Trung tâm Ngoại tổng hợp – bệnh viên Nhi trung ương

BV Nhi Trung ương

BV Nhi Trung ương

https://ngoainhi.com/uploads/logo-ngoai-tong-hop.png

Ngoại tổng hợp là một bộ phận quan trọng của chuyên ngành ngoại nhi, đồng thời của cả hệ thống nhi khoa, có nhiệm vụ khám, phát hiện và điều trị các bệnh lý cần phải phẫu thuật về hệ tiêu hóa, hô hấp, gan mật cho đối tượng trẻ em, đặc biệt là trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ.

Khoa Ngoại tổng hợp được thành lập cùng với những ngày đầu tiên của Viện bảo vệ sức khỏe trẻ em năm 1969. Trải qua những năm tháng kháng chiến chống Mỹ và xây dựng đất nước, khoa Ngoại tổng hợp đã có sự phát triển song hành với sự phát triển của Bệnh viện Nhi trung ương và ngành Y tế Việt Nam.

 
Tập thể khoa Ngoại tổng hợp - BV Nhi trung ương - 2020
Tập thể khoa Ngoại tổng hợp – Bệnh viện Nhi trung ương – 2020

Về tình hình nhân lực, khoa Ngoại tổng hợp có 16 bác sĩ, trong đó có 2 Phó giáo sư, 02 tiến sĩ, 81% (13/16 bác sĩ) đã có trình độ đào tạo sau đại học, 81% các bác sĩ đã có thời gian công tác trên 5 năm, đã được đào tạo trong nước và ngoài nước và có thể đảm nhiệm các ca phẫu thuật phức tạp. 04 bác sĩ là giảng viên kiêm nhiệm của trường Đại học Y Hà Nội và trường Đại học Y dược – đại học Quốc gia Hà Nội. Về điều dưỡng, 60% điều dưỡng có trình độ đại học trở lên, trong đó có 03 thạc sĩ, 01 điều dưỡng chuyên khoa I, đa số các điều dưỡng là những người đã có kinh nghiệm nhiều năm công tác.

Khoa Ngoại tổng hợp được bệnh viện tạo điều kiện cơ sở vật chất, trang thiết bị đầy đủ, đáp ứng đủ nhu cầu khám, chữa bệnh và phẫu thuật với nhiều thiết bị hiện đại như: hệ thống phòng mổ kĩ thuật cao OR1, hệ thống phẫu thuật nội soi robot Da Vinci, hệ thống phẫu thuật nội soi 3D, máy chụp cắt lớp vi tính đa dãy, máy chụp cộng hưởng từ 1,5 Tesla, hệ thống chụp SPECT, các phương tiện hỗ trợ phẫu thuật thế hệ mới như dao siêu âm, dao CUSA, ….

Dịch vụ chính của khoa Ngoại tổng hợp: khám, tư vấn và điều trị các bệnh lý thuộc chuyên ngành ngoại tiêu hóa, gan mật tụy, lồng ngực cho đối tượng bệnh nhân trẻ em.

  • Khám bệnh: Khoa hiện đang khám bệnh chuyên khoa Ngoại tổng hợp tại 2 phòng khám: D118 (khoa khám bệnh chuyên khoa) và số 23 (khoa khám bệnh đa khoa). Ngoài ra còn có Phòng khám Hậu môn trực tràng vào thứ 4 hàng tuần dành riêng cho các bệnh nhân mắc các dị tật này. Các hoạt động khám bệnh ngoài giờ, thứ Bảy, Chủ nhật liên tục được thực hiện.

  • Điều trị nội trú: các bệnh nhân có bệnh lý ngoại khoa, trước mổ và sau mổ được điều trị nội trú tại 3 đơn nguyên, nằm tại tầng 6 nhà 15 tầng.

  • Phẫu thuật có kế hoạch (mổ phiên): BN có chỉ định phẫu thuật được BS khám, tư vấn, được hội chẩn toàn khoa vào chiều thứ Năm hàng tuần và xếp phẫu thuật theo lịch tuần.

  • Hội chẩn, khám và phẫu thuật cấp cứu: kíp trực cấp cứu Ngoại tổng hợp thường trực 24/24h gồm ít nhất 03 bác sĩ, có nhiệm vụ khám, hội chẩn và phẫu thuật các trường hợp cấp cứu ngoại khoa.

  • Phẫu thuật tự nguyện ngoài giờ: BN có chỉ định phẫu thuật, được bác sĩ khám, tư vấn, được hội chẩn và xếp lịch phẫu thuật theo ngày.

Kết quả hoạt động.

 

Hoạt động khám bệnh và điều trị ngoại trú của khoa được thực hiện tại 02 phòng khám  chuyên khoa và 01 phòng khám Hậu môn trực tràng, cũng như khám bệnh ngoài giờ vào thứ Bảy, Chủ nhật hàng tuần.

Các bệnh nhân được nhập viện điều trị được sắp xếp vào 03 đơn nguyên tùy theo chuyên khoa:

  • Đơn nguyên 1: bệnh lý lồng ngực, gan mật tụy và ung bướu

  • Đơn nguyên 2: dị tật hậu môn, trực tràng, phình đại tràng bẩm sinh

  • Đơn nguyên 3: cấp cứu ngoại khoa

Số lượng bệnh nhân khám và điều trị nội trú liên tục tăng qua nhiều năm song hành cùng với sự phát triển của bệnh viện. Năm 2020, số bệnh nhân nhập viện điều trị nột trú đạt 8900 lượt, số khám và điều trị ngoại trí đạt 23600 lượt.

Hoạt động phẫu thuật có kế hoạch (mổ phiên) và mổ cấp cứu là hoạt động quan trọng của khoa Ngoại tổng hợp, được toàn thể các bác sĩ, điều dưỡng dồn mọi nguồn lực để hoàn thành nhiệm, số lượng ca mổ tăng lên qua từng năm, đặc biệt là các ca mổ loại đặc biệt, loại 1. Đồng thời tỉ lệ tai biến, biến chứng cũng ngày càng được cải thiện.

Phẫu thuật nội soi được thực hiện thường quy điều trị các bệnh lý: nang ống mật chủ, teo thực quản, thoát vị hoành, tắc tá tràng, xoắn trung tràng, phình đại tràng bẩm sinh, không hậu môn, …

Thực hiện thành công các ca phẫu thuật phức tạp như: ghép gan, cắt gan lớn theo giải phẫu, cắt khối tá tụy, phân lưu cửa chủ, cắt u sau phúc mạc có yếu tố nguy cơ chẩn đoán hình ảnh, phẫu thuật tạo hình thực quản bằng đoạn đại tràng, phẫu thuật điều trị vô hạch toàn bộ đại tràng, …

Đào tạo: phối hợp cùng Viện nghiên cứu sức khỏe trẻ em, Trường Đại học Y Hà Nội, trường đại học Y dược – Đại học Quốc gia Hà Nội và các đơn vị khác, đào tạo chuyên ngành Ngoại nhi cho các đối tượng: sau đại học, sinh viên, học viên điều dưỡng, đào tạo liên tục, bổ túc chuyên môn, …

Chỉ đạo tuyến: khoa được giao nhiệm vụ chỉ đạo chuyên môn về Ngoại nhi cho các bệnh viện tuyến tỉnh, bệnh viện chuyên khoa nhi/sản nhi khu vực phía Bắc. Trong các năm từ 2016 đến 2020, khoa đã thực hiện đào tạo, giám sát và chuyển giao kĩ thuật phẫu thuật nội soi một số bệnh lý như nang ống mật chủ, phình đại tràng bẩm sinh, thoát vị hoành, teo thực quản… tại các bệnh viện: BV sản nhi Nghệ An, Trung tâm sản nhi – bệnh viện đa khoa Phú Thọ, BV sản nhi Ninh Bình, BV sản nhi Bắc Ninh, …

Hợp tác quốc tế: Hợp tác với Bệnh viện Cựu chiến binh Đài Bắc – Đài Loan, Bệnh viện Nhi Kobe – Nhật Bản, tổ chức Project Abroad, phối hợp với Viện Nghiên cứu sức khỏe trẻ em đón nhiều đoàn bác sĩ, điều dưỡng từ Mỹ, Nhật, Đài Loan, Úc, Thái Lan, Myanmar, … đến thăm quan và học tập.

Nghiên cứu khoa học: trực tiếp thực hiện và tham gia các đề tài nghiên cứu khoa học cấp Nhà nước, cấp Bộ, cấp Cơ sở, công bố báo cáo trên các tạp chí khoa học, tham gia báo cáo tại các hội nghị khoa học trong và ngoài nước, sinh hoạt khoa học nội bộ thường kì.

Đề tài cấp Nhà nước đã nghiệm thu: Nghiên cứu ứng dụng phẫu thuật nội soi một đường rạch điều trị một số bệnh ở trẻ em (2013 – 2015), Nghiên cứu ứng dụng Robot trong phẫu thuật nội soi điều trị một số bệnh ở trẻ em (2015 – 2019). Đề tài cấp Nhà nước đang thực hiện: Nghiên cứu ứng dụng ghép tế bào gốc điều trị bệnh teo đường mật bẩm sinh ở trẻ em (thông qua 2020).

Xuất bản bài báo nghiên cứu khoa học trên các tạp chí quốc tế và hơn 50 bài báo xuất bản trên các tạp chí trong nước.