yêu, tri kỷ” của ông. Nguyễn Du đã nhìn thấy triết
lý nhân quả của đạo Phật ở cuộc đời Kiều.
Tìm
hiểu vấn đề này, trước tiên, không gì hơn là đọc lại
một số nhận định xưa và nay của các học giả quan tâm nghiên cứu truyện Kiều.
Học
giả Trần Trọng Kim viết: “theo cái lý thuyết nhân quả
ấy thì phàm phúc hay họa là ở tự mình gây ra cho mình. Mình
đã có cái hoàn toàn tự do mà làm việc thiện hay ác, thì
mình lại có cái hoàn toàn trách nhiệm về những việc ấy…”
[3, 274], “…Cái thuyết nhân quả của Phật học là thế.
Đem cái thuyết ấy mà so với một đời nàng Kiều, thì thấy
không có chỗ nào là không đúng…” [3, 274]
Nhà
nghiên cứu Cao Huy Đỉnh nhận xét: “Đạo Phật đã bổ sung
cho đạo Nho ở chỗ nó dựa trên luật Nhân Quả để kết
án cá nhân là tự mình gieo cái mầm khổ cho mình ngay từ
kiếp trước nên tự mình phải chịu lấy quả khổ của kiếp
này” [3, 556]
Ngoài
ra, các học giả khác nghiên cứu về truyện Kiều như Đào
Duy Anh, Nguyễn Đăng Thục, Trần Văn Giàu.v.v.., tuy sự nhìn
nhận, cách giảng giải có khác nhau, thậm chí trái ngược
do đến từ những quan điểm, nhân sinh quan thời đại khác
nhau nhưng đều thừa nhận tư tưởng chủ đạo của truyện
Kiều nằm trong lý thuyết Nhân Quả của Phật giáo.
Trở
lại câu chuyện, Kiều là nàng con gái đa sầu, đa cảm. Cái
“Nghiệp” của nàng như thế nên buổi đầu đi chơi gặp
mã Đạm Tiên, nghe tâm sự cuộc đời cô kỹ nữ xa lạ, Kiều
đã vận vào mình. Kiều có niềm tin “thác là thể phách,
còn là tinh anh” [TK câu 116]. Con ma Đạm Tiên trở thành hiện
thân của nghiệp lực theo Kiều từ đó.
Kiều
là một cô gái đa tình. Nàng đã mạnh dạn đem lòng yêu thương
Kim Trọng ngay trong lần đầu gặp gỡ, một điều rất xa
lạ với lễ giáo phong kiến đương thời. Chỉ một lần gặp
gỡ ngắn ngủi thoáng qua thôi là đã:
Người
quốc sắc, kẻ thiên tài,
Tình
trong như đã, mặt ngoài còn e.
[TK
câu 163-164]
Vậy
là cái nhân đau khổ đầu tiên đã hình thành, chủng tử
Nghiệp luyến ái kiếp hiện sinh đã tạo. Điều này rất
quan trọng. Trong mười lăm năm lưu lạc của Kiều, sự khổ
đau chịu đựng về thân xác đâu bằng sự dằn vặt tâm
can về “giấc mộng hương quan” và “người tình Kim Trọng”.
Cái Nhân đa tình đã bắt Kiều thọ cái Quả nhớ nhung, đau
đớn như thế.
Rơi
vào chốn lầu xanh của Tú bà, bị hành hạ, Kiều rút dao
tự vẫn thì ngay đó, Đạm Tiên đã về thủ thỉ:
Rỉ
rằng: “nhân quả dở dang,
Đã
toan trốn nợ đoạn tràng được sao”
[TK
câu 995-956]
Vậy
là đã rõ, nhân vật “Trời xanh” kia không phải tác nhân
theo “đánh ghen” bởi tài, bởi sắc làm Kiều bị đày đọa
mà chính những Nghiệp nhân Kiều đã gây trong quá khứ nên
bây giờ Kiều phải trả, không thể trốn thoát đi đâu mà
được. Nói khác hơn, “Trời” ở đây chỉ là một khái
niệm, một hình ảnh được mô tả như là một định luật chi phối vũ trụ và cuộc đời chứ không còn là vị chúa
tể “Trời xanh” có quyền ban phúc giáng họa nữa. Trong
ý nghĩa ấy, “Trời” là Nghiệp nhân mà “Trời” cũng
là Nghiệp quả: “có Trời mà cũng có ta” [TK câu 2657], “xưa
nay nhân định thắng thiên cũng nhiều” [TK câu 420]. Với
quan điểm triết lý đó, qua Kiều, Nguyễn Du khẳng định:
Kiếp
này nợ trả chưa xong,
Làm
chi thêm một nợ chồng kiếp sau.
[TK
câu 1019-1020]
hay
Kiếp
xưa đã vụng đường tu,
Kiếp
này chẳng kẻo đền bù mới xuôi.
[TK
câu 1195-1196]
Tuy
vậy, Nghiệp quả vẫn có thể thay đổi nếu thay đổi được
Nghiệp nhân. Đây là ý nghĩa chính trong chữ Tu của đạo
Phật: “Tu là chuyển Nghiệp”. Kiều có một Nghiệp nhân
rất nặng và nàng phải thọ nhận Nghiệp quả đó ở kiếp
này như lời Đạo cô Tam Hợp:
Người
này nặng kiếp oan gia,
Còn
nhiều nợ lắm sao đà thác oan.
[TK
câu 1693-1694]
Thế
nhưng, chính nhờ những Nghiệp nhân tốt mà Thúy Kiều đã
gieo trong đời hiện tại: đó là một tấm lòng hiếu đễ
cao quý dành cho cha mẹ, cho gia đình; một mối tình chung thủy
sắt son với Kim Trọng mà Kiều đã:
Lấy
tình thâm, trả nghĩa thâm,
Bán
mình đã động hiếu tâm đến trời.
[TK
câu 2683-2684]
Hành
động đầy ý nghĩa hy sinh cao cả đó của Kiều là những
tác nhân trong hiện tại, đủ sức chuyển hóa phần nào nghiệp
lực của nàng, làm nhẹ đi quả báo tiền khiên để Kiều
có một hậu vận đoàn viên nhẹ nhàng như mong ước:
Khi
nên trời cũng chiều người,
Nhẹ
nhàng nợ trước đền bồi thân sau.
[TK
câu 2689-2690]
Về
cuộc đời Kiều, Nguyễn Du chưa bao giờ lý giải Kiều kiếp
trước đã gây nên những Nghiệp nhân gì để kiếp này phải
trả quả như thế. Chính điều này mà một số nhà nghiên
cứu truyện Kiều thắc mắc, cho rằng, Nguyễn Du bế tắc
trong triết lý tư tưởng ở truyện Kiều. Tiêu biểu cho ý
kiến này là nhận định của Hoàng Ngọc Hiến: “…Tư tưởng
Nhân quả khẳng định Nhân quả giữa kiếp này và kiếp trước,
kiếp sau. Nội dung hình tượng truyện Kiều chỉ nói về kiếp
này của nàng Kiều. Như vậy quan hệ “Nhân Quả” không
được bộc lộ ở ngay nội dung của tác phẩm. Đó là một
quan hệ không có nội dung…” [3, 546]
Nhận
định như thế rõ ràng rất phiến diện và khập khiễng nếu
không muốn nói là tác giả đã không hiểu (hoặc cố tình
không hiểu) gì về khái niệm “Nhân Quả” thông thường
nhất chứ chưa nói đến triết lý Nhân Quả sâu xa và kín
nhiệm của đạo Phật. Trong quan niệm Nhân Quả thông thường,
cũng chỉ cần nhìn vào quả báo đang thọ nhận ở hiện tại
để biết Nghiệp nhân của quá khứ, và đó là thái độ
của người tin Nhân Quả, thừa nhận Nhân Quả. Đâu cứ nhất
thiết phải trình bày và liệt kê ra Nhân nào đã sinh ra Quả
nào, mà có muốn liệt kê ra cũng không được! Chỉ với Trí
Tuệ của Đức Phật mới có thể nhìn thấy được tất cả
nghiệp lực mà mỗi chúng sanh đã gây tạo trong nhiều đời,
nhiều kiếp. Trong mối tương quan chằng chịt bởi nhân duyên
diễn ra trong từng sát-na, chỉ rõ được Nghiệp nhân trong
một đời hiện tại đã là điều bất khả. Nói Nhân hạt
lúa nhất định sẽ sinh ra một cây lúa đã là sai (vì còn
cần phải hội đủ bao yếu tố khác: đất, nước, khí hậu,
độ ẩm.v.v…) thì huống gì đến Nhân Quả chi phối một
con người qua rất nhiều đời trong quá khứ và cả đời
sống hiện tại nữa.
Truyện
Kiều sẽ không còn là truyện Kiều nữa, không còn là áng
văn chương đủ sức lay động lòng người đến thế nếu
Nguyễn tiên sinh tỉ mỉ kiếm tìm Nghiệp nhân trong quá khứ
của nàng Kiều để nêu ra, tin là vậy! Hương hồn Tiên Điền
tiên sinh hẳn sẽ không mấy vui khi hai trăm năm sau, hậu thế
có người đã “khóc” mình bằng những nhận định như
thế!
Một
ý nghĩa nữa về Nhân Quả trong truyện Kiều là: Triết lý
Nhân Quả trong truyện Kiều của Nguyễn Du là triết lý Nhân
Quả phổ thông, mang tính đại chúng, nhiều hơn là triết
lý thâm áo sâu xa của đạo Phật. Triết lý về Nhân Quả
ở truyện Kiều rất gần gũi và hòa nhập với quan niệm Nhân Quả của ông cha ta: “Ở hiền gặp lành”, “Gieo gió
gặt bão”v.v… những quan niệm thật đơn giản, dễ hiểu
mà có tác dụng to lớn vô cùng trong quá trình định hướng
nhân cách một con người hiền thiện; xây dựng một xã hội tốt đẹp, bao dung trong quá khứ của cha ông ta. Kẻ làm ác
nhất định phải bị trừng trị, người làm lành nhất định
sẽ nhận được sự báo đáp công bằng, hạnh phúc.
Nguyễn
Du sắp đặt cho Kiều thực hiện một cuộc đền ơn, báo
oán phân minh là nằm trong quan điểm ấy:
Nàng
rằng lồng lộng trời cao,
Hại
nhân, nhân hại sự nào tại ta?
[TK
câu 2381-2382]
Sẽ
rất bất công khi những Tú bà, Bạc bà, những Sở Khanh, Bạc
Hạnh… cứ sống nhởn nhơ, tác yêu tác quái, gây nên bao
đau khổ, đày đọa bao con người lương thiện mà không chịu
một sự hình phạt nào.
Cũng
chính từ sự báo oán này của Kiều mà có người cho rằng
Nguyễn Du đã mâu thuẫn trong tư tưởng Phật giáo của mình.
Cho Kiều thực hiện cuộc báo oán là nằm trong quan điểm Nhân Quả của đạo Phật nhưng để Kiều giết chết đám
oan gia của mình là không phù hợp với tinh thần từ bi của
nhà Phật.
Chúng
ta phải nhìn nhận rằng nhận xét như thế không sai. Theo tinh
thần đạo Phật thì đúng là: “Lấy oán báo oán, oán oán
chất chồng. Lấy ân báo oán, oán ấy tiêu tan”. Nhưng như
trên đã nói, tư tưởng Nhân Quả biểu hiện trong truyện
Kiều mà cụ thể ở tình huống này là tư tưởng, quan niệm
của quần chúng. Về oan nghiệp lẫn nhau giữa Kiều và những
Tú bà, Bạc Hạnh… chưa hẳn đã tan, nhưng tác dụng giáo
dục mang tính luân lý của tác phẩm đối với xã hội thì
rất tích cực. Tích cực trước tiên là ở chỗ “Hại một
người, cứu muôn người”, thứ nữa là sự cảnh báo cần
thiết với những ai đang manh nha làm ác.
Như
vậy, tư tưởng Phật học không hẳn giữ vai trò chủ đạo
trong truyện Kiều nhưng những dấu ấn của tư tưởng ấy,
đặc biệt là triết lý Nhân quả Nghiệp báo của đạo Phật
thì lại biểu hiện rất rõ ràng và điều đáng nói là đã
góp phần quan trọng lý giải các vấn đề, các mâu thuẫn
trong nội dung câu chuyện mà quan niệm “ông trời” không
còn đủ sức “giải quyết” một cách thuyết phục nữa.
Thành ra “trời” vẫn còn đó, vẫn tại vị trong câu chuyện
và có vẻ vẫn nắm quyền tối cao nhưng không thể lý giải
được tại sao lại “đánh ghen” nàng Kiều tài hoa, tại
sao không thực hiện quyền thưởng phạt công minh để rồi:
Mấy
người
bạc ác tinh ma,
Mình
làm mình chịu, kêu mà ai thương.
[TK
câu 2393-2394]
và
cuối cùng đã không còn thể hiện được cái quyền lực:
Bắt
phong trần phải phong trần,
Cho
thanh cao mới được phần thanh cao.
[TK
câu 3243-3244]
nữa
mà quyền đó đã thuộc về con người. Con người có hoàn
toàn cái quyền chịu trách nhiệm với chính mình cho những
việc mình đã gây ra. Đây chính là giá trị tư tưởng nhân
bản nhất, có giá trị giáo dục sâu sắc và thiết thực
nhất của truyện Kiều vậy.
2.3
MỘT SỐ TƯ TƯỞNG PHẬT HỌC KHÁC BIỂU HIỆN TRONG TRUYỆN
KIỀU.
2.3.1. THUYẾT VÔ THƯỜNG TRONG TRUYỆN KIỀU.
Vô
thường, Khổ, Vô ngã là ba con dấu xác nhận cho giáo lý Phật
giáo. Triết lý nào hàm chứa đầy đủ ba dấu ấn ấy thì
đích thị là giáo lý đạo Phật.
Vô
thường nghĩa là sự biến động, thay đổi không ngừng của
tất cả mọi sự vật, hiện tượng vật lý và tâm lý trong
vũ trụ. Vô thường là một trong những giáo lý căn bản của
đạo Phật. Kinh “Bát Đại Nhân Giác” viết: “Thế gian
vô thường, quốc độ nguy thúy, tứ đại khổ không, ngũ
ấm vô ngã”. Dưới cái nhìn của đạo Phật, tất cả các
sự vật, hiện tượng hiện hữu trên đời đều là sự hòa
hợp giả tạm mà có ra, không có tính bền vững và trường
cửu mà đều trải qua bốn chu kỳ Thành, Trụ, Hoại, Không.
Mặt trời đã lên đến đỉnh đầu thì tự nhiên phải xế
tà, cũng như vầng trăng kia khi tròn khi khuyết, triều nước
nọ khi vơi khi đầy, đều là lẽ thường tình trong vũ trụ.
Cuộc đời là thế và con người cũng thế. Con người sống
chết chỉ qua một hơi thở. Sinh ra rồi mất đi, đoàn tụ
rồi chia ly; hạnh phúc ngắn ngủi mong manh và khổ đau bất
chợt…! Thiền sư Vạn Hạnh (? – 1018) đời Lýù có bài
kệ về Vô thường rất hay:
Thân
như điện ảnh hữu hoàn vô,
Vạn
mộc xuân vinh thu hựu khô.
Nhậm
vận thạnh suy vô bố uý,
Thạnh
suy như lộ thảo đầu phô.
(Thân
như bóng chớp có rồi không,
Cây
cỏ Xuân tươi Thu đượm hồng.
Mặc
cuộc thạnh suy không sợ hãi,
Thạnh
suy như cỏ hạt sương đông.)
[14,
59-60]
Sự
chuyển vận và biến động không ngừng ấy không xảy ra không
theo bất kỳ một quy luật nào và không ai có thể dự đoán
trước được những gì xảy đến với mình với chỉ một
sát-na thời gian kế tiếp. Mở đầu Truyện Kiều, Nguyễn
Du viết:
Trăm
năm trong cõi người ta,
Chữ
tài chữ mệnh khéo ghét nhau.
Trải
qua một cuộc bể dâu,
Những
điều trông thấy mà đau đớn lòng.
[TK
câu 1 – 4]
Có
lẽ bất cứ ai khi đọc bốn câu thơ đầu tiên của truyện
Kiều hẳn liên tưởng đến một sự biến động, biến động
của cuộc đời, của thân phận nàng Kiều trong chiều hướng
khổ đau, bất hạnh. Cuộc đời dâu bể ấy đã hiện lên bóng dáng của cuộc thế tang thương, biến hoại, đổi thay,
mang đậm nét giáo lý Vô thường nhà Phật.
Câu
chuyện về cuộc đời nàng kỹ nữ Đạm Tiên là hình ảnh
đầu tiên về lẽ vô thường rõ nét nhất:
Kiếp
hồng nhan có mong manh,
Nửa
chừng xuân thoắt gãy cành thiên hương.
[TK
câu 65 – 66]
Mới
đó là một ca nhi xinh đẹp nổi tiếng, bao người săn đón
chào mời, thoắt đã trở thành “nấm mồ vô chủ”. Thân
phận Đạm Tiên là sự cảnh báo cho cuộc đời Kiều mà cũng
là sự cảnh báo chung cho tất cả: chẳng có gì bền chặt
giữa cuộc đời này!
Mà
thật vậy! Cuộc đời nàng Kiều chỉ trong mười lăm năm
đã trải qua bao nhiêu là biến động. Vừa ấm êm trong cuộc
sống thơ ngây, vô tư của gia đình, những tưởng mãi mãi
“Tường đông ong bướm đi về mặc ai” [TK câu 38] thì bổng
chốc tai bay vạ gió, phải rơi vào chốn khổ đau tận cùng,
cảnh chia ly đầu tiên trong đời đau đớn xảy ra:
Đau
lòng tử biệt sanh ly,
Thân
còn chẳng tiếc, tiếc gì đến duyên.
[TK
câu 617 – 618]
trong
những tháng ngày đau khổ ấy, Kiều đã thốt lên:
Khi
sao phong gấm rũ là,
Giờ
sao tan tác như hoa giữa đường.
[TK
câu 1235 -12360]
Hạnh
phúc với Thúc Sinh chưa trọn đã bị Hoạn Thư bắt về hành
hạ; vừa gặp vãi Giác Duyên chưa kịp yên thân đã rơi vào
tay Bạc Hạnh, Bạc Bà; được Từ Hải cưu mang vừa mới
tạm yên, đã phải để tang chồng mà hầu rượu Hồ Tôn
Hiến. Những tưởng sông Tiền Đường kết thúc một kiếp
hồng nhan thì:
Đời
người đến thế thì thôi,
Trong
cơn âm cực dương hồi ai hay.
[TK
câu 2645-2646]
Suốt
3254 câu thơ, Tiên Điềân tiên sinh chưa một lần dùng chữ
Vô thường nhưng biểu hiện của giáo lý Phật giáo ấy cứ
hiện lên qua từng câu chữ và bao trùm cả nội dung câu chuyện.
Người đọc cảm thương cho thân phận nàng Kiều bị đọa
đày chìm nổi hẳn ít nhiều sẽ nhận ra điều ấy.
2.3.2. Ý NGHĨA CHỮ “KHỔ” CỦA ĐẠO PHẬT THỂ HIỆN TRONG TRUYỆN
KIỀU.
Nhận
diện những tư tưởng, giáo lý Phật giáo ẩn hiện trong tác
phẩm “Đoạn trường tân thanh” của Nguyễn Du, ta không
thể bỏ qua chữ Khổ. “Khổ Đế” là một trong bốn Thánh
Đế Khổ, Tập, Diệt, Đạo được Đức Thế Tôn tuyên thuyết
đầu tiên trong cuộc chuyển vận Pháp Luân “vô tiền khoáng
hậu” của mình. Tuyên thuyết về Khổ là chỉ ra một sự
thật hiển nhiên trong thân phận con người. Rất tiếc, nhiều
người mới đọc một chữ “Khổ” đã dừng lại ở đó
và vội vã kết luận đạo Phật là bi quan, yếm thế! Lối
nhìn Phật giáo phiến diện như thế vẫn còn tồn tại khắc
khoải cho đến ngày nay trong tâm thức nhiều người.
Có
thể nói trong lịch sử văn chương mang yếu tố Phật giáo,
ngoài Khóa Hư Lục của Trần Thái Tông, Cung oán ngâm khúc
của Nguyễn Gia Thiều… Nguyễn Du là tác giả đã diễn đạt
tận tình và tài tình nỗi khổ của con người, mà hình ảnh tiêu biểu là nhân vật chính Thúy Kiều trong “Đoạn trường
tân thanh”. Cuộc đời “Phong gấm rũ là” trong gia đình
êm ấm của Kiều chỉ trong khoảnh khắc vì nạn quan quyền
vô lại hà hiếp dân lành, gây nên cuộc chia ly đau đớn đầu
tiên trong đời Kiều khi nàng chọn lựa và quyết định “Dẽ
cho để thiếp bán mình chuộc cha” [TK câu 606]. Hạnh phúc
của mối tình đầu chưa hưởng trọn thì đã “Tan tác như
hoa giữa đường”, chia tay với chàng Kim rồi xa nhau mãi mãi
trên bước đường lưu lạc giang hồ. Mối sầu chia ly ấy
đã đọa đày thân xác và tâm hồn Kiều suốt mười lăm
năm đằng đẵng.
Ngại
ngùng một bước chân ra,
Một
lời trân trọng châu sa mấy hàng.
Buộc
yên quảy gánh vội vàng,
Mối
sầu xẻ nữa, bước đường chia hai.
[
TK câu 561 – 564]
Nỗi
đau “Ái biệt ly khổ” đầu tiên trong đời còn nức nở
chưa dứt, liền tiếp ngay là sự thảm khốc phải chia tay
cha mẹ, rời tổ ấm gia đình, bán thân làm vợ lẽ cho người
xa lạ để cứu cha, cứu em. Nếu cuộc chia ly Kim Trọng nặng
nỗi khổ về tâm thì cuộc chia ly gia đình khi phải bán mình
của Kiều chính là sự đọa đày thân xác.
Đùng
đùng gió dục mây vần,
Một
xe trong cõi hồng trần như bay.
[TK
câu 907 – 908]
Còn
có nỗi khổ nào hơn, sự đoạ đày nào hơn thế cho cuộc
đời một con người. Cảnh địa ngục trần gian liên tục
diễn ra với Kiều: Mã Giám Sinh “nước trước bẻ hoa”,
Tú bà đánh đòn vùi dập, tự vẫn bằng dao không chết, bị
Sở Khanh lường gạt, Tú bà hành hạ bắt ra tiếp khách, để
đến đỗi một đời hồng nhan đã phải kêu lên:
Bây
giờ sống thác ở tay,
Thân
này đã đến thế này thì thôi.
[TK
câu 1143 -1144]
Thân
lươn bao quản lấm đầu,
Tấm
lòng trinh bạch từ sau cũng chừa.
[TK
câu 1147 -1148]
Sự
đày đọa thân xác, nỗi khổ ấy mới chỉ là về thân. Sự
đau đớn chịu đựng trong lòng ngổn ngang xót xa trăm mối
mới là khổ đau cùng tận. Khổ đau đày đọa đến nỗi,
lòng kinh sợ ghê tởm chính mình, từ chối nhân diện hiện
tại của chính mình:
Khi
tỉnh rượu lúc tàn canh,
Giật
mình, mình lại thương mình xót xa.
Khi
sao phong gấm rũ là,
Giờ
sao tan tác như hoa giữa đường.
Mặt
sao dày gió dạn sương,
Thân
sao bướm chán ong chường bấy thân.
[TK
câu 1233 – 1238]
Nguyễn
tiên sinh đã dùng chữ “kiếp phong trần” (đời gió bụi)
để chỉ cho thân phận nàng Kiều:
Đã
đày vào kiếp phong trần,
Sao
cho sỉ nhục một lần mới thôi.
[TK
câu 1273 – 1274]
Kiều
đâu chỉ bị “sỉ nhục” một lần mà quá nhiều lần.
Hết Mã Giám Sinh, Tú bà, Sở Khanh đến Hoạn Thư cùng bọn
Ưng, Khuyển; hết Hoạn Thư đến Bạc bà, Bạc Hạnh rồi
đến Hồ Tôn Hiến giả nghĩa giả nhân đầy chất ngụy quân
tử. Bao nhiêu lần nàng cố tìm cách thoát khỏi cảnh tủi
nhục đọa đày, cũng bấy nhiêu lần nàng bị tha nhân vùi
dập “chim lồng không thể cất mình bay cao” để rồi than
một câu buông xuôi cho số phận:
Biết
thân chạy chẳng khỏi trời,
Cũng
liều má phấn cho rồi ngày xanh.
[TK
câu 2163 – 2164]
Với
thân phận khổ đau đày đọa của nàng Kiều- cùng với nhân
vật của mình – Nguyễn Du đã cho thấy trọn vẹn ý nghĩa
của hai chữ “Khổ Đế” trong đạo Phật và sự tiếp nối hiển nhiên: “Tập Đế”, nguyên nhân của khổ đau. Chưa
bao giờ nỗi khổ của thân người được đặc tả trong tất
cả sự biểu hiện sinh động của thi ca như thế, đến nỗi,
không chỉ người “trong cuộc” mà người “ngoài cuộc”
cũng thấy “đau đớn lòng” và cảm nghiệm như chính mình
cũng đang ở trong “bể trầm luân”.
Cũng
đúng thôi, cuộc đời có ai không thăng trầm trong những khổ
đau: Sanh, già, bệnh, chết, ái biệt ly, cầu bất đắc khổ…
Và trong tận cùng của đau khổ, con người mới có ý thức nỗ lực diệt khổ.
2.3.3
– CHỮ “TÂM” TRONG TRUYỆN KIỀU.
Đọc
thơ chữ Hán của Nguyễn Du, hẳn nhiều người ngạc nhiên
khi một môn sinh xuất sắc nơi “cửa Khổng sân Trình” viết:
Mãn
cảnh giai không hà hữu tướng,
Thử
tâm thường định bất ly thiền. [7, 175]
Tạm
dịch: Khắp cảnh đều
không đâu có tướng
Tâm
nầy thường định chính là Thiền.
hay: Nhân liễu thử tâm nhân tự độ
Linh
Sơn chỉ tại nhữ tâm đầu. [7, 538]
Tạm
Dịch: Người liễu ngộ
được tâm này thì người tự độ thoát,
Linh
sơn chỉ tại tâm người mà thôi.
Từ
ngạc nhiên đi đến thú vị và chợt nhận ra rằng, Tố Như
tử không chỉ là nhà Nho uyên bác mà còn là người am hiểu Phật học sâu sắc, gần như sở ngộ. Có thể Nguyễn tiên
sinh chưa bao giờ là Phật tử, nhưng có hề chi! Sự am hiểu
Phật lý ấy thật dễ hiểu như nhà thơ thú nhận “Ngã độc
Kim cương thiên biến linh” [7, 536]. Người đã đọc kinh Kim
cương hơn nghìn lần thì ắt hẳn chẳng phải là vô tình,
thờ ơ mà phải là người chú tâm nghiên cứu tìm hiểu. Thế
nên, một chữ “Tâm” đầy sở ngộ này của Nguyễn
tiên sinh, ta sẽ không thấy lạ khi nó lại xuất hiện ở
tác phẩm “Đoạn trường tân thanh” của ông.
Nếu
như truyện Kiều mở đầu bằng cách mở ra một viễn cảnh
đầy Vô thường biến động và khổ đau, một cuộc “Bể
dâu” được giới hạn bởi “Trăm năm trong cõi người ta”,
thì ở phần kết, Nguyễn tiên sinh hạ bút:
Có
tài mà cậy chi tài,
Chữ
tài liền với chữ tai một vần.
Đã
mang lấy nghiệp vào thân,
Cũng
đành trách lẫn trời gần trời xa.
Thiện
căn ở tại lòng ta,
Chữ
Tâm kia mới bằng ba chữ tài.
[TK
câu 3247 –3252]
Như
thế, sự mở đầu là “Tài – Mệnh” nhưng kết thúc là
“ Tài – Nghiệp”. Tư tưởng chủ đạo của Nguyễn Du đã
rõ: dùng chữ “Tâm” đối lại với chữ “Tài” và bù
đắp cho “Tài”. Tư tưởng này đã có dụng ý ngay từ trong
toàn bộ bố cục tác phẩm. Một chữ “Tâm” – trong truyền
thống Thiền học Phật Giáo – mà Nguyễn tiên sinh đã thấm
đượm, nằm lòng. Chính chữ “Tâm” này đã sửa thuyết
“Tài Mệnh tương đố” của Nho giáo, đã gạt đi những
“Thần cơ huyền toán” của Lão giáo trong tư tưởng truyện
Kiều và nói lên nhân sinh quan của Tố Như Tử.
Đạo
Phật chủ trương “Nhất thiết duy tâm tạo”, tất cả đều
do một chữ “Tâm” mà ra. Kinh Pháp cú dạy:
Tâm
dẫn đầu các pháp,
Tâm
là chủ, tâm tạo;
Nếu
với tâm ô nhiễm,
Nói
năng hay hành động,
Khổ
não bước theo sau,
Như
xe, chân vật kéo. [2, 11]
Một
chữ “Tâm” xuyên suốt đông tây, quán triệt cổ kim, sau
trước. Thế nên, tâm không thì trời đất thênh thang, thơ
thới; tâm hữu thì nước non khúc khuỷu, gập ghềnh. Chỉ
với một cái “Tâm” bao trùm sum la vạn tượng ấy, chúng
sanh có ra vô số nghiệp thức hiện hành.
Tâm
hồn mẫn cảm của Thúy Kiều là biểu hiện rõ nét cho một
chữ “Tâm” trong triết lý Phật giáo như thế. Một buổi
đi chơi gặp mộ Đạm Tiên, nghe sơ qua tiểu sử cuộc đời
cô kỹ nữ xa lạ, Kiều liên tưởng đến mình:
Nỗi
niềm tưởng đến mà đau,
Thấy
người nằm đó biết sau thế nào?
[TK
câu 109 – 110]
Kiều
có niềm tin “chết người” rằng những người tài hoa,
xinh đẹp như nàng đều “bạc mệnh”, “đoạn trường”
và cuộc đời nàng rồi đây sẽ là một “bản sao” của
Đạm Tiên không khác, trong khi Thúy Vân rất bình thản:
Vân
rằng: “chị cũng nực cười,
Khéo
dư nước mắt khóc người đời xưa!”
[TK
câu 105-106]
còn
Vương Quan thì lo sợ:
Quan
rằng: “chị nói hay sao,
Một
lời là một vận vào khó nghe.”
[TK
câu 111-112]
Trong
tâm thức Kiều đã ngầm chứa những hạt giống khổ đau,
bạc mệnh. Thành ra “Đồng thanh tương ứng, đồng khí tương
cầu”, Kiều cảm nhận điều mà Thúy Vân, Vương Quan không
hay, không biết. Chính cái tâm thức đầy đảo điên, mộng
mị này của Kiều đã đưa nàng vào chốn đoạn trường trước
hết.
Hãy
nghe những lần Kiều đánh đàn: Cũng ngón đàn ấy, cung bậc
ấy và con người ấy mà, Kiều đàn lần đầu tiên khi gặp
Kim Trọng:
Ngọn
đèn khi tỏ khi mờ,
Khiến
người ngồi đó cũng ngơ ngẩn sầu.
Khi
tựa gối khi cuối đầu,
Khi
vò chín khúc, khi chau đôi mày.
Rằng
“hay thì thực là hay,
Nghe
ra ngậm đắng nuốt cay thế nào!”
[TK
câu 485-488]
Kiều
đàn hầu tiệc rượu cho vợ chồng Thúc Sinh:
Bốn
dây như khóc như than,
Khiến
người trên tiệc cũng tan nát lòng!
[TK
câu 1853-1854]
rồi
trong đau khổ, tuyệt vọng tận cùng, Kiều bị bắt đàn hầu
tiệc mừng công của Hồ Tôn Hiến:
Một
cung gió thảm, mưa sầu,
Bốn
dây nhỏ máu trên đầu ngón tay.
Ve
ngâm, vượn hót nào tày,
Lọt
tai Hồ cũng nhăn mày rơi châu.
[TK
câu 2569-2572]
Tiếng
đàn của Kiều không còn là tiếng đàn nữa mà là tiếng
lòng thổn thức từ Kiều thốt ra. Trong trạng thái tận cùng
của sự đau khổ, tuyệt vọng, Kiều dồn hết tâm trạng
vào dây đàn và “tiếng lòng” ấy rung lên, đủ sức làm
“tan nát lòng” Thúc Sinh, làm “nhăn mày rơi châu” một
người như Hồ Tôn Hiến!
Nghe
tiếng đàn sau cùng trong cuộc đời Kiều, ta cảm nhận thêm
được vai trò của tâm thức quan trọng như thế nào trong
cuộc sống mỗi một con người. Sau mười lăm năm lưu lạc,
chịu biết bao tủi nhục, đọa đày, Kiều tái hợp gia đình
trong niềm vui khôn tả. Trong đêm hội ngộ người tình xưa,
Kiều lại đàn và lần này thì:
Trong
sao châu nhỏ duềnh quyên,
Ấm
sao hạt ngọc Lam Điền mới đông!
[TK
câu 3203-3204]
Kim
Trọng nghe và cảm nhận được tất cả qua tiếng đàn của
Kiều và chàng ngạc nhiên:
Chàng
rằng: “Phổ ấy tay nào,
Xưa
sao sầu thảm, nay sao vui vầy?”
[TK
câu 3207-3208]
Trong
quan niệm xưa cho rằng: chính tiếng đàn đã góp phần đưa
Kiều vào chốn đoạn trường. Kiều cũng có niềm tin như
thế, như nàng thú nhận:
Nàng
rằng: “vì chút nghề chơi,
Đoạn
trường tiếng ấy hại người bấy lâu.”
[TK
câu 3211-3212]
Kỳ
thực không phải vậy! Đúng hơn là một sự ngược lại.
Tâm thức Kiều luôn bị ám ảnh bởi hai chữ “đoạn trường”
tai hại nên mọi suy nghĩ, hành động của nàng đều tập
trung “vận” vào hai chữ ấy mà không thể thoát ra được.
Đó là cách nhìn của Duy thức học Phật giáo mà nhà thơ
họ Nguyễn chắc đã am tường chăng? Nỗi “tự kỷ ám thị”
hết sức tai hại như thế đã theo nàng từ ngày còn bé thơ,
bắt đầu từ lời một ông thầy bói vu vơ nào đấy:
Nhớ
từ năm hãy thơ ngây,
Có
người tướng sĩ đoán ngay một lời.
Anh
hoa phát tiết ra ngoài,
Nghìn
thu bạc mệnh một đời tài hoa.
[TK
câu 413-416]
Thêm
vào đó là bóng ma ám ảnh của Đạm Tiên. Đạm Tiên đã
theo sát Kiều trên mọi nẻo đường của cuộc đời nàng
khi sống cũng như khi sắp chết. Đọc truyện Kiều hẳn ai
cũng thấy như vậy! Nhưng đúng hơn, phải nói là Kiều gặp
Đạm Tiên, “nhận” làm tri kỷ, tri âm rồi từ đó Kiều
luôn “dắt” Đạm Tiên theo bên mình. Trong tâm thức, Kiều
không thể nghĩ và không thể tin rằng mình sẽ sống khác
Đạm Tiên và “cãi lời” thầy bói được. Cái nghiệp thức tai hại mà Kiều tạo ra cho mình là thế, nên:
Vậy
nên những chốn thong dong,
Ở
không yên ổn, ngồi không vững vàng.
Ma
đưa lối, quỷ dẫn đường,
Lại
tìm những chốn đoạn trường mà đi.
[TK
câu 2663-2666]
Nguyễn
Du còn tỏ ra là bậc thầy về Duy thức học Phật giáo khi
ông viết những vần thơ như:
Sầu
đong càng lắc càng đầy,
Ba
thu dọn lại một ngày dài ghê.
[TK
câu 247-248]
hay:
Cảnh
nào cảnh chẳng đeo sầu,
Người
buồn cảnh có vui đâu bao giờ.
[TK
câu 1243-1244]
Một
chữ “Tâm” giàu tính triết lý mà Nguyễn tiên sinh thâm
nhập từ hệ thống triết học “Tánh Không” của Kim Cang Bát Nhã, nhà thơ đã vận dụng triệt để vào tác phẩm của
mình một cách thật tài tình. Chỉ với ai đọc Kiều với
tất cả chiều sâu tâm thức mới nhận ra. Chẳng trách gì
khi những môn đồ trung kiên của Nho gia chỉ trích nhà thơ
khi ông viết:
Như
nàng lấy Hiếu làm trinh,
Bụi
nào cho đục được mình ấy vay?
[TK
câu 3119-3120]
Trong
khi Nho giáo quan niệm phụ nữ như một thứ bậc phụ trong
xã hội, sinh ra và lớn lên chỉ để suốt đời nương tựa
vào người đàn ông, trở thành một thứ trang sức, thậm
chí là món đồ chơi cao cấp và cầu kỳ của người đàn
ông. Với quan niệm khắt nghiệt và bất công đó, chữ Trinh
của người phụ nữ được đặt ở vị trí hàng đầu trong
đánh giá nhân cách và tư cách của họ mà thật sự ra, đó
chỉ là một hình thức khác của lòng tham lam và bất công,
chỉ muốn chiếm hữu và độc quyền đối với người phụ
nữ. Trong xã hội mà quan niệm như thế còn thống trị, thì
hai câu thơ trên đã thể hiên sự tiến bộ và phóng khoáng
không ngờ trong nhận thức tư tưởng của nhà thơ.
Nguyễn
Du thực tế cũng là một nhà Nho chính hiệu, nên những quan
niệm bảo thủ về một chữ trinh như vậy không xa lạ gì
với ông. Có ý kiến cho rằng nhà thơ viết như thế là xuất
phát từ lòng thương yêu của nhà thơ đối với Kiều và
đó là tư tưởng nhân đạo của tác phẩm. Đành vậy, nhưng
theo người viết còn có một lý do nữa ít được đề cập
đến. Đó là, Nguyễn tiên sinh đã vận dụng tinh thần vô
ngã, thái độ vô chấp của thiền học trong đánh giá vấn
đề. Chữ trinh hay sự trong sạch chỉ có ý nghĩa tương đối
về mặt hình thức còn thật sự tâm mới là chủ thể tạo
tác, làm nên một nhân cách sạch hay nhơ. Kiều không vì ham
muốn dục vọng để thất trinh tiết mà đó là một sự hy
sinh. Ta có thể nói như đạo Phật: đó là một đại nguyện
của Kiều. Hiểu như thế, ta càng thấy Nguyễn Du vĩ đại
trong tư tưởng và độ lượng với cuộc đời.
KẾT
LUẬN.
Hai
trăm năm lẻ đã trôi qua với bao nhiêu “cuộc bể dâu”
trường thiên biến động của quy luật vô thường, “người
cha tóc trắng của thi ca và tư tưởng Việt Nam” [10, 13] đã
thành người thiên cổ nhưng những gì ông để lại cho đời
vẫn sống mãi với thời gian. Đó là những vần thơ có “…máu
chảy trên đầu ngọn bút, nước mắt thấm ở trên tờ giấy…”
[3, 168] chan chứa tình thương, thấm đẫm nỗi niềm. Những
gì nhà thơ họ Nguyễn đóng góp vào cho gia sản văn hóa Dân
tộc thật lớn lao và vô giá. Vấn đề là chúng ta đã khai
thác và ứng dụng làm sao để những giá trị đó có ý nghĩa,
tác dụng thiết thực nhất cho hậu thế.
Truyện
Kiều với ngôn từ mỹ lệ, hình ảnh trác tuyệt, văn phong
súc tích từng chữ, từng câu, thiên tài họ Nguyễn đã làm
nên vẻ đẹp văn chương vô tiền khoáng hậu trong kho tàng
văn học cổ điển. Một yếu tố này đủ đưa Nguyễn Du
lên hàng Thi Thánh trên thi đàn văn học Việt Nam. Nhưng nếu
chỉ có vậy thì truyện Kiều cũng mới chỉ là đóa hoa có
sắc không hương, làm sao có sức lay động lòng người đến
thế! Nói khác hơn, giá trị toàn hảo ở tác phẩm này của
nhà thơ không thể chỉ nằm trong tính kiệt tác của văn chương
mà còn nằm trong tư tưởng mà văn chương ấy chuyển tải.
Nguyễn Du đã không đi vào tâm tư, tình cảm của dân tộc
nếu nhà thơ chỉ là người thợ tuyệt xảo về ngôn ngữ
mà không có tư tưởng triết lý sâu sắc.
“Văn
dĩ tải đạo”, đó là quan niệm văn chương, là đường
hướng sáng tác của người xưa. Qua văn chương để chuyển
tải những thông điệp đạo lý, những mạch nguồn tư tưởng
mà tác giả đã hấp thụ và chắc lọc. Xưa nay, một tác
phẩm văn chương dù lớn hay nhỏ, nghị luận hay văn học,
để sống mãi trong lòng người với thời gian đều phải
hội đủ những yếu tố ấy. Truyện Kiều của Nguyễn Du
là một tác phẩm như thế!
Với
những gì đã khảo sát ở phần nội dung, tuy còn rất hạn
cuộc do khả năng của người viết và chưa thể đầy đủ
trong khuôn khổ giới hạn của một Luận văn, nhưng cũng
đã phần nào cho chúng ta thấy được tầm ảnh hưởng của
những giáo lý Phật giáo trong tuyệt tác truyện Kiều của
Nguyễn tiên sinh. Những lý thuyết Phật học rất phổ thông
và đại chúng được nhà thơ núi Hồng Lĩnh đưa vào tác
phẩm một cách thần tình và linh hoạt đến nỗi người đọc
không có cảm tưởng đối diện với những triết lý gay go.
Lý luận triết học đã được thi hóa, được viết nên bởi
chính từ con tim chứ không phải lý trí, thành những vần
thơ tuyệt kỹ, đượm vị đời trong đạo, đạo trong đời.
Cuộc
đời Thúy Kiều, nhân vật chính của câu chuyện, là một
cuộc đời với tất cả khổ đau tận cùng nhất của một
kiếp nhân sinh, là hình ảnh minh họa rõ nét cho một chữ
Khổ mà con người phải gánh chịu khi thọ nhận kiếp làm
người. Nguyên nhân của việc phải chịu khổ đau đó là
do nghiệp lực của chính mình tạo ra, do những nhân tham ái,
vô minh đã gieo trồng trong nhiều kiếp, chứ không phải một
đấng tối cao nào có thể áp đặt vào, mặc dù đấng tối
cao đó vẫn hiện diện trong câu chuyện của nhà thơ.
Kiều
phải chịu bao đau khổ cùng cực và trong nàng đã có ý nghĩ
buông xuôi:
Biết
thân chạy chẳng khỏi trời,
Cũng
liều mặt phấn cho rồi ngày xanh.
[TK
câu 2163 – 2164]
hay
đã từng tận cùng của sự tuyệt vọng:
Thôi
thì một thác cho rồi,
Tấm
lòng phó mặc trên trời dưới sông.
[TK
câu 2633 – 2634]
Nhưng
ngoài một vài lần quá khổ đau, quá phẫn uất để phải
như thế, trong Kiều vẫn tiềm tàng một khao khát được giải
thoát, tìm mọi cách để được giải thoát. Do nghiệp duyên
nội tại và hoàn cảnh ngoại lai, nàng đã không thoát được
như mong muốn nhưng tâm trạng khát khao ấy là có thật. Hành
động Kiều trốn đi với Sở Khanh mặc dù “nghe lời nàng
đã sinh nghi” [TK câu 1113]; rồi Kiều nhận lời làm vợ lẽ
Thúc Sinh; Kiều theo về với Từ Hải đều nằm trong ý hướng
ấy. Trong tận cùng của đau khổ, nhận diện được đau khổ,
con người mới khát khao, ý thức diệt khổ. Diệt Khổ có
căn nguyên từ trong chân lý “đời là bể khổ”. Trong ý
nghĩa ấy và trên bình diện triết lý, truyện Kiều đã hàm
chứa hai Thánh Đế “Khổ” và “Tập” của Đạo Phật
rồi.
Nếu
để ý, chúng ta sẽ thấy rằng suốt trên quãng đường mười
lăm năm lưu lạc của Kiều, những tháng ngày ngắn ngủi được
an ổn nhất của nàng là những lần được nương náu dưới
cửa Chùa, kể cả ở Quan Âm các của Hoạn Thư. Nguyễn Du
đã thấy được chỉ có mái Chùa, hiện thân của Đạo Phật
giữa cuộc đời mới đủ sức cứu vớt, che chở cho nàng
Kiều tội nghiệp của ông. Tiếc rằng nghiệp duyên còn nặng,
Kiều đã không thể “tắt lửa lòng” như nhà thơ mong mỏi.
Và
sau hết, thông điệp về tư tưởng có ý nghĩa thâm áo nhất
mà nhà thơ họ Nguyễn muốn gửi lại cho hậu thế là một
chữ “Tâm” đặc sắc của Duy Thức học Phật giáo. Một
chữ “Tâm” mà để nghe ra, nhà thơ đã đọc cả nghìn lần
Kinh Kim Cương. Một chữ “Tâm” thiên biến vạn hóa, tác
nhân của hạnh phúc hay khổ đau, Niết bàn hay địa ngục.
Một chữ “Tâm” làm thiện căn tăng trưởng, đưa con người
đến bến bờ an lạc vĩnh hằng:
Kiếp
phù sinh như hình bào ảnh,
Có
câu rằng: “vạn cảnh giai không.”
Ai
ai lấy Phật làm lòng,
Tự
nhiên siêu thoát ở trong luân hồi. [13, 408]
Đọc
truyện Kiều qua lăng kính Phật học, ta chợt nhận ra bao nhiêu
tư tưởng Phật giáo ẩn trong những vần thơ ngọt ngào, giàu
hình ảnh, âm điệu của Nguyễn tiên sinh. Nguồn tư tưởng
ấy góp phần tạo nên phần hồn sâu kín cho tác phẩm. Như
những hạt vàng chưa được đãi lọc, chúng ta hy vọng trong
tương lai sẽ được đọc những công trình biên khảo lớn
hơn, đầy đủ và sâu sắc hơn về tư tưởng này của các
bậc “túc Nho đạt Thích” để truyện Kiều không chỉ là
“mua vui cũng được một vài trống canh” như nhà thơ khiêm
tốn tự nhận.
Trong
thời đại mà nhà thơ họ Nguyễn sống, Phật giáo không còn
ở địa vị độc tôn như ở các triều đại nhà Lý, nhà
Trần trước đó, thậm chí còn suy vi, lu mờ. Tư tưởng đạo
Phật không còn đóng vai trò chủ đạo trong xã hội mà nhường
hẳn vũ đài ấy cho Nho giáo. Những trí thức đương thời
không còn nhìn thấy ở Phật giáo những tư tưởng nhập thế tích cực làm ích nước lợi dân nữa mà chỉ là những bi
quan, yếm thế, chán đời. Đó là do hoàn cảnh khách quan và
hạn chế của một giai đoạn lịch sử nhất định. Trong
bối cảnh như thế, chúng ta càng thấy ý nghĩa hơn khi ẩn
chứa và bàng bạc trong tác phẩm của một nhà thơ lớn đương
thời những tư tưởng Phật học sâu sắc, thâm trầm như
thế.
Bất
tri tam bách dư niên hậu,
Thiên
hạ hà nhân khấp Tố Như.
(Ba
trăm năm nữa người thiên hạ,
Chả
biết còn ai khóc Tố Như?)
[7,
185-186]
Vâng,
chắc chắn đã và sẽ còn nhiều, rất nhiều người hậu
thế khóc Tố Như, tiếc thương và đồng điệu cùng Nhà thơ
núi Hồng Lĩnh trong niềm đau bọt bèo chìm nổi của thân
phận con người. Tiếng khóc ấy sẽ ý nghĩa hơn, chân tình
và tích cực hơn nếu hậu thế biết tìm về ngọn nguồn
tâm sự của nhà thơ gửi lại ngàn sau: đó là những triết
lý thâm uyên mà cũng thật dễ hiểu, dễ nhận ra, được
ẩn chứa trong những vần thơ diễm lệ, ảo huyền. Những
tâm sự mà nhà thơ đã viết nên với “…con mắt trông thấu
cả sáu cõi, tấm lòng nghĩ suốt cả ngàn đời…” [3, 169]
như Tiên Phong Mộng Liên Đường Chủ nhân từng nhận xét.
Tài
liệu tham khảo
1. an Văn hóa Trung ương GHPGVN, Tập Văn Vu Lan số 33, PL.2539, 1995.
2. Thích Minh Châu, Kinh Pháp Cú, Thiền Viện Vạn Hạnh ấn hành,
1996.
3. Trịnh Bá Đỉnh, Nguyễn Du -Về tác gia và tác phẩm, Nhà Xuất
bản Giáo dục, 2002.
4.Dương
Quảng Hàm, Việt nam văn học sử yếu, Nhà Xuất bản tổng
hợp Đồng tháp, 1993.
5. Nhất Hạnh, Thả một bè lau, Lá Bối xuất bản, 2000.
6. Nguyễn Lang, Việt Nam Phật giáo sử luận, tập II, Nhà Xuất
bản văn học, Hà Nội, 1994.
7.
Mai Quốc Liên, Nguyễn Du toàn tập- Thơ chữ Hán, tập 1, Nhà
Xuất bản Giáo dục- Trung tâm nghiên cứu Quốc học, 1996.
8. Nguyễn Lộc, Văn học Việt nam (nửa cuối thế kỷ XVIII- Hết
thế kỷ XIX), Nhà xuất bản Giáo dục, 1999.
9. Phạm Công Thiện, Nguyễn Du- Đại Thi hào dân tộc, Viện Triết
lý Việt nam và triết học thế giới, 1996.
10.
Nguyễn Khắc Thuần, Lịch sử cổ trung đại Việt Nam, Nhà
Xuất bản văn hóa – thông tin, Hà Nội, 2002.
11.
Nguyễn Tài Thư chủ biên, Lịch sử Phật giáo Việt nam, Nhà
Xuất bản khoa học xã hội, 1991.
12.
Nguyễn Quảng Tuân, Nguyễn Du toàn tập- Truyện Kiều, tập
2, nhà Xuất bản Giáo dục- Trung tâm nghiên cứu Quốc học,
1996.
13.
Đỗ Minh Tuấn, Nghệ thuật trữ tình của Nguyễn Du trong truyện
Kiều, Nhà Xuất bản văn hóa – thông tin, Hà Nội, 1995.
14.
Thích Thanh Từ, Thiền sư Việt Nam, Nhà Xuất bản Thành phố
Hồ Chí Minh, 1999.
Người
gửi bài: Tâm Minh Nguyễn Ngọc Giao