Trường Tiểu học Tân Định: Nâng cao kĩ năng viết văn cho học sinh lớp 5 bằng phương pháp dạy học trải nghiệm – Chi tiết tìm kiếm – Cổng thông tin điện tử Quận Hoàng Mai
Tiếng Việt đóng vai trò vô cùng to lớn trong việc hình thành những phẩm chất quan trọng nhất của con người và trong việc thực hiện những nhiệm vụ của hệ thống giáo dục. Ngay từ bậc Tiểu học, môn Tiếng Việt đã được xem là một trong những môn học có vai trò quan trọng đặc biệt. Trong môn Tiếng Việt có nhiều phân môn: Học vần, Tập viết, Chính tả, Tập đọc, Luyện từ và câu, TLV. Mỗi phân môn chứa đựng một bộ phận kiến thức nhất định, chúng bổ trợ cho nhau để người học học tốt Tiếng Việt
Trong đó, TLV có vị trí đặc biệt trong quá trình dạy học tiếng mẹ đẻ. Mặc dù đã được làm quen và luyện viết các đoạn văn miêu tả, kể chuyện, ngay từ những lớp dưới tuy nhiên để hoàn thành một bài văn với đầy đủ nội dung và diễn đạt lưu loát, trôi chảy, ấn tượng thì đối với HS lớp 5 vẫn thường rất khó khăn.Bên cạnh đó, đối với GV, TLV là phân môn khó dạy. Vậy làm thế nào để giúp GV dạy tốt và giúp các em có thể viết được bài văn hay để đạt kết quả cao phân môn TLV? Albert Einstein (1879-1955) đã từng nói: “Chỉ có trải nghiệm mới là hiểu biết, còn tất cả các thứ khác chỉ là thông tin”. Do đó, việc vận dụng dạy học trải nghiệm thực tế để nâng cao kĩ năng viết văn cho HS, để HS có vốn sống thực tế, có cảm xúc chân thật, phát huy được trí tưởng tượng là một việc làm cần thiết và cần được triển khai một cách rộng rãi đến GV và HS. Thấy được tầm quan trọng của việc dạy học trải nghiệm trong phân môn TLV, cô giáo Trần Thu Trang đã lựa chọn đề tài “Nâng cao kĩ năng viết văn cho HS lớp 5 bằng phương pháp dạy học trải nghiệm” để nghiên cứu nhằm nâng cao hiệu quả dạy và học phân môn TLV cho GV và HS.
PHẦN I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
1. Tiếng Việt đóng vai trò vô cùng to lớn trong việc hình thành những phẩm chất quan trọng nhất của con người và trong việc thực hiện những nhiệm vụ của hệ thống giáo dục. HS tiểu học là lứa tuổi hồn nhiên, ngây thơ, dễ xúc động như K.A.U Sinxki có nói “Trẻ em đi vào trong đời sống tinh thần của mọi người xung quanh nó, duy nhất thông qua phương tiện tiếng mẹ đẻ và ngược lại thế giới bao quanh đứa trẻ được phản ảnh trong đó chỉ thông qua công cụ này”. Do vậy, việc phát triển tiếng Việt và bảo vệ sự trong sáng của tiếng Việt có thể nói là một công việc lớn đặt ra cho tất cả chúng ta.
2. Ngay từ bậc Tiểu học, môn Tiếng Việt đã được xem là một trong những môn học có vai trò quan trọng đặc biệt. Môn Tiếng Việt trong chương trình Tiểu học có nhiệm vụ hoàn thành năng lực hoạt động ngôn ngữ cho HS. Năng lực hoạt động ngôn ngữ được thể hiện trong 4 dạng hoạt động, tương ứng với bốn kỹ năng: nghe, nói, đọc, viết. Từ đó, các em có thể học tập và giao tiếp trong môi trường học tập lứa tuổi, giúp HS có cơ sở để tiếp thu kiến thức ở lớp trên. Trong môn Tiếng Việt có nhiều phân môn: Học vần, Tập viết, Chính tả, Tập đọc, Luyện từ và câu, TLV. Mỗi phân môn chứa đựng một bộ phận kiến thức nhất định, chúng bổ trợ cho nhau để người học học tốt Tiếng Việt. Trong đó, TLV có vị trí đặc biệt trong quá trình dạy học tiếng mẹ đẻ bởi vì: phân môn TLV sử dụng và hoàn thiện một cách tổng hợp các kiến thức và kĩ năng tiếng Việt mà các phân môn Tiếng Việt khác đã hình thành; rèn cho HS kĩ năng sản sinh ngôn bản, nhờ đó tiếng Việt không chỉ được xem xét từng phần, từng mặt qua từng phân môn mà còn trở thành một công cụ tổng hợp để giao tiếp. Đây là phân môn mang tính chất tổng hợp, sáng tạo, thực hành, thể hiện đậm nét dấu ấn cá nhân. Có thể thấy, phân môn TLV đã thực hiện mục tiêu cuối cùng, quan trọng nhất của dạy học tiếng mẹ đẻ, đó là dạy HS sử dụng tiếng Việt trong đời sống sinh hoạt, trong quá trình lĩnh hội các tri thức khoa học… TLV, viết văn, hành văn là cái đích cuối cùng cao nhất của việc học tiếng Việt ở tiểu học. Đối với HS tiểu học, biết nói đúng, viết đúng, diễn đạt mạch lạc đã là khó; để nói, viết hay, có cảm xúc, giàu hình ảnh lại khó hơn nhiều. Cái khó ấy chính là cái đích mà phân môn TLV đòi hỏi người học cần dần đạt tới. Từ đó, các em được mở rộng vốn sống, rèn luyện tư duy, bồi dưỡng tâm hồn, cảm xúc thẩm mỹ, hình thành nhân cách.
3. Chương trình TLV ở tiểu học dạy cho HS cách làm các bài văn miêu tả, kể chuyện. Ngay từ lớp 2, 3, các em đã được làm quen với các thể loại văn này khi được tập quan sát, kể lại câu chuyện ngắn và trả lời câu hỏi. Ở lớp 4, các em được tìm hiểu cụ thể về các thể loại văn và được viết thành các bài văn hoàn chỉnh. Lên lớp 5, các em được hoàn thiện kĩ năng viết văn thông qua các tiết lập dàn ý và tăng cường viết các bài văn hoàn chỉnh. Mặc dù đã được làm quen và luyện viết các đoạn văn miêu tả, kể chuyện ngay từ những lớp dưới tuy nhiên để hoàn thành một bài văn với đầy đủ nội dung và diễn đạt lưu loát, trôi chảy, ấn tượng thì đối với HS lớp 5 vẫn thường rất khó khăn. Nhiều em không biết bắt đầu từ đâu, phải nói và viết những gì, viết như thế nào.
4. Bên cạnh đó, đối với GV, TLV là phân môn khó dạy. GV còn thiếu linh hoạt trong vận dụng phương pháp và chưa sáng tạo trong việc tổ chức các hoạt động học tập của HS. Vì vậy, không phải dạy loại văn nào cũng đạt hiệu quả như mong muốn và không phải GV nào cũng dạy tốt các dạng văn. Việc tìm ra các phương pháp để hướng dẫn HS quan sát, tìm ý, lập dàn ý, tưởng tượng…của GV cũng còn nhiều hạn chế. Vậy làm thế nào để giúp GV dạy tốt và giúp các em có thể viết được bài văn hay để đạt kết quả cao phân môn TLV? Có rất nhiều chỉ tiêu cần đạt để có thể đánh giá một giờ học là “giờ học tốt”. Về phía GV, đó là việc chuẩn bị bài, các bước lên lớp, cách giao tiếp với HS trong giờ học. Tuy nhiên, mục đích của giáo dục là hướng đến sự phát triển của HS, vì vậy đánh giá một giờ học thông qua HS là một trong những chỉ tiêu quan trọng và không thể thiếu. Một giờ học mà mọi thứ đều hoàn hảo, ngoại trừ tinh thần học tập, mức độ tiếp thu bài của HS thì giờ học đó cũng không bao giờ được đánh giá cao. Thông qua trải nghiệm thực tế HS không những có thêm kiến thức, kĩ năng mới và bổ ích từ bài học; áp dụng được nội dung bài học vào những tình huống phù hợp trong cuộc sống hoặc trong các bài tập ứng dụng của bài học một cách hiệu quả nhất, mà còn có tinh thần hào hứng tham gia các hoạt động học tập – điều mà các giờ học “nghiêm túc, quy củ” ngày nay chưa gợi được cho HS một cách tốt nhất. Chỉ khi được làm, được trải nghiệm thì học sinh mới có thể khắc sâu và ghi nhớ kiến thức một cách rõ ràng nhất. Đúng như Albert Einstein (1879-1955) đã từng nói: “Chỉ có trải nghiệm mới là hiểu biết, còn tất cả các thứ khác chỉ là thông tin”. Do đó, việc vận dụng dạy học trải nghiệm thực tế để nâng cao kĩ năng viết văn cho HS, để HS có vốn sống thực tế, có cảm xúc chân thật, phát huy được trí tưởng tượng là một việc làm cần thiết và cần được triển khai một cách rộng rãi đến GV và HS.
Xuất phát từ những lí do trên, tôi mạnh dạn lựa chọn đề tài: “Nâng cao kĩ năng viết văn cho HS lớp 5 bằng phương pháp dạy học trải nghiệm” với hi vọng góp phần nâng cao chất lượng dạy và học văn ở lớp 5.
PHẦN II. PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
1. Những cơ sở lí luận cho việc nâng cao kĩ năng viết văn cho HS lớp 5
1.1. Những vấn đề về tâm lí làm cơ sở để nâng cao kĩ năng viết văn cho HS lớp 5
Tư duy của HS lớp 5 đã thoát ra khỏi tính chất trực tiếp của tri giác và mang dần tính trừu tượng, khái quát. Nói cách khác, tư duy trực quan hình tượng ở HS lớp 5 phát triển mạnh. Các em nắm được mối quan hệ của khái niệm. Những thao tác về tư duy như phân loại, phân hạng, tính toán, không gian, thời gian, được hình thành và phát triển mạnh. Các em có khả năng phân biệt những dấu hiệu, những đặc điểm của đối tượng dưới dạng ngôn ngữ và sắp xếp chúng vào một hệ thống nhất định. Các em đã biết dựa nhiều vào cả dấu hiệu bản chất lẫn không bản chất để phán đoán nên phán đoán có tính giả định. Hơn thế nữa, các em còn có thể chứng minh, lập luận cho phán đoán của mình. Tuy nhiên, hoạt động phân tích, tổng hợp kiến thức còn sơ đẳng ở phần đông học sinh tiểu học.
Về phát triển của trí nhớ, ghi nhớ có chủ định được hình thành và phát triển dần trong quá trình học tập và được hình thành rõ nét ở từ lớp 3. Lên đến lớp 5, khả năng ghi nhớ có ý nghĩa và ghi nhớ từ ngữ của HS được tăng cường. Ghi nhớ có chủ định phát triển mạnh. Tuy nhiên, hiệu quả của việc ghi nhớ có chủ định vẫn còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố như mức độ tích cực tập trung trí tuệ của các em, sức hấp dẫn của nội dung tài liệu, yếu tố tâm lý tình cảm hay hứng thú của các em. Ở lớp 5, trí nhớ của các em cũng có sự tham gia tích cực của ngôn ngữ. Vì vậy mà ngôn ngữ đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc thúc đẩy trí nhớ có chủ định phát triển. Nhờ có ngôn ngữ, các em diễn đạt được những tri thức đã biết bằng lời, bằng chữ viết của mình, điều này không chỉ quan trọng cho việc phát triển trí nhớ mà còn rất quan trọng đối với sự phát triển trí tưởng tượng, tư duy của các em sau này.
Lên lớp 5, sự phát triển của tưởng tượng ở các em chủ yếu là phát triển tưởng tượng tái tạo cụ thể. Tưởng tượng của các em trong lứa tuổi này phát triển theo xu hướng rút gọn và khái quát hơn. Hình ảnh tưởng tượng của HS lớp 5 đã dần chính xác và rõ ràng. Các yếu tố, chi tiết thừa trong hình ảnh ngày càng giảm và hình ảnh được gọt giũa, tinh giản nên mạch lạc và sát thực hơn. Đặc điểm này được phát triển song song với ghi nhớ có ý nghĩa. Tưởng tượng sáng tạo tương đối phát triển ở giai đoạn cuối tuổi tiểu học, trẻ bắt đầu phát triển khả năng làm thơ, làm văn, vẽ tranh. Đặc biệt, tưởng tượng của các em trong giai đoạn này bị chi phối mạnh mẽ bởi các xúc cảm, tình cảm, những hình ảnh, sự việc, hiện tượng đều gắn liền với các rung động tình cảm của các em.
Ngôn ngữ có vai trò hết sức quan trọng đối với quá trình nhận thức cảm tính và lý tính của HS, nhờ có ngôn ngữ mà cảm giác, tri giác, tư duy, tưởng tượng của các em phát triển dễ dàng và được biểu hiện cụ thể thông qua ngôn ngữ nói và viết của mình. Mặt khác, thông qua khả năng ngôn ngữ, ta có thể đánh giá được sự phát triển trí tuệ của HS. Đến lớp 5, ngôn ngữ viết của các em đã thành thạo và bắt đầu hoàn thiện về mặt ngữ pháp, chính tả và ngữ âm. Khả năng hiểu nghĩa của từ cũng phát triển: từ chỗ hiểu một cách cụ thể, cảm tính đến hiểu khái quát và trừu tượng nghĩa của từ. Nhờ có ngôn ngữ phát triển mà các em có khả năng tự đọc, tự học, tự nhận thức thế giới xung quanh và tự khám phá bản thân thông qua các kênh thông tin khác nhau. Tuy nhiên, các em chỉ thường hiểu nghĩa của từ khi được gắn với nội dung cụ thể của bài. Việc hiểu nghĩa bóng của từ còn khó khăn đối với các em. Do đó, có nhiều trường hợp các em hiểu nghĩa của từ chưa chính xác, nắm ngữ pháp chưa chắc dẫn đến việc khi viết các em dùng từ còn sai, viết câu chưa đúng, không biết ngắt câu, chấm câu,…
Như vậy, đặc điểm về tâm lí của HS lớp 5 đang ở giai đoạn phát triển, hoàn thiện nhanh chóng so với các lớp đầu Tiểu học. Chính những đặc điểm này đảm bảo cho việc nâng cao kĩ năng viết văn của HS lớp 5:
+ HS biết lựa chọn những đặc điểm đặc trưng, nổi bật của sự vật, biết phân tích, tổng hợp những đặc điểm đó để sắp xếp theo một logic hợp lý. Điều này sẽ giúp các em rất nhiều trong việc tìm và viết các nội dung chính, các ý chính, các chi tiết khi viết bài văn.
+ Các em quan sát xung quanh một cách khách quan hơn, ít phụ thuộc hơn vào cảm xúc, tình cảm như HS các lớp đầu Tiểu học. Vì vậy, bài văn của các em sẽ chặt chẽ hơn.
+ Để bài văn không bị nhàm chán, đơn điệu thì việc vận dụng các biện pháp nghệ thuật (nhân hóa – so sánh – liên tưởng) là rất cần thiết. Đối với HS lớp 5 thì điều này cũng rất vừa sức bởi hình ảnh tưởng tượng của các em đã trọn vẹn, chính xác và rõ ràng hơn rất nhiều.
+ Ngôn ngữ của HS lớp 5 cũng đang trong giai đoạn hoàn thiện và phát triển tốt. Điều này sẽ tạo điều kiện cho các em viết các câu văn trong bài thêm mạch lạc và hoàn chỉnh hơn.
Tùy từng đối tượng HS thì các em lại có những sự phát triển, tiến bộ không giống nhau về các đặc điểm trên. Vì vậy, GV cần phát hiện được những HS có năng khiếu tốt để phát triển thêm và những HS tiến bộ chậm hơn so với các bạn để bồi dưỡng và luyện tập thêm thông qua hệ thống bài tập và các đề văn cụ thể.
1.2. Lí thuyết hoạt động lời nói với việc nâng cao kĩ năng viết văn ở lớp 5
Các nhà Tâm lí học đã xác định bản chất của tâm lí là hoạt động. Năng lực của con người chỉ được hình thành và phát triển trong hoạt động. Nói năng mang bản chất của hoạt động – hoạt động lời nói. Hoạt động lời nói hay còn gọi là hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ, hoạt động ngôn ngữ. Cũng như các họat động tâm lí khác, hoạt động lời nói chỉ nảy sinh khi có động cơ nói năng, có nhu cầu, mục đích giao tiếp.
Con người giao tiếp với nhau bằng rất nhiều phương tiện nhưng phong phú và hiệu quả hơn cả là giao tiếp bằng ngôn ngữ. Giao tiếp ngôn ngữ là một hoạt động. Do đó, dạy TLV thực chất là dạy một hoạt động – hoạt động sản sinh lời nói.
Theo A.N. Lê – ôn – chép: “Chúng ta nói không phải để nói mà để báo về một cái gì đó, tác động đến một người nào đó.” [11] Vì thế, để dạy HS sản sinh lời nói, thực hiện hoạt động lời nói, trước hết phải tạo ra được động cơ, nhu cầu nói năng, kích thích học sinh tham gia tích cực vào cuộc giao tiếp.
Theo GS.TS Lê Phương Nga: “…xét đến tận cùng, dạy tập làm văn không phải bắt đầu từ hoạt động ngôn ngữ, từ sự tổ chức hoạt động ngôn ngữ mà phải bắt đầu từ những hoạt động sống khác của học sinh, nói cách khác, những kích thích nói năng không thể tách rời việc hình thành những kĩ năng sống khác.” [11]
Chính vì vậy, để HS viết văn tốt thì cần tạo điều kiện cho HS được quan sát thực tiễn, tham gia các hoạt động thực tiễn để HS được trải nghiệm, trau dồi vốn sống, tạo cơ hội cho các em được suy nghĩ, có những cảm nhận chân thực, có nhu cầu biểu đạt những suy nghĩ, cảm nhận ấy thành lời (ngôn ngữ nói và viết). Có như vậy, bài văn của các em mới thực sự là “của các em”, chứ không phải là một bản sao chép hoàn hảo cả về câu chữ và cảm xúc của người khác.
1.3. Loại thể văn học và việc nâng cao kĩ năng viết văn cho HS lớp 5
Các kiến thức về loại thể văn học, đặc biệt là kiến thức về miêu tả và kể chuyện thực sự cần thiết để dạy hai kiểu bài viết văn bản nghệ thuật: miêu tả, kể chuyện. Để có thể nâng cao kĩ năng viết văn cho HS, GV cần vận dụng các tri thức về miêu tả và kể chuyện, trong đó có các hiểu biết về cốt truyện, chi tiết, nhân vật, về ngôn ngữ, về đề tài, tư tưởng để truyền đạt cho HS. Các tri thức này góp phần chỉ ra nội dung luyện tập của các kỹ năng làm văn. Nói cách khác, có các hiểu biết về loại thể văn học, GV mới hiểu rõ tính đặc thù của từng kỹ năng trong từng kiểu văn để từ đó có thể hướng dẫn HS một cách cụ thể, chính xác và nâng cao dần kĩ năng viết văn cho các em. Để “vẽ được bằng lời”, GV phải dạy HS tìm ý trong bài văn miêu tả bằng cách dạy quan sát và ghi chép các nhận xét. GV phải hướng dẫn HS biết vận dụng các giác quan để quan sát, biết lựa chọn vị trí và thời gian quan sát, biết liên tưởng, tưởng tượng khi nhận xét sự vật và diễn đạt điều quan sát được một cách gợi cảm, gợi tả, tức là có hình ảnh và cảm xúc…Có hiểu biết về cốt truyện, về ngôi kể, về kết cấu mới có thể hiểu và hướng dẫn được các tiết tìm ý và lập dàn ý trong văn kể chuyện.
1.4. Tính chất tổng hợp , sáng tạo của việc viết văn
Khi viết văn, HS sẽ sử dụng toàn bộ các kĩ năng được hình thành và phát triển do nhiều phân môn khác của môn tiếng Việt đảm nhiệm. Khi sử dụng, phân môn TLV cũng góp phần phát triển và hoàn thiện chúng. Bên cạnh đó, để viết được bài văn, HS còn phải sử dụng kiến thức và kĩ năng được cung cấp từ nhiều môn học khác trong nhà trường.
Quá trình viết văn còn huy động toàn bộ vốn sống hoặc những mảnh vốn sống của HS có liên quan đến đề bài. Chẳng hạn, tả một cây đang ra hoa quả, tả một con mèo bắt chuột hoặc một con gà đang kiếm mối. HS đâu có thể chỉ huy động vốn tri thức qua các bài học mà còn phải huy động tất cả những tình cảm, án tượng cảm xúc, những kí ức còn lưu giữ được về các con vật hoặc cây cối đó. Chỉ như vậy bài văn mới trở nên sinh động và có hồn.
Bài văn là kết quả học tập phản ánh trình độ sử dụng tiếng Việt, trình độ tri thức và hiểu biết đời sống của HS. Vì thế, không phải không có lý do khi sản phẩm đó được sử dụng để đánh giá năng lực học tập môn tiếng Việt qua các kì thi.
Khi làm bài văn, HS thực hiện một hoạt động giao tiếp. Mỗi bài văn là một sản phẩm không lặp lại của từng HS trước một đề bài cụ thể. Do đó có thể nói trong việc học làm văn, HS được chủ động, tự do thể hiện cái “tôi” của mình một cách rõ ràng, bộc bạch cái riêng của mình một cách trọn vẹn. Hướng dẫn HS viết văn là dạy các em tập suy nghĩ riêng, tập sáng tạo, tập thể hiện trung thực con người mình.
2. Những vấn đề thực tiễn làm cơ sở cho việc nâng cao kĩ năng viết văn cho HS lớp 5
2.1. Chương trình và SGK dạy TLV ở lớp 5
a/ Chương trình Giáo dục Phổ thông cấp Tiểu học (phần Ngữ văn) nêu rõ nội dung dạy viết văn và chuẩn kiến thức, kĩ năng về TLV ở lớp 5 như sau:
Kiến thức
Kĩ năng
– Sơ giản về liên kết câu, đoạn văn.
– Văn miêu tả (tả người, tả cảnh).
– Văn bản thông thường: đơn, báo cáo thống kê, biên bản, chương trình hoạt động.
– Một số quy tắc giao tiếp trong trao đổi, thảo luận.
– Lập dàn ý cho bài văn miêu tả (tả người, tả cảnh)
– Viết đoạn văn, bài văn miêu tả (tả người, tả cảnh) theo dàn ý.
– Viết biên bản 1 cuộc họp, 1 vụ việc.
– Viết tóm tắt văn bản (độ dài vừa phải)
– Chuẩn kiến thức, kĩ năng cần đạt được quy định :
LỚP
MỨC ĐỘ CẦN ĐẠT
Kiến thức
Kĩ năng
5
– Bước đầu biết nhận diện và sử dụng một số biện pháp liên kết câu trong nói và viết.
– Biết cách làm bài văn tả người, tả cảnh.
– Biết tìm ý cho đoạn văn và viết đoạn văn kể chuyện, miêu tả ; biết dùng một số biện pháp liên kết câu trong đoạn.
– Biết lập dàn ý cho bài văn tả người, tả cảnh.
– Biết viết bài văn kể chuyện hoặc miêu tả có độ dài khoảng 200 chữ.
– Biết viết một số văn bản thông thường: đơn, biên bản, báo cáo ngắn, chương trình hoạt động.
b/ Cấu trúc và phân phối chương trình dạy TLV trong SGK Tiếng Việt 5 (Theo cuốn Hướng dẫn thực hiện chương trình các môn học lớp 1, 2, 3, 4, 5 – 2006)
Học kì I
(số tiết)
Học kì II
(số tiết)
Cả năm
(số tiết)
Kể chuyện (ôn tập)
– –
03
03
Miêu tả
– Miêu tả đồ vật (ôn tập)
– Miêu tả cây cối (ôn tập)
– Miêu tả con vật (ôn tập)
– Miêu tả cảnh
– Miêu tả người
– –
– –
– –
14
08
04
03
03
04
07
04
03
03
18
15
Các loại văn bản khác:
– Báo cáo thống kê
– Đơn
– Thuyết trình, tranh luận
– Biên bản
– Chương trình hoạt động
– Chuyển đoạn văn thành kịch
02
03
02
03
– –
– –
– –
– –
– –
– –
03
03
02
03
02
03
03
03
Tổng số tiết
32
30
62
c/ Những ưu điểm và hạn chế của chương trình và SGK Tiếng Việt 5 phần rèn kĩ năng viết văn
* Những ưu điểm
SGK Tiếng Việt lớp 5 hiện hành được biên soạn theo quan điểm dạy giao tiếp, quan điểm tích hợp, quan điểm tích cực hóa hoạt động của HS. Chính vì vậy, sách tạo điều kiện cần cho HS được phát triển kỹ năng sử dụng ngôn ngữ nói và viết của HS. Một trong những nhiệm vụ trọng tâm của chương trình là đổi mới phương pháp dạy học chuyển từ phương pháp truyền thụ kiến thức sang phương pháp tích cực hóa hoạt động của HS, trong tiết học HS tự quan sát, suy nghĩ, rồi rút ra kiến thức mới.
Sách Tiếng Việt lớp 5 không trình bày kiến thức bằng những kết quả cho sẵn mà xây dựng hệ thống câu hỏi bài tập yêu cầu HS hoạt động nhằm chiếm lĩnh kiến thức và phát triển kỹ năng nhận thức của HS. Đây cũng chính là những điều kiện thuận lợi để GV dạy học.
Các bài TLV trong chương trình đều gắn với chủ điểm của đơn vị đã học vì vậy quá trình thực hiện các kỹ năng phân tích đề, tìm ý, quan sát, viết đoạn văn là những cơ hội giúp HS mở rộng hiểu biết trong cuộc sống. Việc phân tích dàn bài, lập dàn ý, chia đoạn văn miêu tả góp phần phát triển khả năng phân tích, phân loại của HS. Tư duy hình tượng của HS cũng được rèn luyện nhờ vận dụng biện pháp so sánh, nhân hóa khi miêu tả. Học TLV, HS cũng có điều kiện tiếp cận vẻ đẹp của con người, thiên nhiên qua các bài văn, đoạn văn điển hình. Khi phân tích đề TLV, HS sẽ có những cơ hội gắn bó, yêu mến với thiên nhiên, có dịp hướng tới cái đẹp và cao cả, lòng nhân ái, đồng thời cũng lôi cuốn HS yêu thích làm văn. Các bài luyện tập làm báo cáo thống kê, làm đơn, làm biên bản, lập chương trình hoạt động, cũng là tạo điều kiện, cơ hội cho HS thể hiện mối quan hệ với cộng đồng. Những điều đó làm cho tình yêu mến, gắn bó với thiện nhiên, con người và sự vật xung quanh của trẻ được nảy nở, tâm hôn, tình cảm của các em thêm phong phú. Đó là những nhân tố hết sức quan trọng góp phần hình thành nhân cách tốt đẹp cho HS.
Các dạng văn trong chương trình các em đều đã được làm quen ở các lớp dưới. Lên lớp 5, các em lại tiếp tục rèn luyện và hoàn thiện kỹ năng làm văn từ dễ đến khó (rèn kỹ năng viết đoạn, liên kết đoạn) rất phù hợp nhận thức của HS tiểu học. Đặc biệt với kiểu văn miêu tả, trình tự các bài miêu tả ở lớp 5 cũng giống như ở lớp 4. Đối tượng miêu tả của các bài văn đều rất quen thuộc gần gũi với HS như: một dòng sông, một đêm trăng, cảnh trời mưa, quang cảnh trường, con vật, cây cối. Vì vậy các em dễ quan sát hơn.
* Những hạn chế
Mặc dù đã được biên soạn một cách cẩn thận, tỉ mỉ và có nhiều ưu điểm như đã nói, tuy nhiên, sách Tiếng Việt 5 nói chung và nội dung phân môn TLV 5 nói riêng vẫn không tránh khỏi những hạn chế nhất định, một số nội dung chưa thật sự phù hợp với HS.
Thứ nhất, về thời lượng cho các tiết học chưa thật sự hợp lí. Chẳng hạn, về thể loại văn miêu tả, trong chương trình chưa có những giờ hướng dẫn HS quan sát trực tiếp đối tượng thật để HS có những nội dung miêu tả gắn với thực tế, đồng thời có những tình cảm chân thực mà chủ yếu HS tự hình dung hoặc theo văn mẫu. Các tiết chủ yếu hướng dẫn HS quan sát tìm ý dựa theo những ngữ liệu đưa ra trong bài học. Qua việc phân tích ngữ liệu, HS học tập cách quan sát của tác giả. Điều đó ảnh hưởng đến nhiệm vụ phát triển tư duy và không phản ánh đúng bản chất của dạy học TLV nói chung.
Thứ hai, nội dung trong bài đưa ra đôi khi chưa hợp lí, dài dòng. Chẳng hạn:
– Bài: Luyện tập tả cảnh – Tuần 7 – T.70
Nội dung bài học có số lượng bài tập nhiều dẫn đến thời gian không đảm bảo:
+ Có 3 bài tập trình bày trên 3 trang SGK.
+ Ngữ điệu bài văn, đoạn văn để HS rút ra kiến thức kỹ năng có dung lượng lớn, nội dung lại chưa thật sự dễ hiểu đối với HS.
Thêm nữa, SGK chỉ giới thiệu một kiểu đoạn diễn dịch với câu mở đoạn đứng đầu đoạn và chưa chỉ ra sự liên kết giữa các đoạn văn. Như vậy, có thể HS sẽ viết các đoạn văn một cách rời rạc, không có sự liên kết, thiếu đi tính logic cho một bài văn miêu tả.
– Bài: Cấu tạo bài văn tả cảnh – Tuần 1 – T.11
+ Với một bài dài, HS đọc hiểu nắm bắt được nội dung đã mất nhiều thời gian lại thêm một bài tập đọc của giờ học trước (Tả quang cảnh làng mạc ngày mùa). Các em phải rút ra kiến thức qua việc so sánh thứ tự miêu tả hai bài khác nhau sau đó mới đọc và nhận xét cấu tạo của một bài văn tả cảnh. Như vậy, mất quá nhiều thời gian cũng như gây sự khó hiểu, nhầm lẫn cho HS.
– Bài: Luyện tập tả cảnh – Tuần 3 – T.34
Cùng một bài tập, nhiều đoạn văn khác nhau phải hoàn chỉnh nên đối với HS nhận thức chậm, các em dễ bị lẫn lộn đoạn mình chọn dẫn đến khả năng nhớ đâu viết đấy, không có sự thống nhất, liền mạch.
– Bài: Luyện tập tả người (Tả ngoại hình) – Tuần 13 – T.130
Có những câu hỏi hình thức, nội dung chưa rõ ràng nên nhiều HS khó trả lời đúng. Chẳng hạn trong bài có câu hỏi: “Đoạn 2 còn tả những đặc điểm gì về ngoại hình của bà? Các đặc điểm đó có quan hệ với nhau thế nào?” Với câu hỏi về quan hệ giữa các đặc điểm ngoại hình như trên, thật khó để hiểu được dụng ý của tác giả muốn hỏi về quan hệ gì để có thể trả lời chính xác.
2.2. Thực tiễn dạy và học TLV (viết văn) ở lớp 5
* Thực tế dạy học
Qua quá trình khảo sát thực tế, chúng tôi nhận thấy GV dạy ở các lớp khối 5 ở một số trường tiểu học hầu hết đã có quá trình giảng dạy lâu năm nên tích lũy được kiến thức và kinh nghiệm tương đối vững chắc. Tuy vậy, để dạy tốt phân môn TLV hay bất cứ phân môn nào, việc nhận thức được tầm quan trọng của phân môn đó là cần thiết.
Vì vậy, chúng tôi đã đưa ra câu hỏi đầu tiên là: “Theo thầy cô, phân môn TLV có vai trò như thế nào? và đã được 100% GV trả lời là rất quan trọng. Như vậy, chúng ta phải khẳng định rằng, phân môn TLV là một trong những phân môn rất quan trọng, cần được đặc biệt quan tâm, chú trọng trong quá trình dạy học. Đây chính là phân môn giúp các em rèn khả năng quan sát, miêu tả và tư duy trừu tượng.
Từ việc tìm hiểu nhận thức của GV về tầm quan trọng của phân môn, chúng tôi đưa ra câu hỏi thứ hai nhằm tìm hiểu về các phương pháp dạy học mà GV thường sử dụng trong các tiết TLV. Câu hỏi như sau: “Phương pháp dạy học nào thường được các thầy (cô) sử dụng trong các tiết TLV?” thì đa số các GV đều đưa ra các phương pháp tạo hứng thú học tập ở HS như: Mở rộng vốn từ cho HS; rèn kỹ năng quan sát; luyện viết câu văn, đoạn văn.
Đối với HS, việc học TLV không phải là việc dễ dàng bởi tư duy của các em còn mang tính cụ thể. Những gì được nhìn thấy, được gây ấn tượng mạnh thì sẽ giúp các em ghi nhớ tốt hơn và hứng thú hơn. Do đó, đồ dùng trực quan là yếu tố quan trọng không thể thiếu trong giờ học các môn học nói chung và phân môn TLV nói riêng. Chính vì vậy, chúng tôi đã đưa ra câu hỏi thứ ba nhằm tìm hiểu xem các thầy cô đã sử dụng đồ dùng trực quan như thế nào trong các tiết học TLV: “Khi dạy TLV thầy cô thường xuyên sử dụng đồ dùng trực quan không? Đó là những đồ vật nào?”. Và chúng tôi thu được kết quả những đồ dùng thường được sử dụng đó là tranh ảnh và vật thật, tuy nhiên mức độ sử dụng đồ dùng trực quan là tương đối thấp. Như vậy phương tiện, đồ dùng dạy học còn rất hạn chế và việc sử dụng các đồ dùng đó sao cho có hiệu quả cũng là một vấn đề cần quan tâm.
Hầu hết các GV mà chúng tôi điều tra, phỏng vấn đều có quá trình công tác lâu năm, có rất nhiều kinh nghiệm giảng dạy phân môn này. Do vậy, khi chúng tôi đưa ra câu hỏi thứ tư: “Thầy cô hãy cho biết những thuận lợi và khó khăn trong quá trình giảng dạy phân môn TLV” thì chúng tôi thu được là:
– Thuận lợi:
+ Nhà trường luôn quan tâm chỉ đạo thực hiện công tác chuyên môn nhằm nâng cao tay nghề cho GV. Đội ngũ GV đã tích lũy được nhiều kinh nghiệm qua nhiều năm thực hiện đổi mới chương trình, thay sách giáo khoa, học Chuyên đề, dự giờ, sinh hoạt chuyên môn…
+ GV đều được trang bị đầy đủ SGK, SGV, sách tham khảo…
– Khó khăn:
+ Việc vận dụng quan điểm dạy học tích hợp trong dạy học chưa được GV vận dụng triệt để nên lượng kiến thức, kĩ năng cung cấp cho HS trong một tiết TLV thường rất lớn, nhiều lúc dẫn đến tình trạng quá tải trong tiết học.
+ GV đã có nhiều cố gắng trong việc đổi mới phương pháp dạy học nhưng đôi khi cũng ngại không dám thoát li các gợi ý của sách giáo khoa, sách hướng dẫn vì sợ sai.
+ GV còn lúng túng khi vận dụng phương pháp dạy TLV: Lập dàn bài rập khuôn dẫn đến bài làm của HS giống nhau về ý tưởng, nội dung.
+ TLV là phân môn khó dạy, khó học và khó đạt hiệu quả cao đã là nhận thức chung của nhiều thầy cô giáo dạy lớp 4, lớp 5.
+ Việc sử dụng đồ dùng dạy học chưa phổ biến vì đôi khi GV sử dụng sợ tốn nhiều thời gian.
+ Lên lớp 4 – 5, HS mới bắt đầu học cách lập dàn ý, dựng đoạn và viết thành bài văn hoàn chỉnh. Hơn nữa, khả năng ngôn ngữ của các em còn hạn chế. Mỗi bài văn hay lại đòi hỏi khả năng tưởng tượng và sử dụng ngôn ngữ diễn đạt thật sinh động. Thực tế cho thấy, đa số HS lớp 4 – 5 viết văn chưa hay, sắp xếp ý còn lộn xộn, lủng củng, hình ảnh trong bài văn còn chưa gợi tả, ít liên tưởng hoặc chỉ là sao chép một cách sống sượng bài văn mẫu.
+ Về phía nhà trường, dù đã được đầu tư một hệ thống cơ sở vật chất, trang thiết bị đầy đủ đặc biệt là có giáo án giảng bằng điện tử nhưng việc sử dụng phần mềm powerpoint vào giảng dạy chương trình tiếng Việt nói chung và phân môn TLV nói riêng chưa phổ biến dẫn đến chưa phát huy hết được năng lực của GV và HS.
* Thực tế bài làm văn của HS
Nhìn chung, HS khối 5 trong nhà trường đã có hứng thú học tập đối với phân môn TLV. Vì vậy, khi được hỏi: “Em có thích học phân môn TLV không?” thì có đến 182/420 em trả lời là “có” chiếm khoảng 43,33%; 200/420 em trả lời là “bình thường” chiếm khoảng 47,62% và khoảng 9,05% là “không thích”. Điều đó chứng tỏ rằng, các em đã ý thức được phần nào tầm quan trọng của phân môn TLV nhưng đa phần chưa thực sự yêu thích phân môn này.
Phân môn TLV bao gồm nhiều dạng văn khác nhau và mỗi dạng văn lại mang lại cho các em những cảm nhận riêng biệt. Khi được hỏi: “Em thích học dạng văn nào nhất ?” thì có đến 53,33% các em lựa chọn thích học văn miêu tả, 33,09% thích học văn kể chuyện và khoảng 13,58% thích học các kiểu văn bản như viết thư, văn bản hành chính… Điều đó chứng tỏ rằng, các bài viết văn miêu tả vẫn hấp dẫn và thu hút HS hơn. Bởi vì nó thường là những sự vật, sự việc, cây cối, con vật…gắn liền với đời sống thực tế xung quanh các em nên các em dễ tưởng tượng, miêu tả.
Để viết được bài văn hay, độc đáo thì tài liệu học tập cũng đóng một vai trò quan trọng. Qua điều tra chúng tôi thấy rằng, 100% HS đến trường đều có đủ SGK tiếng Việt, còn các tài liệu tham khảo khác như bài văn hay, bài văn mẫu thuộc chương trình học thì các em cũng sử dụng tương đối phổ biến, chiếm khoảng 64,29% (270/420 em)
Ngay sau câu hỏi về những tài liệu mà các em có khi học phân môn này, chúng tôi tiếp tục điều tra về việc các em sử dụng những tài liệu đó trong bài viết của mình như thế nào bằng câu hỏi: “Khi viết bài TLV, các em có sử dụng các tài liệu tham khảo vào bài viết của mình không?”. Với câu hỏi này có 28,81% HS trả lời thường xuyên sử dụng tài liệu tham khảo vào bài viết của mình; 62,38% là thỉnh thoảng sử dụng và một tỷ lệ nhỏ trả lời rằng không bao giờ sử dụng tài liệu tham khảo vào bài viết của mình. Con số này tuy không lớn nhưng điều đó cũng ảnh hưởng tới hiệu quả dạy học phân môn TLV nói riêng, các phân môn khác trong chương trình tiếng Việt nói chung. Bởi vậy, giáo dục ý thức tự giác trong dạy học viết văn cho các em cũng gặp phải không ít những khó khăn đó là: Sự phân hóa giữa các HS trong một lớp và giữa các lớp về khả năng nhận thức. Có em học tốt và vận dụng những hiểu biết vào học tập rất hiệu quả. Tuy nhiên, số lượng này không nhiều, còn rất nhiều em khả năng hiểu biết và vận dụng còn yếu. Điều này ảnh hưởng đến sự phát triển tư duy và sáng tạo của các em trong quá trình viết văn.
Để học tốt phân môn TLV, ngoài giờ học trên lớp, HS cần phải thường xuyên tìm hiểu ngoài thực tế cuộc sống. Tuy nhiên, mức độ tìm hiểu cũng như thời gian dành cho việc học của mỗi HS chắc chắn sẽ có sự khác nhau. Chính vì thế, chúng tôi đã đưa ra câu hỏi thứ tư nhằm tìm hiểu về việc học ngoài giờ trên lớp của các em HS như sau: “Ngoài giờ học trên lớp, ở nhà em có thường xuyên luyện viết văn không?”. Và kết quả được biểu hiện bằng các con số như sau: 67,62% số HS trả lời đã dành thời gian cho việc luyện viết văn; 27,62% trả lời là “thỉnh thoảng”, còn lại 4,76% trả lời là “không”. Như vậy, hơn một nửa số HS đã có ý thức tự rèn luyện kĩ năng viết văn ở nhà. Tuy nhiên cũng còn một số lượng không nhỏ HS chưa có ý thức tự giác học tập phân môn này sau khi kết thúc giờ học trên lớp. Đây cũng là một trong những lí do khiến cho kĩ năng viết văn của các em chưa được phát triển tốt.
Và cuối cùng, chúng tôi đưa ra câu hỏi thứ năm nhằm tìm hiểu về việc các em có thực hiện đầy đủ các quy trình viết văn hay không như sau: “Trước khi viết văn, các em có thường xuyên tìm ý và lập dàn ý hay không?”. Và kết quả chúng tôi nhận được khá bất ngờ khi đại đa số HS trả lời là “Không” (312/420 em), một số khác trả lời là “Thỉnh thoảng” và rất ít em trả lời là “Có” (20/420 em). Đây chính là nguyên nhân dẫn đến việc khi viết văn các em thiếu ý, sót ý, viết được vài dòng đã hết ý, không biết viết gì thêm hay tình trạng viết xong mới nhớ ra rồi bổ sung chi chít trong bài hoặc nhớ gì viết nầy, làm cho bài văn lộn xộn, lủng củng.
Thông qua phiếu điều tra và phỏng vấn trực tiếp, chúng tôi đã nắm được những hiểu biết ban đầu về việc chuẩn bị bài và học tập phân môn TLV của các em HS. Và để tìm hiểu thêm về thực trạng viết văn của HS lớp 5, chúng tôi đã tiến hành kiểm tra các bài viết của 420 em HS lớp 5 của một trường tiểu học. Dựa vào bài viết của các em, chúng tôi đã rút ra được một số kết luận sau: Đa số các em có tinh thần học tập, đều cố gắng hoàn thành các bài văn theo chương trình. Tuy nhiên, trong quá trình làm bài các em chưa lập dàn ý, chưa có kỹ năng quan sát, hồi tưởng nhanh nên thời gian tiết học không đủ cho các em hoàn thiện bài văn dẫn đến chất lượng bài viết chưa cao. HS mắc lỗi trong khi viết văn còn nhiều. Cụ thể các lỗi như sau:
Thứ nhất, nhiều HS viết sai chính tả trong bài văn
Mặc dù đã lên lớp 5 nhưng tình trạng bài viết của các em HS mắc lỗi chính tả vẫn còn nhiều. Các em thường sai nhiều ở các phụ âm đầu l – n , ch – tr….
Chẳng hạn:
* Trong bài văn tả về đêm trăng đẹp, có em viết như sau:
– Đêm đã khuya, cả nhà em đều đi ngủ. Chỉ còn mình trăng vẫn đứng đó canh trừng cho tất cả mọi người.
– Em rất thích được về quê và ngắm đêm trăng vì nó cho em nhớ lại câu chuyện cố tích “Chú Quội ngồi gốc cây đa”.
– Dưới ánh trăng, mọi người nói truyện, trẻ con lô đùa, tiếng cười nói của mọi người rộn rã.
* Trong bài văn tả cơn mưa, có HS mắc lỗi như sau:
– Lộp bộp, lộp bộp! Mưa đã bắt đầu giơi xuống những mái nhà và cả đường đi. Lúc mới đầu, mưa dơi từng dọt nhỏ nhưng rồi mưa bắt đầu to hơn và mau hơn.
* Trong bài văn tả ngôi nhà của em, có em lại viết:
– Rù đi xa đến mấy, em vẫn nhớ về ngôi nhà của em.
– Nhà em là nhà riêng lên có năm tầng…Bước qua cánh cửa bằng gỗ sưa là phòng khách.
– Trong các phòng, em thích nhất là phòng khách. Đây là nơi khi dảnh dỗi mọi người trong gia đình em hay ngồi xem ti vi.
Thứ hai, HS mắc không ít lỗi viết câu, dùng từ, diễn đạt lộn xộn
Số lượng HS viết câu và dùng từ hợp lý chiếm tỷ lệ thấp, đa số bài viết của các em thường ngắn, viết câu văn cụt lủn, lủng củng, lộn xộn, lặp từ, kể lể, ít hình ảnh trong câu văn dẫn đến bài viết của các em không sinh động, không thu hút được người đọc, người nghe. Ngoài ra, cách dùng từ chung chung, lặp đi lặp lại không làm nổi bật lên được đặc điểm của đối tượng vẫn còn phổ biến.
Chẳng hạn:
* Trong bài văn tả đồ vật mà em yêu thích, có HS viết như sau:
– Đặc biệt nhất là cái giá sách hai ngăn ba tầng của em. Ngăn to em để sách vở, ngăn nhỏ em để đồ dùng học tập. Thân bàn em dán thời khóa biểu.
– Chiếc cặp được làm bằng da, sờ vào rất sướng. Chiếc cặp rất to. Chiếc cặp có hình chữ nhật. Chiếc cặp có màu đỏ và màu xanh. Chiếc cặp được bố mẹ tôi mua ở nhà xuất khẩu Việt Nam.
– Ai là HS thì phải có cặp sách! Là HS, chiếc cặp luôn là người bạn tốt nhất!
* Trong bài văn tả đêm trăng đẹp, HS mắc lỗi:
– Lúc trăng lên cảnh vào buổi tối thật đẹp và rực rỡ. Lúc có trăng lên là ở trên bầu trời lấp lánh. Có lúc trăng không xuất hiện. Vào đêm rằm, trăng tròn khép kín lại.
– Dưới ánh trăng, có một tốp bạn đang chơi đuổi bắt. Cả những con vật cũng hòa trộn với mọi người.
– Con đường trăng soi sáng như phát sáng. Mặt nước soi trăng tròn. Những mái nhà được trăng soi sáng như tô thêm màu.
– Có những hàng cây đu đưa trong gió, có con đường dài. Mặt nước in lại bóng ông trăng tròn và những mái nhà cùng ngắm trăng (???)
* Trong bài văn tả cây cối, có HS diễn đạt như sau:
– Thân cây chia làm nhiều nhánh lớn. Mỗi nhánh lại mọc nhiều cành. Cành cây dài và cong. Những bàn tay gầy guộc đang múa. Lá quýt màu xanh nhạt. Hoa quýt màu vàng, rất thơm.
– Cây phượng ở góc sân trường em là loài cây được bầu trời trong xanh tỏa nắng, hòa thêm vào tiếng chim líu lo cây phượng như là những đóa hoa đỏ rực rỡ, chói lọi.
– Dưới gốc cây to và dài của cây phượng, chúng em thường ngồi dưới đó chơi và học nhóm thì cây phượng vẫn che mát cho chúng em học bài.
– Những cành lá của hoa phượng xanh tươi như những lần cây xanh tốt.
– Chúng em rất yêu quý cây phượng và chăm sóc rất tốt cho cây. Chúng em sẽ chăm sóc tốt hơn để cây phượng sẽ nở ra thật nhiều những bông hoa đỏ rực. Em hứa sẽ chăm sóc tốt hơn cho cây phượng.
Ngoài ra, khi đọc các bài văn của các em, chúng tôi còn thấy sự khô khan, nghèo cảm xúc, kể quá chân thực, không lột tả được đối tượng, đôi khi còn bịa đặt. Chẳng hạn:
* Trong bài văn tả đêm trăng đẹp, có em viết:
– Tối rồi nên ông bắt cả nhà phải đi ngủ. Tiếng ve kêu như là đang hát ru con vậy. Đom đóm bật đèn suốt đêm để đi kiếm mồi vậy.
* Trong bài văn tả cây cối, lỗi HS mắc phải như sau:
– Hoa của cây phượng chỉ to bằng đốt ngón tay. Hoa phượng màu đỏ rực làm bao nhiêu lòng HS phơi phới làm sao!
– Cây hoa hồng được trồng trong vườn nhưng nối bật hơn các loại cây khác. Trông ánh nắng chiếu vào khiến cây ngày càng lớn và to…Gốc cây chắc chắn khiến chúng em vui vẻ ngồi ôn bài. Thân cây to, thật vững chắc. Cành dài, giữ gìn hoa để cho nó nở nhiều hơn và đẹp hơn.
– Có rất nhiều loại hoa, nhưng em thích nhất là hoa ly – loại hoa được các bà nội trợ ưa chuộng… Hoa ly có thể chơi từ 10 – 14 ngày.
– Cây xương rồng chỉ chiếm một góc sân nhỏ bé. Dù nhỏ bé nhung với bông hoa màu đỏ rực rỡ khiến cái cây nhỏ bé như một cái cây to lớn và tuyệt đẹp vậy… Cây xương rồng có rất nhiều bộ phận kì lạ. Thân cây chỉ bằng ngón tay cái…Cả cánh hoa kết hợp lại trông như một bông hoa tuyệt đẹp được kết hợp rất phù hợp. Trên một cái cây không đẹp mà thêm những bông hoa xương rồng tuyệt đẹp này vào thì cái cây trông sẽ rất đẹp.
– Khi còn bé, cây xương rồng như một em bé bé nhỏ không ai nuôi nấng. Khi mua ở cửa hàng về thì nó là cái cây đầu tiên em mua nó.
– Mít có vị rất ngon và ngọt nhung chúng ta không nên ăn nhiều sẽ bị nổi mụn. Nghỉ hè vừa rồi, em cùng anh Khánh trèo lên cây chơi và hái được rất nhiều quả mít. Em cùng bác bổ ra và ăn rất nhiều. Ngày hôm sau, em và bác bị nổi mụn.
Đặc biệt với những bài văn kể chuyện thì hầu như các em chỉ học thuộc và viết y nguyên lại câu chuyện, không có sự sáng tạo hay sử dụng ngôn ngữ của mình để viết.
Thứ ba, nhiều HS mắc các lỗi về dấu câu
Lỗi về dấu câu ở các bài viết của HS lớp 5 được chia làm 2 loại:
* Trường hợp khá phổ biến là HS không dùng dấu câu hoặc dùng sai: Xảy ra nhiều với HS yếu kém. Các em không sử dụng hoặc ít sử dụng dấu chấm, dấu phẩy hay dùng dấu câu sai. Chẳng hạn:
– Trên cao kia lấp ló ấn hiện sau những tán lá, là những chùm hoa trắng li ti.
– Cành phượng có nhiều tầng lá đan xen vào nhau che kín không cho một tia nắng nào rọi xuống sân trường để cho chúng em chơi đùa dưới bóng mát.
– Lại gần, nhìn lên cao, những chiếc lá bàng còn non và xanh như những em bé mới được sinh ra, song, còn lại, là những người mẹ bao bọc cho con, những chiếc lá to pha vàng với màu xanh mơn mởn. Nhưng, cả một tán lá là cả một mái tóc xanh mượt bồng bềnh dưới ánh nắng – một bầu trời đầy lá xanh.
* Ngoài ra, HS còn chưa biết sử dụng dấu câu thể hiện mục đích nói nhằm nâng cao hiệu quả diễn đạt. Chẳng hạn:
– Ngồi dưới gốc cây tán gẫu và vui chơi quả thật là thích.
– Chao ôi! Chú mèo đó mới đáng yêu làm sao.
Ở đây, nếu HS biết dùng dấu “!” cuối câu thì sẽ làm tăng thêm khả năng biểu đạt, thể hiện rõ hơn cảm xúc của người viết.
Thứ tư, nhiều HS chưa biết cách trình bày bài văn
Ở lớp 5, HS đã nắm được cấu tạo của các bài văn gồm 3 phần: mở bài, thân bài, kết bài. Nhưng rất nhiều bài viết của HS vẫn mắc lỗi về cách trình bày bố cục của một bài văn. Tình trạng viết phần mở bài xong các em quên xuống dòng để viết thân bài, viết thân bài liền với phần kết bài, viết các đoạn trong phần thân bài quên xuống dòng hoặc xuống dòng không đúng lúc vẫn còn xảy ra nhiều. Điều này dẫn tới bài văn của các em không đẹp về bố cục, về cách trình bày. Nguyên nhân của tình trạng trên đó là, HS chưa nắm chắc được bố cục của một bài văn và chưa phân định rõ ràng các ý trong phần thân bài.
Ngoài những lỗi cơ bản trên thì trong bài văn của các em HS còn tồn tại một hạn chế vô cùng phổ biến đó chính là: sao chép y nguyên văn mẫu. Rất nhiều HS đã học thuộc một đoạn văn mẫu, thậm chí là cả bài. Sau đó, khi làm bài, các em viết lại hoàn toàn, đôi khi có thay một vài từ. Nhiều em thường miêu tả các đối tượng dựa theo văn mẫu mà chưa từng thấy đối tượng ngoài thực tế dẫn đến bài viết thường sáo rỗng, thiếu đi sự tinh tế, chân thực và cảm xúc. Việc học như vậy không đem đến hiệu quả dẫn đến chất lượng dạy và học Tiếng Việt nói chung sẽ không đạt được kết quả như mong muốn.
Vậy, do đâu HS làm văn chưa hay ?
+ Thứ nhất, do đề bài chưa khơi gợi được hứng thú, niềm yêu thích viết văn của HS.
+ Thứ hai, do HS chưa có kĩ năng xác định yêu cầu của đề bài: về mục đích giao tiếp, đối tượng giao tiếp, nội dung giao tiếp nên như người lạc đường, các em mở văn mẫu ra làm bản đồ để đi, kết quả là những sản phẩm bài văn na ná nhau ra đời.
+ Thứ ba, kĩ năng lập dàn ý, sắp xếp ý của HS chưa tốt. Chính vì thế, bài văn thường lộn xộn về ý, thiếu logic.
+ Thứ tư, do HS ít được quan sát trực tiếp cảnh thật nên thiếu vốn hiểu biết, thiếu cảm nhận chân thực.
+ Thứ năm, do HS còn hạn chế về kĩ năng quan sát, chọn lọc chi tiết tiêu biểu khi làm bài.
+ Thứ sáu, do HS ít được rèn luyện sử dụng các hình thức lời nói khác nhau để diễn đạt một nội dung, sau đó chọn một cách diễn đạt phù hợp nhất.
+ Thứ bảy, do GV chưa quan tâm đúng mức tới quy tắc viết đoạn văn có câu mở đoạn và các câu phát triển cho HS.
+ Thứ tám, do GV chưa bồi dưỡng đúng năng lực cho từng đối tượng HS, việc dạy mới chỉ mang tính đại trà, làm HS không có điều kiện phát triển tốt nhất.
Từ thực trạng trên, tôi mạnh dạn đưa ra biện pháp dạy học trải nghiệm nhằm nâng cao hiệu quả dạy và học Tập làm văn lớp 5.
CHƯƠNG 2 . PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC TRẢI NGHIỆM
1/ Đặc điểm của phương pháp “Học tập qua trải nghiệm”
Học tập qua trải nghiệm là một cách học thông qua làm, với quan niệm việc học là quá trình tạo ra tri thức mới trên cơ sở trải nghiệm thực tế, dựa trên những đánh giá, phân tích trên những kinh nghiệm, kiến thức sẵn có. Học thuyết này gắn liền với David Kolb (1939) và các nhà tâm lý học, giáo dục học như John Dewey, Kurt Lewin, Jean Piaget, Lev Vygotsky, William James, Carl Jung, Paulo Freire, Carl Rogers and Mary Parker Follett.
Theo đó, “Học tập qua trải nghiệm” có một số đặc điểm nổi bật như sau:
a) Quá trình học qua trải nghiệm diễn ra khi trải nghiệm được lựa chọn kỹ càng và sau khi thực hiện được tổng kết bởi quá trình chia sẻ, phân tích, tổng quát hoá và áp dụng.
b) Người học được sử dụng toàn diện: trí tuệ, cảm xúc, thể chất, kỹ năng và các quan hệ xã hội trong quá trình tham gia.
c) Trải nghiệm được thiết kế để yêu cầu người học phải sáng tạo, tự chủ, tự ra quyết định và thỏa mãn với kết quả đạt được.
d) Qua trải nghiệm, người học được tham gia tích cực vào việc: đặt câu hỏi, tìm tòi, trải nghiệm, giải quyết vấn đề, tự chịu trách nhiệm.
e) Kết quả của trải nghiệm không quan trọng bằng quá trình thực hiện và những điều học được từ trải nghiệm đó.
g) Kết quả đạt được là của cá nhân, tạo cơ sở nền tảng cho việc học và trải nghiệm của cá nhân đó trong tương lai.
h) Các mối quan hệ được hình thành và hoàn thiện: người học với bản thân mình, người học với những người khác, và người học với thế giới xung quanh.
2/ Quy trình 5 bước của “Học tập qua trải nghiệm”
Học tập qua trải nghiệm là một quá trình học diễn ra một cách tự nhiên trong mỗi người. Quá trình học qua trải nghiệm là xem xét, phân tích những việc mỗi người đã trải qua, đã chứng kiến, đã nghe thấy, đã đọc được, hoặc xem được, để tự rút ra kinh nghiệm, bài học cho chính mình và áp dụng các bài học đó để ứng xử hợp lý, hiệu quả hơn. GV sẽ là người điều hành, dẫn dắt HS qua các hoạt động học tập theo các bước của quy trình học qua trải nghiệm để các em biến các trải nghiệm thành kinh nghiệm hữu ích cho bản thân sau mỗi tiết học.
Quy trình 5 bước của “Học tập qua trải nghiệm” được minh họa qua sơ đồ sau:
Bước 1 – Trải nghiệm
HS làm, thực hiện một hoạt động tuân theo các hướng dẫn cơ bản về an toàn, tổ chức hoặc quy định về thời gian, HS làm trước khi được chỉ dẫn cụ thể về cách làm.
Bước 2 – Chia sẻ
HS chia sẻ lại các kết quả, các chú ý và những điều quan sát, cảm nhận được trong phần hoạt động đã thực hiện của mình. HS học cách diễn đạt và mô tả lại rõ ràng nhất các kết quả của trải nghiệm và mối tương quan của chúng.
Bước 3 – Phân tích
HS cùng thảo luận, nhìn lại cả quá trình trải nghiệm, phân tích và phản ánh lại. HS sẽ liên hệ trải nghiệm với chủ đề của hoạt động và các kỹ năng sống học được.
Bước 4 – Tổng quát
Liên hệ những kết quả và điều học được từ trải nghiệm với các ví dụ trong cuộc sống thực tế. Bước này thúc đẩy HS suy nghĩ về việc có thể áp dụng những điều học được vào các tình huống khác như thế nào.
Bước 5 – Áp dụng
HS sử dụng những kỹ năng, hiểu biết mới vào cuộc sống thực tế của mình. HS trực tiếp áp dụng những điều học được vào tình huống tương tự hoặc các tình huống khác – thực hành.
Sự khác biệt của phương pháp “Học tập qua trải nghiệm” với việc đơn giản chỉ học từ việc làm hàng ngày đó là các bước đúc kết sau quá trình trải nghiệm. Mỗi bước bao gồm các câu hỏi mở được đưa ra để HS trả lời, khiến HS phải thực sự động não, từ đó tự rút ra bài học cho bản thân. Đây cũng là lúc để đánh giá lại quá trình trải nghiệm của người học. Các câu hỏi rất đa dạng tùy theo từng hoạt động cụ thể. Phương pháp và các bước có thể áp dụng với tất cả các chủ đề, lĩnh vực, tùy theo định hướng của người thiết kế.
3/ Ưu điểm của “Học tập qua trải nghiệm”
a) Phương pháp khiến HS sử dụng tổng hợp các giác quan (nghe, nhìn, chạm, ngửi…) nên có thể tăng khả năng lưu giữ những điều đã học được lâu hơn.
b) Các cách thức dạy và học đa dạng của phương pháp có thể tối đa hóa khả năng sáng tạo, tính năng động và thích ứng của HS.
c) HS được trải qua quá trình khám phá kiến thức và tìm giải pháp từ đó giúp phát triển năng lực cá nhân và tăng cường sự tự tin.
d) Việc học trở nên thú vị hơn với HS và việc dạy trở nên thú vị hơn với GV.
e) Khi HS được chủ động tham gia tích cực vào quá trình học, các em sẽ có hứng thú và chú ý hơn đến những điều học được và ít gặp vấn đề về tuân thủ kỷ luật.
g) HS có thể học các kỹ năng sống mà được sử dụng lặp đi lặp lại qua các bài tập, hoạt động, từ đó tăng cường khả năng ứng dụng các kỹ năng đó vào thực tế.
h) Mối quan hệ giữa HS với GV tốt hơn: GV hiểu HS, HS đỡ sợ cô giáo, HS với HS cũng đỡ có khoảng cách hơn.
i) GV lựa chọn được hình thức / phương pháp phù hợp nhất với từng nội dung, từng bước trong bài học và với HS của mình.
4/ Hạn chế của “Học tập qua trải nghiệm”
Phương pháp cũng có thể tiềm ẩn một số hạn chế trong những trường hợp nhất định như:
a) Nó cần nhiều thời gian và công sức cho sự chuẩn bị từ GV và có thể cần nhiều thời gian hơn để thực hiện với HS.
b) Nó còn đòi hỏi nhiều sự kiên nhẫn và hướng dẫn của GV.
c) Thường là không có câu trả lời đơn thuần “đúng” cho các câu hỏi trong các bước thực hiện của phương pháp.
d) Phương pháp với đặc điểm chú ý đến trải nghiệm của từng người học, có thể trông không được quy củ và có thể không thoải mái với những GV có phong cách mô phạm truyền thống.
e) GV buộc phải nắm chắc được chương trình môn học toàn cấp mới phân tích được HS chính xác và biết được HS gặp khó khăn ở đâu.
g) Một số GV chưa triển khai được hết các bước trong 1 tiết học do HS chậm.
h) Đòi hỏi khả năng quan sát, ứng phó nhanh của GV đối với nhu cầu của HS trên lớp.
Như vậy, bên cạnh những ưu điểm thì “Học tập qua trải nghiệm” cũng có những hạn chế nhất định. Tuy nhiên, đó chỉ là những hạn chế rất nhỏ và thông qua áp dụng trải nghiệm thực tế trong dạy và học, chúng ta có thể nhận thấy HS đã thực sự trở thành trung tâm của quá trình dạy học. Quá trình này không chỉ giúp HS hứng thú học tập và có kết quả tốt hơn mà còn giúp biến đổi GV: GV hứng thú dạy học, hiểu và gần gũi HS hơn.
Qua trải nghiệm thực tế, HS có nhiều cơ hội để quan sát, tìm hiểu từ đó tìm được không chỉ các ý chính cho dàn ý mà quan trọng hơn là tìm và chọn lọc được nhiều chi tiết cụ thể, sinh động cho mỗi ý trong dàn ý. Nếu làm được điều này, bài văn sẽ có nét riêng, sẽ phong phú về ý và đó là cơ sở để có bài văn phong phú, sinh động về ngôn từ.
5 . Các bước thiết kế bài dạy theo chu trình học qua trải nghiệm thực tế
Ở luận văn này, chúng tôi coi dạy học trải nghiệm là một chu trình dạy học bởi nó bao gồm nhiều bước khác nhau (7 bước) và bao hàm trong nó có nhiều phương pháp nhỏ kèm theo: phương pháp thảo luận nhóm, phương pháp quan sát.
Các bước thiết kế bài dạy theo chu trình học qua trải nghiệm như sau:
a) Bước 1: Phân tích HS
Phân tích HS theo các câu hỏi sau:
+ HS đã biết những gì và làm được gì liên quan đến bài học này ?
+ HS sẽ gặp những khó khăn gì hay mắc lỗi ở những chỗ nào trong bài học này?
+ HS cần học được những gì từ bài học này ?
b) Bước 2: Xác định mục tiêu
Khi xác định mục tiêu, GV nên làm theo các bước sau :
+ Xác định những kiến thức, kĩ năng trọng tâm HS phải học được trong bài học này (nội dung mục tiêu)
+ Xác định mức độ tiến bộ HS có thể đạt được theo từng nội dung trọng tâm đã xác định ở trên (mức độ mục tiêu)
+ Điều chỉnh để các mục tiêu có thể đạt được trong thời gian của giờ học (tăng/ giảm số lượng mục tiêu, tăng / giảm mức độ mục tiêu)
+ Viết mục tiêu bài học theo cách hướng về HS (sau giờ học, HS có thể làm gì? ; HS sẽ thế nào?)
Với mỗi bài học, GV có thể xác định các mức độ mục tiêu học tập cho các nhóm HS có nhu cầu và trình độ khác nhau. Theo đó, trong quá trình giờ học, các nhóm HS được giao những nhiệm vụ, bài tập ở các mức độ khó, dễ khác nhau. Nghệ thuật của GV là làm sao để tất cả HS trong lớp luôn luôn có đủ “công ăn việc làm” phù hợp với năng lực của mình.
c) Bước 3: Trải nghiệm
Hoạt động này nhằm tạo cơ hội cho HS trải qua tình huống có vấn đề, cần phân tích, để làm nảy sinh kiến thức mới. Để giúp HS trải nghiệm, GV cần tạo ra các hoạt động ngay tại lớp bằng các hình thức có thể tổ chức được, để HS nghe, đọc, nói, viết, làm (thực hiện), sờ, nhìn, cảm nhận được nội dung của tình huống. Trong tình huống đó chứa đựng những nội dung kiến thức của bài học mà các em chưa biết, và những thao tác, kĩ năng các em chưa làm được.
d) Bước 4: Phân tích trải nghiệm và rút ra bài học
Phần phân tích và rút ra bài học nhằm giúp HS nhận ra, nêu ra và hiểu được đúng các kiến thức, bài học, quy luật, quy tắc, công thức, logic chứa đựng trong phần trải nghiệm. Phần phân tích cần sử dụng “nguyên liệu” là thông tin trong phần trải nghiệm và đi theo định hướng mục tiêu của bài học, tránh tản mạn. Trong thực tế, trong phần phân tích và rút ra bài học, HS có thể có những phát hiện ngoài những mục tiêu chính của bài học mà GV đã xác định. Điều này hoàn toàn là biểu hiện tốt, GV nên khuyến khích và đón nhận những ý kiến đó. Tuy nhiên, GV cần đảm bảo cho các em đạt được những mục tiêu chính của bài học như một yêu cầu tối thiểu.
e) Bước 5: Thiết kế bài tập áp dụng
Có 10 cấp độ của bài tập áp dụng:
(1) Làm lại BT trong phần trải nghiệm
(2) Thay đổi một thông số (so với BT trong phần trải nghiệm), giữ nguyên bối cảnh (tình huống xảy ra) của BT, giữ nguyên cách hỏi
(3) Thay đổi một số thông số, giữ nguyên bối cảnh của BT, giữ nguyên cách hỏi
(4) Thay đổi toàn bộ các thông số, giữ nguyên bối cảnh của BT, giữ nguyên cách hỏi
(5) HS tự ra bài tập theo đúng dạng bài tập cơ bản trong bài học
(6) Dùng các thông số của BT trải nghiệm, thay đổi cách hỏi, giữ nguyên bối cảnh của BT
(7) Dùng các thông số của BT trải nghiệm, thay đổi cách hỏi, thay đổi bối cảnh của BT
(8) Thay đổi toàn bộ thông số, thay đổi cách hỏi và thay đổi bối cảnh BT
(9) Thêm thông số liên quan đến các bài học trước đó, thay đổi cách hỏi, thay đổi bối cảnh BT
(10) Thay đổi phương pháp, hình thức trình bày BT
g) Bước 6: Tạo hứng thú
Trên lớp, phần Tạo hứng thú diễn ra đầu tiên, nhưng khi thiết kế có thể là phần thiết kế cuối cùng.
Phần này phải giúp cho HS thích và sẵn sàng học những nội dung bài học. HS sẽ thích học khi nhận thấy bài học hữu ích trong cuộc sống thực tế. Hoạt động “Tạo hứng thú” cần vui, sinh động, hấp dẫn và không mất nhiều thời gian.
hi) Bước 7: Củng cố dặn dò
Phần này nhằm giúp HS nhắc lại để ghi nhớ nội dung bài học và cảm thấy tự tin với việc áp dụng trong tương lai, đồng thời giúp GV đánh giá mức độ thành công của tiết học.
6. Thiết kế bài giảng tập làm văn miêu tả lớp 5 thông qua trải nghiệm thực tế
Khi học TLV miêu tả luôn có 3 kiểu bài chính mà HS được học, đó là :
– Nhận dạng thể loại văn (tiết hình thành kiến thức: Cấu tạo của bài văn Tả cảnh hoặc Tả người hoặc Tả con vật …)
– Thu thập, xử lý thông tin và lập dàn ý chi tiết (các tiết quan sát – tìm ý để lập dàn ý)
– Viết đoạn văn / bài văn (các tiết viết đoạn văn / bài văn dựa vào dàn ý)
Trong khuôn khổ của luận văn, chúng tôi chỉ đi sâu tìm hiểu vào một kiểu bài nhất định đó là kiểu bài: Thu thập, xử lý thông tin và lập dàn ý chi tiết (các tiết quan sát cảnh thật, vật thật, người thật… – tìm ý để lập dàn ý). Chúng tôi lựa chọn tiết quan sát con vật thật – tìm ý: “Tả chú khỉ ở công viên Thủ Lệ” để minh họa cho việc vận dụng dạy học trải nghiệm trong kiểu bài này.
BÀI : ÔN TẬP VỀ TẢ CON VẬT
(Lập dàn ý bài văn Tả chú khỉ ở công viên Thủ Lệ.)
1. Phân tích học sinh
HS đã biết :
– Cấu trúc bài văn tả con vật (Dàn ý chung)
– Dùng một số biện pháp nhân hóa, so sánh, liên tưởng, tưởng tượng vào viết câu văn.
– Sử dụng các giác quan khác nhau để quan sát, miêu tả: thị giác, thính giác, khướu giác, xúc giác, …
HS gặp khó khăn :
– Cách quan sát con vật và ghi lại những hình ảnh vừa quan sát theo 3 phần (mở bài, thân bài, kết bài).
– Tổng hợp các chi tiết thành ý.
– Chọn lọc và sắp xếp các chi tiết (hình ảnh) thành 3 phần của bài văn.
– Phân tích cấu trúc một bài văn.
HS cần học :
– Lập dàn ý cho bài văn miêu tả chú khỉ ở công viên Thủ Lệ.
– Cách quan sát và miêu tả các bộ phận và hoạt động của chú khỉ.
– Cách chọn lọc và sắp xếp các chi tiết thành từng phần của bài văn.
2. Xác định mục tiêu
Sau giờ học, HS :
– 100% HS biết quan sát – tìm ý để hoàn thành phiếu dưới sự hướng dẫn của GV
– 50% HS biết liên tưởng, tưởng tượng khi quan sát và quan sát bằng nhiều giác quan: thị giác, thính giác, xúc giác, khướu giác, …
– 90% HS biết sắp xếp thông tin trong phần thân bài của bài văn tả chú khỉ ở công viên Thủ Lệ.
– 90 % HS lập được dàn ý chi tiết cho bài văn tả chú khỉ ở công viên Thủ Lệ.
– 75% bài văn tả chú khỉ ở công viên Thủ Lệ đúng cấu trúc của bài văn tả con vật.
* Thiết kế các hoạt động học tập
a) Chuẩn bị
– Chọn địa điểm trải nghiệm: Chuồng khỉ ở công viên Thủ Lệ
(Trong điều kiện không thể đưa HS đến địa điểm trên thì có thể cho HS xem clip “Vui chơi với khỉ ở công viên Thủ Lệ” tại địa chỉ sau:
https://www.youtube.com/watch?v=q2qpXwrro-s)
– Soạn phiếu:
+ Phiếu 1: Quan sát – tìm ý tả chú khỉ ở công viên Thủ Lệ
+ Phiếu 2: Sắp xếp ý và lập dàn ý tả chú khỉ ở công viên Thủ Lệ
– Bút bi (tùy theo số lượng HS)
b. Trải nghiệm
b1. Đưa HS đến địa điểm cần quan sát: chuồng khỉ ở công viên Thủ Lệ.
(Trong điều kiện không thể đưa HS đến địa điểm trên thì có thể cho HS xem clip “Vui chơi với khỉ ở công viên Thủ Lệ” tại địa chỉ sau:
https://www.youtube.com/watch?v=q2qpXwrro-s)
b2. Ổn định và phát phiếu
– Khi đến địa điểm cần quan sát, GV ổn định tổ chức cho HS để chuẩn bị vào bài học mới. GV có thể hỏi HS, ví dụ: Các con cảm thấy như thế nào khi được đến thăm quan ở công viên Thủ Lệ?
– GV phát cho HS Phiếu 1. Quan sát – Tìm ý tả chú khỉ ở công viên Thủ Lệ.
Sau đây, tác giả luận văn minh họa phiếu 1 dành cho HS trung bình, HS yếu. Đối với HS khá giỏi, GV có thể không cần đưa ra câu hỏi quan sát, chỉ giữ lại nội dung quan sát để các em có thể phát huy hết sự tích cực, sáng tạo của mình.
Họ và tên : ……………………… – Lớp 5A – Trường Tiểu học ……………
PHIẾU 1 : QUAN SÁT – TÌM Ý
TẢ CHÚ KHỈ Ở CÔNG VIÊN THỦ LỆ
Nội dung quan sát
Câu hỏi quan sát
Đặc điểm
Chi tiết minh họa
1. Tả bao quát chuồng khỉ
1. Chuồng khỉ được đặt ở vị trí nào trong công viên?
2. Chuồng khỉ làm bằng gì? Rộng hay hẹp?
3. Bên trong chuồng khỉ có những gì?
2. Tả hình dáng bên ngoài của chú khỉ
– Chú khỉ đó to bằng nào, trông ra sao? (Thân hình, bộ lông, khuôn mặt, đôi mắt, mũi, miệng, tay chân…)
– Nhìn chú khỉ, con liên tưởng đến nhân vật nào?
3. Tả hoạt động của chú khỉ
Trong suốt thời gian quan sát, em thấy chú khỉ có những hoạt động gì? Có hoạt động nào giống con người không?
4. Tả tính cách, sở thích của chú khỉ
1. Chú khỉ có sở thích gì?
(thể hiện qua hành động, việc làm nào?)
2. Tính cách của chú khỉ đó thế nào?
(thể hiện qua hành động, việc làm nào?)
b3. Hướng dẫn HS quan sát
+ GV giới thiệu nhiệm vụ quan sát: Hiện tại, chúng ta đang có mặt ở công viên Thủ lệ – đây là vườn thú của thủ đô Hà Nội. Bên trong công viên có nuôi rất nhiều loài động vật và được chia làm nhiều khu. Nhiệm vụ của chúng ta ngày hôm nay là phải quan sát chú khỉ trong công viên, tìm ra những nét đặc trưng, nổi bật của chuồng khỉ cũng như chú khỉ nuôi trong công viên Thủ Lệ, để bất cứ ai cũng có thể tưởng tượng, hình dung ra được về chú khỉ ở đây, dù chưa một lần được đặt chân đến. Các con đã sẵn sàng chưa? Chúng ta cùng bắt đầu nhé!
+ GV: Như tất cả những việc quan sát khác thì đầu tiên chúng ta sẽ đi theo một trình tự nhất định: Trước hết là quan sát ngoại hình bên ngoài, sau đó đến hoạt động của chú khỉ và cuối cùng là tính cách, sở thích của chú khỉ đó. Chúng ta cũng nên quan sát và miêu tả một chút về chuồng – tức là nơi ở của chú khỉ.
+ Chuồng khỉ được đặt ở vị trí nào trong công viên Thủ Lệ?
+ Chuồng được làm bằng gì? Rộng hay hẹp? Bên trong có những gì?
+ Trong chuồng có mấy chú khỉ?
+ Con hãy quan sát bao quát chú khỉ và có nhận xét gì về độ lớn, màu lông? (GV lựa chọn 1 chú khỉ trong đàn rồi yêu cầu HS tập trung quan sát và miêu tả về chú khỉ đó).
+ Hãy nhìn gương mặt của chú khỉ kìa, con thấy trên gương mặt chú có những bộ phận nào? Mỗi bộ phận đó có gì đặc biệt? Con chú ý đến bộ phận nào nhất?
+ Các con quan sát thấy chú khỉ đó làm những gì? Có hoạt động nào giống con người không?
+ Nhìn chú khỉ, con liên tưởng đến nhân vật nào?
+ Chú khỉ đó có sở thích gì? Tính cách như thế nào? Thể hiện qua hành động, việc làm nào?
+ Con ấn tượng điều gì nhất ở chú khỉ này?
+ GV kết luận: Khi các con quan sát để tìm ý miêu tả, các con phải tìm ra được những nét nổi bật, tiêu biểu, ấn tượng của chú khỉ trong công viên Thủ Lệ, để ghi lại dấu ấn trong lòng người đọc, người nghe về hình ảnh chú khỉ đó; để họ dù chưa một lần được đến công viên Thủ lệ ngắm nhìn chú khỉ ấy cũng có thể hình dung được, tưởng tượng được và cảm nhận được về chú khỉ mà các con miêu tả. Như vậy mới là thành công!
+ Đáp án mong muốn:
Nội dung quan sát
Câu hỏi quan sát
Đặc điểm
Chi tiết minh họa
1. Tả bao quát chuồng khỉ
1. Chuồng khỉ được đặt ở vị trí nào trong công viên?
– Đặt ở một góc trong công viên.
– Chuồng khỉ được đặt ở một góc trong công viên Thủ Lệ, bên cạnh chuồng vượn.
2. Chuồng khỉ làm bằng gì? Rộng hay hẹp?
– Làm bằng sắt.
– Tương đối rộng.
– Chuồng khỉ được làm bằng sắt, tương đối rộng rãi, thoáng mát.
3. Bên trong chuồng khỉ có những gì?
– Có nhiều thứ được bày trí như một khu rừng nhỏ.
– Có căn nhà nhỏ.
– Có bồn nước nhỏ.
– Có các thanh sắt bắc ngang giống như cành cây để khỉ leo trèo.
2. Tả hình dáng bên ngoài của chú khỉ
– Chú khỉ đó to bằng nào, trông ra sao? (Thân hình, bộ lông, khuôn mặt, đôi mắt, mũi, miệng, tay chân…)
– Nhìn chú khỉ, con liên tưởng đến nhân vật nào?
Bé nhỏ
– Chưa đầy một tuổi.
– Thân hình hơi gầy
– Tay chân khẳng khiu, dài lòng thòng
Đáng yêu, ngộ nghĩnh
– Bộ lông màu vàng nâu, hơi xù
– Khuôn mặt gần giống người.
– Mắt tròn xoe, tinh ranh
– Mũi cao, hơi hếch, nhìn rõ cả lỗ mũi
– Miệng rộng, khi cười càng rộng hơn
– Răng nhỏ, khá đều và trắng như sữa…
Tôn Ngộ Không
Khi nhìn chú khỉ, em nghĩ ngay đến nhận vật Tôn Ngộ Không thần thông quảng đại trong phim Tây Du Kí.
3. Tả hoạt động của chú khỉ
Trong suốt thời gian quan sát, em thấy chú khỉ có những hoạt động gì? Có hoạt động nào giống con người không?
Leo cây và chuyền cành rất giỏi
– Thoắt cái đã leo lên các cành cây.
– Đu mình từ cành này sang cành kia nhanh thoăn thoắt.
4. Tả tính cách, sở thích của chú khỉ
1. Chú khỉ có sở thích gì?
Thích ăn bánh kẹo, chuối
– Khi được cho bánh kẹo hoặc chuối, chú khỉ tỏ rõ vẻ vui mừng.
– Bóc vỏ bánh kẹo, vỏ chuối rất tài.
– Ăn rất nhanh và ngon lành.
2. Tính cách của chú khỉ đó thế nào?
Tham ăn
– Liên tục giơ tay xin ăn.
– Khi được cho ăn thì cướp rất nhanh và cướp được nhiều nhất
– Ăn vội vàng, nhồm nhoàm
Tinh nghịch, thích diễn trò
– Thích biểu diễn cho mọi người xem: đu mình, chuyền cành…
– Khi được khen thì khoái trí, kêu “khẹc khẹc”
Hay làm nũng mẹ
– Hay dụi vào người mẹ để được mẹ bắt rận.
b4. Sau khi quan sát – tìm ý tả chú khỉ ở công viên Thủ Lệ xong, GV tiếp tục phát cho HS Phiếu 2: Sắp xếp ý và lập dàn ý.
Họ và tên : …………………… – Lớp 5A – Trường Tiểu học ………………
Phiếu 2. SẮP XẾP Ý VÀ LẬP DÀN Ý
Hãy đọc lại các chi tiết mà con vừa ghi lại được khi quan sát chú khỉ ở công viên Thủ Lệ ở phiếu 1 rồi lựa chọn những chi tiết, đặc điểm tiêu biểu để đưa vào dàn ý.
1. Mở bài: Giới thiệu về chú khỉ ở công viên Thủ Lệ:
…………………………………………………..……………………………………………………………………………..…………………………………………………………………………………..…………………………………………………………………………………………..…………………………………………………………………………………………………..
2. Thân bài: (Lựa chọn, sắp xếp những chi tiết, đặc điểm tiêu biểu ở phiếu 1)
…………………………………………………..……………………………………………………………………………………..……………………………………………………………………………………..……………………………………………………………………………………..……………………………………………………………………………………..………………………………………………………………………………..………………………………………………………………………………..………………………………………………………………………………..………………………………………………………………………………..………………………………………………………………………………..………………………………………………………………………………..………………………………………………………………………………..………………………………………………………………………………..………………………………………………………………………………..……………………………………………………………………………………….
3. Kết bài: Suy nghĩ, tình cảm của em đối với chú khỉ đó:
…………………………………………………..……………………………………………………………………………………..………………………
b5. Hướng dẫn HS lựa chọn, sắp xếp ý để lập dàn ý
+ Các con hãy hoàn thành phiếu 2 này dựa trên những chi tiết các con đã quan sát và ghi lại được từ phiếu 1. (GV lưu ý HS: Khi sắp xếp ý để lập dàn ý nên đi từ tả bao quát đến tả chi tiết. Khi tả các chi tiết, HS có thể lựa chọn thứ tự miêu tả theo ý thích (bộ lông/ khuôn mặt/ đôi mắt/ mũi/ tay chân/ miệng…)
+ Khi lập dàn ý để viết bài, chúng ta có nên để các ý như trong phiếu quan sát không? Tại sao sau khi quan sát, chúng ta cần lựa chọn và sắp xếp lại ý?
+ Đọc lại các chi tiết trong phiếu 1, hãy sắp xếp các chi tiết, đặc điểm đó thành những nhóm có cùng đặc điểm chung nào đó!
(Ví dụ, với những chi tiết : “Lông vàng nâu hơi xù – Hàm răng trắng nhỏ nhắn – Mắt tròn xoe, tinh ranh … ” sẽ tạo thành một nhóm. Nhóm này được đặt tên là gì?)
+ Tương tự, yêu cầu HS sắp xếp các chi tiết, đặc điểm còn lại vào những nhóm nhất định. (GV cho HS 1 khoảng thời gian để làm bài)
+ Chúng ta nên sắp xếp các chi tiết, đặc điểm trên thành mấy nhóm? Đó là những nhóm nào?
+ Như vậy, chúng ta đã sắp xếp được thành 4 nhóm (Tả bao quát chuồng khỉ, Tả hình dáng bên ngoài của chú khỉ; Tả hoạt động của chú khỉ; Tả tính cách, sở thích của chú khỉ). Vậy khi lập dàn ý, chúng ta cần xếp các ý của nhóm nào trước? Nhóm nào sau ?
+ Qua những gì mà con quan sát và cảm nhận được từ chú khỉ ở công viên Thủ Lệ, con có suy nghĩ và tình cảm gì đối với con vật này?
+ Đáp án mong muốn
1. Mở bài: Giới thiệu về chú khỉ ở công viên Thủ Lệ:
– Giới thiệu thời gian đi thăm
– Tình cảm đối với chú khỉ
2. Thân bài: (Lựa chọn, sắp xếp những chi tiết, đặc điểm tiêu biểu ở phiếu 1)
* Tả bao quát chuồng khỉ:
– Vị trí: góc công viên, cạnh chuồng vượn.
– Làm bằng sắt, thoáng mát, rộng rãi.
– Bên trong có: căn nhà nhỏ, bồn nước nhỏ, các thanh sắt bắc ngang giống như cành cây để khỉ leo trèo.
– Có 4 chú khỉ.
* Tả hình dáng bên ngoài của chú khỉ:
– Chưa đầy một tuổi, bé nhỏ.
– Thân hình hơi gầy, tay chân khẳng khiu, dài lòng thòng.
– Đáng yêu và ngộ nghĩnh, giống hệt như Tôn Ngộ Không:
+ Bộ lông màu vàng nâu, hơi xù
+ Khuôn mặt gần giống người.
+ Mắt tròn xoe, tinh ranh
+ Mũi cao, hơi hếch, nhìn rõ cả lỗ mũi
+ Miệng rộng, khi cười càng rộng hơn
+ Răng nhỏ, khá đều và trắng như sữa…
* Tả hoạt động của chú khỉ:
– Leo và chuyền cành rất tài: thoắt cái đã leo lên các cành cây; đu mình từ cành này sang cành kia nhanh thoăn thoắt.
* Tả tính cách, sở thích của chú khỉ:
– Rất tham ăn: Liên tục giơ tay xin ăn, khi được cho ăn thì cướp rất nhanh và cướp được nhiều nhất rồi ăn vội vàng, nhồm nhoàm
– Rất tinh nghịch và thích diễn trò: thích biểu diễn cho mọi người xem: đu mình, chuyền cành… và khi được khen thì khoái trí, kêu “khẹc khẹc”
– Rất thích làm nũng mẹ, thỉnh thoảng lại ra rúc vào người mẹ đòi mẹ bắt giận.
3. Kết bài: Suy nghĩ, tình cảm của em đối với chú khỉ đó:
– Yêu quý chú khỉ.
– Mong chú khỉ được chăm sóc tốt.
– Mong có dịp gặp lại.
+ Sau khi quan sát, lựa chọn và sắp xếp ý xong, GV cho HS tự quan sát kĩ lại các ý có trong phiếu 2 và miêu tả chi tiết lại các ý đó để có nhiều tư liệu hơn khi viết bài (khuyến khích HS quan sát bằng nhiều giác quan : thị giác, thính giác, xúc giác, … và có sự liên tưởng, tưởng tượng, so sánh, nhân hóa để khi viết bài văn sẽ sống động và hấp dẫn hơn)
+ GV gợi ý để HS rút ra bài học: Khi quan sát bất kỳ một con vật nào, chúng ta đều phải : Chọn nội dung quan sát thích hợp, lựa chọn các chi tiết, đặc điểm tiêu biểu, nổi bật ở con vật đó để tả, sau đó sắp xếp các chi tiết đó thành dàn ý cho hợp lý, logic, mạch lạc.
c) Áp dụng
Tùy theo trình độ và mức độ tiếp thu bài của HS, GV có thể chọn 1 trong các phương án (các phương án tăng dần mức độ khó) sau :
* Phương án 1: GV hỏi để HS thu thập lại thông tin tả chú khỉ ở công viên Thủ Lệ.
* Phương án 2: GV tổ chức cho HS làm việc theo cặp: HS làm việc theo cặp, một em hỏi và một em thu thập lại thông tin tả chú khỉ ở công viên Thủ Lệ.
* Phương án 3: HS làm việc theo nhóm 4, một em hỏi và các em khác thu thập thông tin tả chú khỉ ở công viên Thủ Lệ.
* Phương án 4: GV ra một đề văn mới, hoặc HS ra một đề văn mới cùng dạng, sau đó cả lớp cùng làm.
* Phương án 5: Mỗi HS chọn 1 con vật để tả, GV hỏi và hướng dẫn để HS thu thập thông tin cho một đề văn mới của mình theo cấu trúc bài văn tả con vật.
d) Hoạt động tạo hứng thú và củng cố bài học
d1. Tạo hứng thú
+ Cho lớp quan sát kỹ về chú khỉ ở công viên Thủ Lệ trước khi bắt đầu học.
+ HS thi miêu tả về chú khỉ ở công viên Thủ Lệ.
+ HS thi vẽ tranh về chú khỉ ở công viên Thủ Lệ.
+ GV giới thiệu bài học.
d2. Củng cố bài học
+ Khi lập dàn ý cho bài văn tả chú khỉ ở công viên Thủ Lệ, chúng ta cần tuân thủ Cấu tạo của bài văn tả con vật. Một bạn cho cô biết, cấu tạo của bài văn tả con vật gồm mấy phần? Đó là những phần nào?
+ Từng phần có nhiệm vụ gì?
+ Khi lập dàn ý phần thân bài, chúng ta cần phải thực hiện theo những bước nào?
+ Ở bài văn tả chú khỉ ở công viên Thủ Lệ, chúng ta chọn tả những đặc điểm tiêu biểu nào của con vật? Ví dụ:
./ Khi tả chuồng khỉ, con tả những chi tiết nào?
./ Khi tả hình dáng của chú khỉ, con lựa chọn tả những đặc điểm nào?
./ Khi tả hoạt động của chú khỉ, con tả về những hoạt động gì?…
- Sau tiết học, GV giao cho HS bài tập về nhà: “Ôi, đáng yêu làm sao, một chú khỉ con đang làm trò thật là vui nhộn. Em hãy thể hiện sự thích thú của mình cho cô và các bạn biết bằng cách viết một bài văn tả lại chú khỉ ở công viên Thủ Lệ.”
7. Tiểu kết
Chúng tôi đã đi sâu tìm hiểu việc vận dụng dạy học trải nghiệm thực tế vào tiết TLV kiểu bài miêu tả con vật và đã trình bày rõ quy trình chuẩn bị bài giảng bằng dạy học trải nghiệm thực tế cũng như việc vận dụng quy trình đó để thiết kế, xây dựng một bài giảng Tả con vật lớp 5 – kiểu bài thu thập, xử lý thông tin và lập dàn ý chi tiết bằng Dạy học trải nghiệm thực tế quan sát con vật thật (Bài Ôn tập tả con vật – Lập dàn ý bài văn tả chú khỉ ở công viên Thủ Lệ).
Bên cạnh việc vận dụng dạy học trải nghiệm thực tế trong các tiết TLV miêu tả thì phương pháp dạy học trải nghiệm thực tế này cũng có thể áp dụng trong các tiết TLV kể chuyện hoặc các tiết TLV làm biên bản, báo cáo, đơn từ… Cụ thể như sau:
* Đối với các tiết TLV kể chuyện (kiểu bài thu thập, xử lí thông tin và kể chuyện):
- Hoạt động 1: Trải nghiệm: Cho HS nghe hoặc xem video một câu chuyện.
- Hoạt động 2: Phân tích:
– GV hỏi HS những chi tiết các em nhớ được sau khi nghe hoặc xem câu chuyện và viết nhanh lên bảng.
– Yêu cầu HS làm việc theo nhóm ghi lại các chi tiết các em nhớ được về câu chuyện.
– GV yêu cầu HS dựa vào những thông tin đã nhớ được có thể chia câu chuyện thành mấy đoạn? Nội dung từng đoạn?
- Hoạt động 3: Rút ra bài học:
– GV hướng dẫn các nhóm HS vẽ sơ đồ các đoạn trong truyện, đánh số thứ tự diễn ra.
– Yêu cầu HS sắp xếp các chi tiết ghi nhớ được về câu chuyện vào các đoạn thích hợp.
- Hoạt động 4: Áp dụng:
– GV cho các nhóm HS bốc thăm các đoạn của câu chuyện.
– GV hướng dẫn HS làm việc theo nhóm kể lại đoạn câu chuyện mình bốc thăm được.
– GV tổ chức cho từng nhóm kể lại câu chuyện trước lớp, có bổ sung, chỉnh sửa.
– Yêu cầu HS hoàn thiện câu chuyện của mình.
* Đối với các tiết TLV làm biên bản, báo cáo, đơn từ, GV có thể áp dụng phương pháp dạy học trải nghiệm bằng cách cho HS được làm biên bản, báo cáo về những buổi sinh hoạt lớp, những buổi Đại hội Chi đội…
Học tập qua trải nghiệm thực tế là một hình thức giáo dục học sinh theo hình thức dạy học thực tế, trên các vật thật có vị trí, vai trò rất quan trọng, là cầu nối giữa hoạt động giảng dạy và học tập ở trên lớp với giáo dục học sinh ở ngoài lớp, tạo điều kiện cho các em tăng cường vốn sống, vốn tiếng Việt, giúp các em có cảm xúc chân thực, phát huy trí tưởng tượng thông qua các hoạt động học tập, lao động, sinh hoạt tập thể, xã hội, vui chơi giải trí và qua giao lưu với bạn bè, với các thầy, cô giáo, với cha mẹ và mọi người xung quanh. Trải nghiệm thực tế không chỉ đem lại cho HS sự hứng thú với bài học, kích thích khả năng sáng tạo, ham tìm hiểu mà còn giúp các em được chủ động chiếm lĩnh tri thức dưới sự định hướng, hướng dẫn, tổ chức của GV. Đồng thời, trải nghiệm thực tế còn giúp cho bài văn của các em mạch lạc hơn, logic hơn và cũng chân thực hơn bởi các em được quan sát dưới sự hướng dẫn của GV một cách rất toàn diện và chi tiết. Chính vì thế, dạy học trải nghiệm thực tế cần được đưa vào trong các tiết học văn từ những lớp dưới để HS có những nền tảng tốt ngay từ ban đầu.
CHƯƠNG 3: THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM
Xuất phát từ mục đích nghiên cứu của đề tài, chúng tôi tiến hành thực nghiệm để kiểm tra tính khả thi và tính hiệu quả của phương pháp dạy học mà đề tài đề xuất. Chúng tôi tổ chức cho HS tham gia một tiết học quan sát – tìm ý với đề văn: “Tả chú khỉ ở công viên Thủ Lệ” đã được thiết kế có vận dụng phương pháp dạy học trải nghiệm (nêu phía trên) từ đó HS sẽ viết một bài văn hoàn chỉnh.
1. Tiêu chuẩn đánh giá
Bài văn của HS được đánh giá theo chuẩn chung như sau :
- Loại giỏi:
- HS thực hiện đúng yêu cầu của đề bài. Viết được bài văn tả chú khỉ gồm 3 phần: mở bài, thân bài, kết bài.
- Phần thân bài tả chú khỉ theo trình tự nhất định: tả hình dáng bên ngoài, tả tính cách / sở thích, tả hoạt động.
- Bài viết đủ ý, có sáng tạo, sử dụng câu văn có hình ảnh, giàu cảm xúc, sử dụng các biện pháp so sánh, nhân hoá.
- Câu văn mạch lạc, đúng ngữ pháp, không lặp từ, câu, ý, không mắc lỗi chính tả.
- Trình bày bài viết sạch đẹp.
- Loại khá:
- HS thực hiện đúng yêu cầu của đề bài, viết được bài văn tả chú khỉ gồm 3 phần: mở bài, thân bài, kết bài.
- Phần thân bài tả chú khỉ theo trình tự nhất định: tả hình dáng bên ngoài, tả tính cách / sở thích, tả hoạt động.
- Bài viết đủ ý, diễn đạt câu, từ mạch lạc.
- Loại trung bình:
- HS thực hiện đúng yêu cầu của đề bài, viết được bài văn Tả chú khỉ gồm 3 phần: mở bài, thân bài, kết bài.
- Loại yếu:
- HS chưa viết được bài văn tả chú khỉ có cấu tạo 3 phần: mở bài, thân bài, kết bài.
2. Kết quả đạt được
* Phiếu 1: Phiếu quan sát – Tìm ý tả chú khỉ ở công viên Thủ Lệ
Nhận xét
Qua việc đọc bài của HS, chúng tôi nhận thấy rằng:
– Dưới sự hướng dẫn và gợi ý của GV, HS đã thực hiện đúng được yêu cầu. Các em đã biết quan sát, nhớ và miêu tả lại được đối tượng tương đối chi tiết, cụ thể.
– Tuy nhiên, một số bài vẫn còn mắc các lỗi diễn đạt, lỗi chính tả, trình bày chưa sạch đẹp.
* Phiếu 2: Phiếu sắp xếp ý và lập dàn ý
Nhận xét
Qua việc đọc bài của HS, chúng tôi nhận thấy rằng:
– Đa số HS đã thực hiện đúng yêu cầu của bài, đã biết sắp xếp ý và lập dàn ý cho bài văn tả chú khỉ ở công viên Thủ Lệ, tuy nhiên vẫn có một số em còn sắp xếp lộn xộn các ý.
– Trong phần thân bài, HS đã biết tả chú khỉ theo một trình tự nhất định: tả chuồng khỉ, tả hình dáng bên ngoài, tính cách, sở thích và hoạt động cảu chú khỉ.
– Một vài HS vẫn còn các lỗi về diễn đạt, sử dụng câu văn đơn giản, viết sai chính tả.
- Nhận xét chung về bài làm văn Tả chú khỉ ở công viên Thủ Lệ của lớp học thực nghiệm:
– Hầu hết HS thực hiện đúng yêu cầu của đề bài. Viết được bài văn Tả chú khỉ ở công viên Thủ Lệ gồm 3 phần: mở bài, thân bài, kết bài.
– Phần thân bài phần lớn các em viết đúng theo trình tự nhất định: Tả chuồng khỉ, tả ngoại hình, tính cách và hoạt động của chú khỉ. Nhiều em đã biết sáng tạo, phối kết hợp các phần để miêu tả: Ví dụ, đan xen giữa tả hoạt động và tính cách của chú khỉ.
– Nhiều HS đã biết tách các nội dung trong phần Thân bài thành các đoạn riêng giúp người đọc dễ dàng hơn trong việc nắm bắt nội dung bài văn.
– Tuy nhiên, một số bài vẫn còn mắc các lỗi diễn đạt, lỗi chính tả, câu văn đơn giản, tối nghĩa, rườm rà, trình bày chưa sạch đẹp.
– Sau đây là bảng tổng hợp kết quả khảo sát 17 bài văn của HS khi tả chú khỉ ở công viên Thủ Lệ, như sau :
Loại giỏi
Loại khá
Loại TB
Loại yếu
7 bài
9 bài
1 bài
0 bài
3. Kết luận về thực nghiệm sư phạm
Qua thực nghiệm, chúng tôi nhận thấy rằng việc vận dụng phương pháp dạy học trải nghiệm để tạo điều kiện để HS có cảm xúc chân thật, có vốn sống thực tế, phát huy được trí tưởng tượng và nâng cao kĩ năng viết văn cho HS lớp 5 là khả quan. Xuất phát từ cơ sở lí luận và thực tiễn dạy học văn ở tiểu học, phương pháp được đưa ra hoàn toàn có cơ sở và giáo viên có thể thực hiện trong quá trình giảng dạy của mình. Đó sẽ là định hướng và luận cứ khoa học để giáo viên nâng cao hiệu quả giảng dạy phân môn TLV lớp 5.
PHẦN III. KẾT LUẬN
Qua quá trình nghiên cứu đề tài: “Nâng cao kĩ năng viết văn cho học sinh lớp 5 bằng phương pháp dạy học trải nghiệm”, chúng tôi rút ra một số kết luận sau:
Đề tài được nghiên cứu nhằm đáp ứng yêu cầu đổi mới phương pháp, cách thức dạy học theo hướng tích cực hóa hoạt động học tập của HS, biến quá trình tiếp nhận kiến thức thụ động của HS thành quá trình tìm tòi, chiếm lĩnh kiến thức một cách chủ động, tích cực dưới sự hướng dẫn và giúp đỡ của GV.
Đề tài đã tiến hành nghiên cứu và làm sáng tỏ một số vấn đề về lý luận làm cơ sở cho việc nâng cao kĩ năng viết văn cho HS lớp 5. Trên cơ sở đó, kết hợp với việc phân tích nội dung chương trình TLV lớp 5, đặc điểm tâm lí, nhận thức, ngôn ngữ và thực tiễn dạy học TLV của học sinh lớp 5, đề tài đã đưa ra được phương pháp dạy học nhằm nâng cao kĩ năng viết văn cho HS lớp 5 và khẳng định việc nâng cao chất lượng dạy viết văn cho HS lớp 5 bằng phương pháp trải nghiệm đó là một việc làm có cơ sở lý luận và thực tiễn đáng tin cậy.
Trong phần thực nghiệm, sang kiến đã tiến hành thiết kế 1 bài giảng tả con vật lớp 5, kiểu bài thu thập, xử lý thông tin và lập dàn ý chi tiết với hình thức trải nghiệm quan sát con vật thật (Bài Ôn tập tả con vật – Lập dàn ý bài văn tả chú khỉ ở công viên Thủ Lệ) và đã thu được những kết quả đáng mừng.
Từ những kết luận trên đây, chúng tôi xin đưa ra một số ý kiến đề xuất như sau:
GV cần linh hoạt vận dụng phương pháp dạy học trải nghiệm nhằm nâng cao kĩ năng viết văn cho HS lớp 5.
Đối với phương pháp dạy học trải nghiệm, GV cần tích cực cho HS tham gia trải nghiệm không chỉ trong những tiết TLV tả con vật như: Tả con mèo, con chó, con hổ, con voi…mà còn có thể vận dụng trong các tiết TLV tả cảnh, tả cây cối, tả người, đặc biệt là đối với những đề văn có thể dễ dàng cho HS quan sát trực tiếp như: Tả ngôi trường, Tả ngôi nhà, Tả cây ăn quả, Tả ông / bà, Tả cô giáo đang giảng bài .
Chúng tôi hi vọng với đề tài này sẽ đóng góp tích cực vào việc việc nâng cao kĩ năng viết văn cho học sinh lớp 5, có thể làm tài liệu tham khảo cho GV để thay đổi cách dạy – học phân môn TLV cho học sinh lớp 5 hiện nay với mục đích bài văn của các em sẽ sinh động, hấp dẫn, sáng tạo và có cảm xúc chân thật hơn.